2023
Sai đi rao giảng Tin Mừng
12.7 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
St 41:55-57; Tv 33:2-3,10-11,18-19; Mt 10:1-7
Sai đi rao giảng Tin Mừng
Chúa Giêsu không chọn những người tài cao và học rộng, giàu sang và quí phái, chức vụ và uy quyền trong xã hội, nhưng Ngài đã chọn người có tấm lòng và thiện chí. Chỉ cần hai điều này thôi, còn mọi điều khác Chúa sẽ lo liệu.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Mátthêu ghi lại việc Chúa Giêsu tuyển chọn 12 Tông đồ và sai các ông đi loan báo Nước trời đã gần đến. Sứ mệnh này không phải chỉ dành riêng cho các Tông đồ hoặc những người có trách nhiệm mà cả chúng ta nữa, những người Kitô hữu, mỗi người một cách, phải loan báo về Chúa Giêsu và kêu mời mọi người vào trong Giáo hội, vào trong tình yêu của Chúa.
Theo truyền thống, bất cứ một bậc thầy nào cũng cần có các môn sinh, môn đệ để tiếp tục lý tưởng và sự nghiệp của mình. Các bậc hiền nhân trong lịch sử và các tiên tri trong Cựu ước có các môn đệ, thánh Gioan Tiền hô cũng có nhiều môn đệ. Chúa Giêsu cũng vậy, trong ba năm giảng dạy, Chúa đã kêu gọi nhiều môn đệ, trong số đó Chúa chọn 12 người làm Tông đồ, để tiếp tục sự nghiệp cứu rỗi nhân loại mà Ngài đã khởi đầu.
Chúa gọi và chọn chứ họ không tự mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị trí cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế, điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là được Chúa chọn. Các môn đệ ở lại với Người, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Có lẽ chẳng ai trong chúng ta xa lạ với xuất xứ của các Tông đồ: đa số họ là những ngư phủ nghèo nàn, thất học. Họ được chọn từ đám đông giai cấp lao động, trong số họ cũng có hai khuôn mặt tiêu biểu cho sự tranh chấp của xã hội Do thái lúc đó: Mátthêu người thu thuế và Simon nhiệt thành. Nhóm Nhiệt thành cương quyết chống ngoại xâm, sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ lề luật, còn đám thu thuế thì lại chạy theo ngoại bang, hợp tác với những kẻ đang thống trị xứ sở để trục lợi.
Có thể nói, những người mà Chúa Giêsu chọn lựa tiêu biểu cho sự thấp kém trong xã hội Do thái. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài vẫn tuyển chọn, vì đường lối Thiên Chúa khác với đường lối con người. Điều Ngài cần nơi họ không phải là cái đang là, mà là cái sẽ là. Họ tầm thường khiếm khuyết, nhưng với ơn Chúa, họ sẽ làm nên được những việc phi thường
Chúng ta thấy: mười hai Tông đồ yếu kém về mọi mặt, thế mà đã thay đổi được cả một đế quốc Rôma và cả thế giới sau này nữa. Quả thật, khi Chúa còn sống bên cạnh, các ông còn quê mùa, hay sợ sệt, tham vọng tầm thường, và khi Chúa chết, các ông bỏ trốn vì sợ liên luỵ. Thế mà sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông can đảm, khôn ngoan, đấu lý với hết mọi bậc người, ra tù vào khám vì danh Chúa, và các ông đã xây dựng nước Chúa ngay tại nơi đế quốc đã từng tiêu diệt Thầy mình và cả các ông nữa.
Tại sao họ yếu kém như thế mà dám đương đầu với những thế lực kình địch và biến đổi được cả thế giới như vậy? Thưa, họ đã trở thành những dụng cụ hữu hiệu trong bàn tay Thiên Chúa toàn năng, Ngài làm được mọi sự Ngài muốn. Còn các Tông đồ thì có một đức tin vững mạnh, nếu các ông không tin vào quyền năng Thiên Chúa đã lựa chọn các ông, ở với các ông, hỗ trợ các ông, chắc chắn các ông không bao giờ dám nhận một công việc to lớn và nặng nề như thế.
Chúa cũng sai chúng ta đi vào đời đem Tin mừng của Chúa đến cho mọi người như Chúa đã sai các Tông đồ ngày xưa, đấy là vinh dự và bổn phận của các Kitô hữu.
Các tông đồ được chọn không phải vì các ngài có tấm lòng và thiện chí như tiêu chuẩn của Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương họ trước cả khi họ biết Chúa. Các tông đồ được Chúa chọn cũng không phải vì các ông có quả tim tinh tuyền như Chúa đòi hỏi, nhưng vì lòng nhân từ của Ngài mà Ngài hy vọng sẽ hướng dẫn, dạy dỗ họ, để họ đổi mới mà thành những chứng nhân tông đồ cho muôn dân.
Với thánh sử Máccô và Luca chỉ nêu danh sách 12 tông đồ khi Chúa gọi các ngài; còn Matthêu thì nhắc đến nhóm 12, khi Chúa sai các ông đi rao giảng. Như vậy, Matthêu đã nhấn mạnh đến sứ mạng của nhóm 12 hơn là việc kêu gọi các ngài, và đề cao mối liên lạc mật thiết giữa tông đồ đoàn và sứ mạng truyền giáo. Họ là những chứng nhân tiêu biểu, đã được Chúa Giêsu huấn luyện, trao quyền hành và nhiệm vụ truyền giáo, như chính Người đã được Chúa Cha sai đi.
Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội và Thêm Sức là chúng ta được trao ban quyền năng của Chúa và được mời gọi để chia sẻ sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Giáo Hội tự bản chất có sứ vụ truyền giáo (x. AG, 2), nên mọi thành phần trong Giáo Hội đều phải có bổn phận truyền giáo. Việc làm này cần phải làm đúng theo lệnh truyền của Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Vì vậy, chúng ta không nên làm theo ý riêng hoặc vì quyền lợi riêng của cá nhân hay nhóm riêng của mình. Như thế, lời cầu xin trong kinh Lạy Cha: “Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” mới được trở thành hiện thực.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta có được sự kiên nhẫn, hiền hòa và can đảm để chúng ta luôn nhiệt thành trong sứ mạng truyền giáo, bằng việc siêng năng cầu nguyện và làm gương sáng tại những nơi đang sinh sống và với những người mà mình gặp gỡ hằng ngày.
2023
Chạnh lòng thương
11.7 Thánh Benedictô, Tu Viện Trưởng
St 32:23-33; Tv 17:1,2-3,6-7,8,15; Mt 9:32-38
Chạnh lòng thương
Thật đáng tiếc là không ai viết nhiều về một vị đã thể hiện biết bao kỳ công ảnh hưởng đến nếp sống đan viện Tây Phương. Thánh Bênêđictô được đề cập đến nhiều trong các Ðối Thoại của Thánh Grêgôriô Cả sau khi ngài chết khoảng năm mươi năm, nhưng đó chỉ là các sơ thảo của biết bao điều lạ lùng trong cuộc đời thánh nhân.
Ngài sinh trong một gia đình lỗi lạc ở Nursia, thuộc miền trung nước Ý, theo học tại Rôma và ngay từ khi còn trẻ, ngài đã thích đời sống đan viện. Lúc đầu, ngài là một vị ẩn tu sống trong một cái hang ở Subiaco, xa lánh thế giới nhiều chán nản mà lúc bấy giờ giặc ngoại giáo đang lan tràn, Giáo Hội bị phân chia bởi ly giáo, dân chúng đau khổ vì chiến tranh, đạo lý ở mức độ thấp nhất.
Sau đó không lâu, ngài thấy không thể sống cuộc đời ẩn dật ở gần thành phố, dù lớn hay nhỏ, do đó ngài đi lên núi cao, sống trong một cái hang và ở đó ba năm. Trong một thời gian, một số đan sĩ chọn ngài làm vị lãnh đạo, nhưng họ cảm thấy không thể theo được sự nghiêm nhặt của ngài. Tuy nhiên, đó cũng là lúc ngài chuyển từ đời sống ẩn tu sang đời sống cộng đoàn. Ngài có sáng kiến quy tụ các nhánh đan sĩ khác nhau thành một “Ðại Ðan Viện”, đem lại cho họ lợi ích của sự cộng tác, tình huynh đệ, và luôn luôn thờ phượng dưới một mái nhà. Sau cùng, ngài khởi công xây dựng một đan viện nổi tiếng nhất thế giới ở núi Cassino, cũng là nơi phát sinh dòng Bênêđictô.
Cũng từ đó, một quy luật từ từ được hình thành nói lên đời sống cầu nguyện phụng vụ, học hỏi, lao động chân tay và sống với nhau trong một cộng đoàn dưới một cha chung là đan viện trưởng. Sự khổ hạnh của Thánh Bênêđictô được coi là chừng mực, và đời sống bác ái của ngài được thể hiện qua sự lưu tâm đến những người chung quanh. Trong thời Trung Cổ, tất cả các đan viện ở Tây Phương dần dà đều sống theo Quy Luật Thánh Bênêđictô.
Người ta đem đến cho Chúa Giêsu một người câm bị quỉ ám. Chúa trừ quỉ ra và người câm nói được, dân chúng thấy vậy thì khâm phục quyền năng Chúa, tin tưởng Chúa là Đấng Thiên Sai; còn người biệt phái thì không chịu tin Chúa mà lại tin ma quỉ… Và Chúa đi khắp các thành các làng mạc rao giảng Tin mừng Nước Chúa và chữa lành mọi bệnh tật. Khi thấy dân chúng đông đúc không ai cứu giúp thì Ngài chạnh lòng thương họ. Ngài bảo các môn đệ xin Chúa Cha cho nhiều người đến dìu dắt họ.
Mở đầu Tin mừng là câu chuyện Chúa Giêsu trục xuất một tên quỉ ra khỏi người câm. Toàn dân thì ca tụng, nhưng người biệt phái độc miệng cho rằng: Chúa dùng quyền tướng quỉ mà trừ quỉ. Khi đã không ưa thì dưa có dòi, biệt phái tìm cách để nói xấu Chúa Giêsu, vì giáo lý của Ngài đã vạch trần thái độ kiêu ngạo, dối trá và giả hình của họ. Tuy nhiên, đối với Chúa Giêsu, sự chống đối không quan trọng khi Ngài không phản kháng, mà điều khẩn thiết hơn cả là Tin mừng phải được loan báo cho muôn dân.
Trong ý thức hệ của người Do thái, họ vẽ ra trong tư tưởng của mình một lối sống kiểu Biệt phái giả hình và đòi dân theo, họ quan niệm một thời kỳ cứu độ và một Đấng Messia giàu sang, chứ không phải hoà đồng chung bàn với người hèn kém. Từ đó họ không nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Với ý thức hệ như thế, họ không những bị trói buộc trong tư tưởng thiển cận của họ, không nhận ra được dấu chỉ của thời đại, mà còn bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như họ. Chính vì thế mà họ gièm pha những lời Chúa Giêsu nói và những việc Ngài làm. Họ tìm cách lèo lái dân thoả hiệp với họ và xuyên tạc sự thật về Chúa Giêsu, trong khi dân chúng ca tụng công việc của Chúa thì họ lại bóp méo xuyên tạc cho đó là việc của tướng quỉ.
Chúa Giêsu chạnh lòng thương trước hiện trạng của con người vất vưởng lầm than, mà những bậc làm “thầy” Do thái không giải quyết được cho họ. Họ như rắn mất đầu, thiếu vắng đời sống tâm linh. Trong bản tính nhân loại, một mình Chúa cần sự cộng tác của các môn đệ cùng làm công việc của Ngài như một “mục tử” và “lương y”. Trước sự bao la của hoạt động tông đồ, điều đầu tiên mà Chúa Giêsu yêu cầu là cầu nguyện: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa”.
Chúa Giêsu sai môn đệ đi rao giảng Tin mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho. Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo hội qua các thời đại trong lịch sử đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người.
Nhân loại ngày nay vẫn còn bơ vơ như đoàn chiên không có người chăn. Hãy tập cho mình biết chạnh lòng thương như Chúa Giêsu, để cùng với Chúa làm cho thế giới chúng ta đang sống được ấm áp tình người hơn.
2023
Niềm tin cần được rèn luyện
10 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
St 28:10-22; Tv 91:1-2,3-4,14-15; Mt 9:18-26
Niềm tin cần được rèn luyện
Con người khao khát Thiên Chúa, hay đúng hơn Thiên Chúa đã tạo dựng con người, với nỗi khao khát vô biên ấy. Con người không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, hay đúng hơn chính Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với Ngài. Thiên Chúa yêu thương con người, tình yêu của Ngài vượt trên mọi thước đo, mọi dự đoán, mọi tưởng tượng của con người, đó là tất cả những gì Chúa Giêsu đã đến để mạc khải cho con người.
Tin Mừng hôm nay ghi lại một vài cử chỉ của Chúa Giêsu đối với con người: một vị kỳ mục đến xin Ngài cứu đứa con vừa chết, người đàn bà mắc bệnh loạn huyết chi khấn thầm và sờ đến gấu áo của Ngài, cả hai đại diện của đủ mọi tầng lớp mà Chúa Giêsu gặp gỡ hàng ngày. Ngài không loại trừ bất cứ hạng người nào, bất cứ giai cấp nào trong xã hội, bởi vì tất cả đều là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Vị kỳ mục đã tìm đến với Chúa, người đàn bà đã len lỏi giữa đám đông để sờ vào Ngài, đó là hình ảnh của sự tìm kiếm mà con người không ngừng thực hiện để đến với Chúa. Nhưng thật ra, chính Thiên Chúa mới là Ðấng đi bước trước để đến với con người. Phép lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: “Ðức tin của con đã cứu chữa con”, nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa không ngừng thực hiện vì yêu thương con người.
Ông trưởng hội đường tin chắc Chúa có thể làm cho nó sống lại được, nên đến xin Chúa cứu giúp. Chúa liền đi theo ông… Dọc đường, một người đàn bà mắc bệnh băng huyết thấy Chúa thì lén sờ vào gấu áo Ngài, với niềm tin sẽ được khỏi bệnh. Và bà đã khỏi bệnh thật… Khi đến nhà ông kỳ lão, Chúa thấy người ta khóc lóc ồn ào thì bảo họ lui ra, rồi Ngài cầm tay đứa bé, nó liền sống lại. Người đàn bà băng huyết được khỏi bệnh và cô gái chết được sống lại đều nhờ lòng tin Chúa. Vì thế, đức tin rất cần cho được ơn cứu vớt phần hồn phần xác.
Ông trưởng hội đường có đứa con gái đã chết. Chính ông xác định như thế. Khi Chúa Giêsu nói nó không chết mà chỉ ngủ thôi thì đám đông nhạo cười Ngài. Ở đây chúng ta thấy đức tin của vị kỳ mục rất mạnh. Trước sự ra đi của đứa con. Tất cả mọi phương thế trần gian đã chào thua. Lịch sử chưa bao giờ nói về một người đã chết được sống lại. Chính Chúa Giêsu cũng chưa cho ai sống lại từ cõi chết, vậy mà ông đến với Chúa, ông nói chắc ăn như bắp: “Xin Ngài đến đặt tay trên nó thì nó sẽ sống lại” (Mt 9, 18).
Còn người đàn bà mắc bệnh loạn huyết: Bệnh bà rất nặng vì đã chữa trị suốt 12 năm mà không khỏi. Khi được nghe biết Chúa xuất hiện bà tin sẽ được khỏi: “Tôi chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là sẽ được cứu” (Mt 9, 20). Và đã xảy ra đúng như vậy.
Chúa Giêsu cũng xác nhận cả hai trường hợp được thụ hưởng phép lạ của Chúa là nhờ “đức tin”.
Thật ra, chính Thiên Chúa mới là Đấng đi bước trước để đến với con người. Phép lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: “Đức tin của con đã cứu chữa con”, nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa không ngừng thực hiện vì yêu thương con người.
Khi Chúa Giêsu đang giảng dạy thì ông trưởng hội đường đến bái lạy xin cứu chữa con gái ở nhà. Chúa Giêsu lên đường đi với ông về nhà. Quãng đường không biết bao xa, nhưng vì đám đông đi theo chen lấn, và xuất hiện một bà loạn huyết chen vào “phá đám”, nên chưa đến nơi thì có người đến báo là con ông đã chết. Có lẽ lúc này đức tin của ông trưởng hội đường bị đặt trước một thử thách rất lớn, bởi lẽ ra Chúa Giêsu có thể đến sớm hơn để “bệnh nhân không chết nếu bác sĩ Giêsu đến kịp”. Thế nhưng Chúa Giêsu đã vội trấn an: “Ông đừng sợ, cứ vững tin”. Và vì vững tin mà con gái ông đã được Chúa cho hồi sinh.
Cũng thế, hành trình đức tin của một Kitô hữu chúng ta là một chặng đường dài, đôi khi còn bị gián đoạn với bao yếu tố ngoại cảnh mà chúng ta không lường trước được, thậm chí có lúc tưởng chừng như tuyệt vọng. Nhưng nếu chúng ta vững chí như ông trưởng hội đường trong Tin mừng hôm nay thì sẽ được cứu độ
Trường hợp ông trưởng hội đường cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Chúa Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa, ông đã quỳ mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Chúa Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
Chúa Giêsu yêu thương con người, nên Ngài càng dứt khoát tiêu diệt tội lỗi. Ngài đến chữa con người khỏi những bệnh tật, tội lỗi, và dẫn đưa họ tới miền ánh sáng tự do. Ai có lòng tin sẽ được cứu.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: niềm tin của chúng ta cần được rèn luyện, để sau những thử thách, đức tin càng được vững mạnh hơn. Điều quan trọng là trong mọi biến cố, chúng ta luôn vững tin và tín thác vào Chúa.
2023
Bản chất của luật mới…
8.7
Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
St 27:1-5,15-29; Tv 135:1-2,3-4,5-6; Mt 9:14-17
Bản chất của luật mới…
Nhân cơ hội giải thích cho những người Pharisêu lý do vì sao các môn đệ Chúa không ăn chay, Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết về bản thân và sứ mạng của Ngài.
Trong cựu ước Thiên Chúa tự ví Người là chàng rể và Israel là nàng dâu.
Như thế khi đem trường hợp tiệc cưới ra để giải thích về việc ăn chay, Chúa Giêsu muốn cho họ biết rằng: Người là chàng rể và Israel là nàng dâu. Qua đó mặc nhiên tuyên bố Người chính là Thiên Chúa đã đến giữa lòng nhân loại. Hơn nữa, mục đích chính của việc ăn chay bấy giờ là mong đợi Đấng Messia đến. Mà Chúa Giêsu chính là Đấng Messia (chàng rể) đã đến với loài người (nàng dâu) rồi, thì cớ gì phải ăn chay.
Việc ăn chay phải gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu. Do đó lúc Người vui thì con người phải chia vui với Người. Khi Người khổ thì con người cùng chung đau khổ. Lúc Người chết thì con người phải cùng chấp nhận chịu chết với Người. Khi Người sống lại thì con người cũng cùng sống lại với Người.
Chúa Giêsu không hề phủ nhận việc ăn chay, nhưng qua lời giải đáp thắc mắc trên, Chúa Giêsu muốn cho biết: Người chính là chàng rể Chúa Cha sai đến kết hôn với loài người, yêu thương loài người và cứu độ loài người. Cũng như xác định rõ cho chúng ta biết việc ăn chay là để dọn lòng tiếp rước Chúa. Một khi đã tiếp nhận Chúa rồi thì không cần ăn chay nữa, trái lại phải vui mừng phấn khởi trong niềm tin yêu Chúa.
Câu hỏi mà các môn đệ của ông Gioan hỏi Chúa Giêsu hôm nay, tương tự với câu hỏi trước đó của những người Biệt Phái hỏi Chúa Giêsu ở câu 11. Những người Biệt Phái đã hỏi các môn đệ của Chúa Giêsu, “Tại sao thầy các ông lại ăn với những người thu thuế và tội lỗi ?” Bây giờ các môn đệ của ông Gioan hỏi Chúa Giêsu : “Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay ?” Hai câu hỏi đại diện cho hai quan điểm của sự thánh thiện đạo đức. Một quan điểm cho rằng người ta không thể cùng ăn uống đồng bàn với người tội lỗi, một quan điểm khác cho rằng người ta phải ăn chay theo luật trong mọi thời điểm.
Với câu hỏi của các môn đệ ông Gioan, Chúa Giêsu dùng ba hình ảnh khác nhau để trả lời cho họ, đồng thời Ngài giải thích lý do tại sao các môn đệ của Ngài không ăn chay như các môn đệ của ông Gioan và người Pharisêu.
Hình ảnh đầu tiên mà Chúa Giêsu đã sử dụng là Ngài đã áp dụng thuật ngữ “Tân lang” dành cho Ngài. Nếu Chúa Giêsu là “Tân lang”, các môn đệ của Ngài là “những người bạn của Tân Lang”, những người được gọi đến với Ngài là cô dâu, thì việc ăn chay vào lúc có Ngài quả thật không phù hợp. Lý do mà những người Biệt Phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là bởi vì họ đang mong đợi ngày Chúa sẽ đến như chàng rể đến. Họ đang chay tịnh để chờ đợi ngày Chúa sẽ đến khôi phục lại Israel vì họ không tin rằng lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện qua Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là “Tân lang” nghĩa là Ngài cho biết Ngài là Thiên Chúa, Đấng phải đến, đã đến !
Chúa Giêsu còn đưa ra hai hình ảnh minh họa tiếp theo về sự khác biệt giữa việc ăn chay của người Pharisêu và các môn đệ của Ngài, bằng cách cho thấy sự khác biệt căn bản giữa Giao Ước Cũ và Mới. Với hai hình ảnh minh họa này, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến trọng tâm câu trả lời cho câu hỏi được đặt ra bởi những người Biệt Phái và các môn đệ của Gioan. Không phải việc giảng dạy và mục vụ của Chúa Giêsu chỉ là một chút thay đổi luật, giống như một miếng vá mới trên tấm áo cũ là hệ thống luật hiện hành của Do Thái giáo. Không phải Ngài chỉ đến để chỉ đổ nội dung của Giao Ước Mới vào hình thức cũ của Cựu Ước như rượu mới trong bầu da cũ.
Chúa Giêsu cho họ biết, Ngài đã dẫn những ai muốn theo Ngài đi vào một thế giới hoàn toàn mới. Hình ảnh vải mới vá vào áo cũ, rượu mới đổ vào bầu da cũ, cũng giống như hình ảnh một linh kiện mới được gắn vào để nâng cấp máy tính cũ, một lớp sơn mới sơn lên một mảng tường của ngôi nhà cũ… Tất cả những thứ đó chỉ là những vá víu không hoàn chỉnh. Chúa Giêsu đến mang theo một bộ mặt mới, một tinh thần mới trong việc giữ luật. Ngài trả lời cho những người chất vấn Ngài rằng, họ không thể ép Ngài và các môn đệ của Ngài đi vào hệ thống tinh thần của luật cũ.
Áp dụng đoạn Tin Mừng cho chúng ta ngày hôm nay là gì ? Chúng ta ăn chay là bởi vì chúng ta đang sống giữa hai lần Chúa đến. Chúng ta không ăn chay như những người Biệt Phái và các môn đệ của ông Gioan đã làm trong thời Chúa Giêsu. Chúng ta ăn chay bởi vì chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là Hôn Phu của chúng ta đã đến để khai mở vương quốc của Ngài, và chúng ta háo hức chờ đón Ngài đến một lần nữa trong vinh quang.