2023
Lời Hằng Sống
22.3 Thứ Tư Thứ Tư trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Is 49:8-15; Tv 145:8-9,13-14,17-18; Ga 5:17-30
Lời Hằng Sống
Tin mừng hôm nay nối tiếp đoạn Tin Mừng hôm qua nói về trường hợp Chúa Giêsu chữa cho một người bất toại ở Betsaida trong ngày Sabat, và đã bị các người biệt phái cho rằng lỗi luật ngày hưu lễ.
Chúng ta nên biết rằng luật thời đó ngặt nghèo lắm. Ngày thứ bảy họ cấm 38 việc làm không được làm trong ngày đó. Một trong những việc đó là chữa bệnh. Cấm chữa bệnh, cấm tiếp bệnh nhân, chỉ trừ trường hợp cấp cứu, chứ những trường hợp nặng kinh niên dù gía nào cũng phải kiêng dè ngày sabat. Cho nên khi chữa bệnh như thế thì họ liền hỏi tại sao lại lỗi luật ngày đó. Chúa Giêsu thay vì trả lời trực tiếp, Chúa đã nói: “Cha ta làm việc luôn và ta cũng vậy” (c.17).
Chúng ta biết rằng việc nghỉ ngày Sabat là bắt nguồn từ Thiên Chúa. Chúa tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày, còn ngày thứ bảy Chúa nghỉ (Stk 2,2-3). Sau này Giáo hội của Chúa đã bắt nguồn từ sự kiện đó để dạy con cái rằng ngày nghỉ đó có mục đích bớt công việc phần xác hầu lo đến linh hồn mình. Đó mới gọi là mục đích việc nghỉ ngơi ngày Sabat.
Cho nên việc thiêng liêng, việc bác ái nói chung, không bao giờ được nghỉ. Chính Chúa nói: “Cha Ta làmviệc luôn luôn và ta cũng vậy” (c.17). Việc làm cho sự cứu rỗi linh hồn không bao giờ nghỉ ngơi được, không bao giờ cách quãng, để dành được. Chính Chúa đã dạy: “Phải cầu nguyện luôn” (Lc 18,1). Không có chỗ nào trong Kinh thánh mà Chúa dạy nghỉ cầu nguyện cả. Chúa nói “Cha Ta làm việc luôn và ta cũng vậy” (c.17) là có ý nói rằng trong việc cứu rỗi các linh hồn, phải làm việc liên lỉ không thể ngưng lại được. Phải làm từ ngày đầu tiên có con người cho đến ngày tận thế, ngày tận cùng của vũ trụ.
Hơn thế nữa, khi nói như vậy là Chúa muốn nói Ngài là Chúa ngày thứ bảy, Ngài đã ra luật thì Ngài có quyền châm chước luật đó là một điều dễ hiểu. Chúng ta đọc (c.19-30) là những bản văn minh chứng rằng Ngài là Thiên Chúa và cùng ngang hàng với Thiên Chúa Cha (c.19), Thiên Chúa Cha tỏ cho Chúa Con biết mọi điều (c.20): quyền tái sinh, quyền xét xử, lên án (c.21-22).
Tin Mừng cho thấy giữa Chúa Giêsu và người Dothái trở nên gây cấn hơn khi Ngài tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Nói như thế, Ngài minh định rằng: Thiên Chúa vẫn không ngừng sáng tạo và quan phòng cho con người. Nhưng điều quan trọng hơn là Ngài mặc khải cho biết: Ngài đến để thực thi thánh ý của Cha Ngài. Cuối cùng, điều làm cho người Dothái chói tai, khiến họ không chịu nổi, khi nghe Chúa Giêsu nói: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”.
Lời Chúa Giê-su không chỉ là lời Thiên Chúa, mà còn là lời nhập thể hoàn toàn. Lời Người nói với chúng ta như anh em, như bạn tri kỷ, như sư phụ hoàn toàn biết rõ thân phận con người xác thịt của chúng ta. Người còn phối hiệp toàn diện với xác thân này ngay từ khi xuống thế. Do đó lời Người nắm bắt được mọi tâm tư nguyện vọng của chúng ta và thấy được tiếng lòng rung động kỳ diệu của con tim, khối óc của những ai nghe lời Người. Người cũng biết rõ những hoàn cảnh của mọi người nam nữ chúng ta trở lại với cái gì.
Lời hằng sống đã được công bố trong bài giảng trên núi chứa đựng toàn bộ kế hoạch của Phúc âm về sự gắn bó của chúng ta vào Đức Kitô và được làm thành bản hiến chương nước-Thiên Chúa. Lời hằng sống đầy thương xót tha thứ làm sáng lên niềm hy vọng và tình yêu cho mọi người và được thốt ra từ miệng lưỡi của Đức Giê-su trước người đàn bà ngoại tình làm cho Ma-đa-lê-na thống hối, phụ nữ Sa-ma-ri bị chinh phục, ông Gia-kêu thấp bé hoán cải và người trộm lành ăn năn trở về. Cũng như Phê-rô khóc lóc vì chối Thầy. Lời hằng sống chứa đựng trong những dụ ngôn đầy hình ảnh tiêu biểu giáo huấn soi sáng, dẫn dắt chúng ta đến với Thiên Chúa.
Tin mừng cho chúng ta thấy chân dung của Chúa Giêsu. Đấng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa: “Ta đến không phải để làm theo ý Ta, nhưng là làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Nên một với Thiên Chúa, thể hiện sự nên một ấy đến cùng, đó là con đường mà Chúa Giêsu đã chọn lựa và đi cho đến cùng. Thực thế, cái chết của Chúa Giêsu gắn liền với mầu nhiệm Ba Ngôi. Người Do Thái kết án Ngài không những vì Ngài không tuân giữ ngày hưu lễ, mà còn vì Ngài tự cho mình ngang hàng với Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu là một mạc khải về Chúa Cha. Qua cái chết ấy, Chúa Giêsu nói lên tiếng xin vâng trọn vẹn với Chúa Cha. Qua cái chết ấy, quyền năng và tình yêu của Chúa Cha được tỏ bày.
Mùa chay thường gợi lại một thực hành có tính truyền thống trong Giáo hội, đó là hãm đẹp thân xác, tức là tham dự vào cái chết của Chúa Giêsu từng ngày qua những hy sinh, quên mình, để cũng được chia phần vinh quang phục sinh của Ngài, nghĩa là mỗi ngày một biến đổi để trở thành con người mới cho đến khi đạt được tầm quan mức viên mãn của Ngài. Đó là bức chân dung mà mỗi Kitô hữu đều mang trong mình và mỗi ngày họ cố gắng hoạ lại bằng cả cuộc sống của họ. Cùng với Chúa Kitô, Đấng đã nên một với Chúa Cha trong tất cả mọi sự cho đến chết, xin cho từng giây phút cuộc sống chúng ta luôn là một thể hiện thánh ý của Ngài.
Lời hằng sống loan báo những đau khổ để chuẩn bị các môn đệ và mọi người biết can đảm mạnh mẽ theo Đức Ki-tô qua mọi thời đại, sẵn sàng chịu vác thập giá khổ nạn như là nguồn hy vọng được sống lại vinh quang. Lời hằng sống nhất là đã trở thành lời hứa hấp dẫn của tế lễ Thánh Thể đưa lại sự hiện diện và tình yêu của Đức Ki-tô tồn tại mãi mãi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết hướng tới sự sống đời đời. Khi hướng về sự sống đời đời, mọi việc chúng ta làm hay nói đều được tình yêu chi phối chứ không chỉ vì luật mà làm cho chúng ta xa rời tình yêu!
Xin Chúa ban cho chúng ta biết khiêm tốn để tin tưởng vào Chúa Giêsu, yêu mến và trung thành với Ngài. Hãy biết ăn năn sám hối để được tha thứ và đáng hưởng sự sống đời đời. Amen.
2023
Lòng tin thanh luyện
21.3 Thứ Ba
Thứ Ba trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Ed 47:1-9,12; Tv 46:2-3,5-6,8-9; Ga 5:1-3,5-16
Lòng tin thanh luyện
Mọi việc Chúa Giêsu đều làm theo ý Thiên Chúa Cha. Người Do Thái không nhận ra được điều đó, vì họ mong muốn một Đấng Cứu Thế theo ý họ. Họ không nhìn thấy nơi Chúa Giêsu có nét, có vẻ nào giống như Đấng Cứu Thế mà nơi họ vẽ vời trong đầu óc tưởng tượng, nên họ chối từ Ngài và lên án Ngài khi Ngài tự khẳng định: “Ngài là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa”.
Thật ra, tất cả những gì Chúa Giêsu hành động và rao giảng đều đã được các ngôn sứ Cựu ước loan báo từ trước, người Do Thái thấy được điều đó nhưng họ không tin, chỉ vì tham vọng bá chủ toàn cầu mà họ vẫn ấp ủ, nhiều nước, nhiều dân tộc cũng mơ ước như vậy. Chúng ta thì khác, chúng ta có kho tàng mạc khải Kinh Thánh và biết rất rõ vai trò của Chúa Giêsu Kitô; nhưng trong thực tế, chúng ta vẫn sống như Chúa Giêsu chẳng ăn nhằm gì đến vấn đề mà chúng ta biết được vai trò của Chúa Kitô trong kho tàng Kinh Thánh.
Nếu như nghe đoạn Tin Mừng trên, chúng ta chép miệng một cái để cảm thông với Chúa Giêsu thì chắc là phương diện cuộc đời mình đã có nhiều đổi thay lắm. Đàng này nghe mà như chẳng nghe, thấy mà như chẳng thấy, nên có khi chúng ta còn vấp phạm nặng hơn cả những anh chị em Do Thái thời đó nữa, vì không những chúng ta chẳng quan tâm gì đến Chúa Giêsu, ngay cả đến chính Thiên Chúa là Cha cũng chẳng có nghĩa lý gì, mặc dù chúng ta là người có đạo. Điều kỳ quặc của chúng ta hôm nay là ở chỗ đó, nhiều người công giáo sẽ vô thần hơn những người vô thần, vô tín ngưỡng hơn những người không tin vào Thiên Chúa.
“Thiên Chúa làm việc, Chúa Giêsu làm việc, Chúa Thánh Thần làm việc. Cả Ba Ngôi làmviệc và Chúa Giêsu đến trần gian cốt để nói cho chúng ta biết điều ấy”. Ba Ngôi Thiên Chúa liên tục làm việc cho chúng ta, vì yêu thương và để biểu lộ lòng thương, Ngài đã tạo dựng chúng ta để chúng ta yêu thương nhau. Đây là công việc của Thiên Chúa đã từng thực hiện để chia sẻ tình yêu của Ngài cho chúng ta. Nhắm mắt trước tình yêu ấy là ta phản bội Ngài, nhưng Ngài lại tiếp tục một chương trình tái tạo và ổn định để việc Chúa Giêsu đến để hòa giải giữa chúng ta với Chúa Cha, giữa anh em lẫn nhau và với môi trường sống của chúng ta, đồng thời ban Thánh Thần để Ngài liên tục đổi mới con người, đổi mới bộ mặt trái đất cho đến khi mọi sự hoàn thành trong viên mãn.
Betsaida là một hồ nước hình chữ nhật 120m x 60m, nằm về mạn Bắc của Giêrusalem, gần ngay cửa chiên là nơi xưa kia dùng để lấy nước chung rửa máu chiên hiến tế. Chung quanh hồ này có 5 hành lang cho khách thăm viếng và bệnh nhân tới chờ phép lạ mỗi khi hồ có nước động là dấu có một thiên thần xuống ban phép lạ và ai xuống đầu tiên thì được hưởng phép lạ ấy (c.4).
Đoạn Kinh thánh hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đến hồ lúc này một các con bệnh la liệt nằm và các thân nhân chờ chực sẵn bên hồ. Giữa muôn bệnh nhân như thế, Chúa nhận ra một người đau khổ cơ đơn nhất. Hẳn anh ta bị què quặt hay bất toại tê bại gì nữa. Anh ta rất đơn độc và ta thấy được qua lời nói anh thưa với Chúa “Không có ai khiêng con vào hồ nước cả” (c.7). Anh ta bịnh tật quá lâu rồi, đã 33 năm trường, ai cũng chán giúp anh ta (c.5). Ba mươi tám năm chiến đấu với chính bản thân bệnh tật của mình, hẳn phải là một sức phấn đấu lạ thường với cơn bệnh. Khơng hẳn là anh ta đã ở hồ này 38 năm liền đâu. Nhưng cụ thể là thỉnh thoảng anh lui tới thôi. Anh còn đi chậm chạp nặng nề (c.7).
Hôm nay thấy cảnh anh nằm dài đo đất (c.8), Chúa động lòng thương xót anh. Và đó là mấu chốt cho niềm tin hy vọng cuối cùng của anh này trong cảnh đơn phương độc mã. Chúa Giêsu, Đấng mạc khải, là tình yêu đã phá tan cảnh đơn độc của anh. Chúa khởi đầu bằng một cuộc đối thoại tế nhị “Anh có muốn được khỏi bệnh không ?” (c.6). Câu hỏi có vẻ lạ đời, vì bệnh nhân nào cũng thế, chẳng mong ước gì hơn là mau được lành bệnh. Bình phục mau lẹ thì ai mà không muốn. Nhưng cịn phương tiện thuốc men, thầy thuốc, thời gian và đào đâu ra tiền để chi phí. Trường hợp của anh này còn tuyệt vọng và bi đát vì khi anh có lết được xuống hồ nước thì đã có người khác xuống rồi (c.7). Chậm chân xuống nước đục. Chúng ta thử đặt mình vào trường hợp của anh xem nỗi tuyệt vọng của anh sâu thẳm thế nào !
Nhưng giữa lúc tuyệt vọng ấy thì Chúa đã hỏi thăm anh “Anh có muốn được chữa lành không ?” (c.6) . Đó là cách Chúa thúc giục lòng tin nơi anh. Đó là cách Chúa đề nghị cứu anh ra khỏi cảnh khốn cùng, nhất là khỏi cảnh tội lỗi, mà không xúc phạm đến tự do của anh.
Chúa đã tạo dựng nên con giống hình ảnh Chúa. Chúa trung thành với việc Ngài làm. Ngài ban ơn tự do cho con người và Ngài khơng hề cưỡng bách ai phải theo Ngài bước vào nước trời. Chúa dựng nên sự tự do và Ngài tơn trọng tối đa khi họ cịn sống, Thiên Chúa chỉ mời gọi chúng ta bằng muơn cách như lương tâm, như lề luật… để chúng ta gìn giữ sự tự do đó. Chúng ta hãy coi những người biệt phái chống đối Ngài mà Chúa phạt họ nhãn tiền đâu.
Phép lạ xảy ra cho người bất toại trong Tin mừng hôm nay có thể là hình ảnh của lòng tin cần được thanh luyện. Từ 38 năm qua, con người tàn tật này chờ một phép lạ, nhưng một phép lạ gắn liền với một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không bao giờ xảy đến. Chỉ khi người tàn tật này gặp gỡ Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất lực của mình, và tin tưởng ở lời Ngài, thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực hiện.
Ngày nay, để cảm nhận được phép lạ của Thiên Chúa, chúng ta cũng cần vượt qua não trạng chỉ chờ đợi những hiện tượng khác lạ trong thiên nhiên. Người ta thích đổ xô tới nơi có hiện tượng lạ thường. Dĩ nhiên trong một số trường hợp, Thiên Chúa đã thực hiện điều đó. Thế nhưng điều quan trọng cho đức tin chúng ta không phải là những hiện tượng khác thường ấy, mà là chính sự gặp gỡ thân tình với Chúa Giêsu. Gặp gỡ Ngài, tin ở lời Ngài, kết kiệp với Ngài nhất là trong mầu nhiệm khổ nạn, con người mới cảm nhận được tác động của Ngài.
Mùa chay là mùa của thanh luyện. Giáo hội mời gọi tín hữu kết hiệp với Đức Kitô Tử nạn bằng cách sống tâm tình tin tưởng phó thác của Ngài, nhờ đó niềm tin của họ được thanh luyện và họ sẽ cảm nhận được tình yêu của Chúa.
2023
Giá trị của thinh lặng
20.3 Thứ Hai Thánh Giuse Bạn Đức Mẹ Maria
Is 65:17-21; Tv 30:2,4,5-6,11-13; Ga 4:43-54
Giá trị của thinh lặng
Chỉ có Tin Mừng Mátthêu và Luca mới nói về thánh Giuse. Theo hai thánh sử, Giuse thuộc chi tộc Đavít: người được xem như dây liên hệ giữa dòng dõi Đavít với Đấng Mêsia.
Những chặng đường đời của thánh Giuse cũng được thấy rõ: thánh nhân là con người của niềm tin và phó thác, một người được chia sẻ để hiểu biết Mầu Nhiệm của Thiên Chúa. Thánh nhân là người sống thinh lặng, được Thiên Chúa chọn làm Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria. Người cũng được trao phó việc chăm sóc con Thiên Chúa, như một người cha.
Thánh nhân sống bao lâu, chúng ta không rõ. Lần cuối cùng chúng ta thấy người xuất hiện tại Giêrusalem là khi trẻ Giêsu lên 12 tuổi.
Giáo Hội Phương Tây chính thức tôn kính thánh Giuse vào thế kỷ XIV, XV. Thánh lễ hôm nay chỉ gặp được trong phụng vụ Rôma vào năm 1621. Đức Thánh Cha Piô XI công bố: Thánh Giuse là quan thầy của Hội Thánh.
Trong các sách Tin Mừng dù có nhắc tên Thánh Giuse đôi lần, nhưng không hề thuật lại bất cứ lời nào của thánh Giuse. Có lẽ không phải vì vô tình mà Thánh Kinh không ghi nhận một lời nào của Thánh Giuse, nhưng muốn đề cao giá trị của sự thinh lặng.
Thánh Giuse khong được các thánh sử cho “phát biểu” một câu nào trong cả bốn Tin Mừng, chỉ thấy Ngài làm theo những gì được truyền: nào là bỏ ý định toan tính trốn; nào là dắt Đức Maria và Hài Nhi Giêsu đi “tị nạn” bên Ai-cập… nhất nhất cái gì cũng làm theo lời chỉ dạy của Thiên Chúa. Sự vâng phục của thánh Giuse không phải là thứ vâng lời tối mặt, mù quáng. Để thực hiện sứ mạng, ngài không được Chúa ban cho sự can thiệp đặc biệt nào ngoài những lời báo tin của thiên thần. Thế nên phải thật khôn ngoan mưu lược, thánh Giuse mới hoàn thành sứ mạng đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài thoát khỏi vòng vây trùng điệp của binh lính Hêrôđê để sang tới Ai Cập. Sự khôn ngoan của thánh Giuse càng thể hiện rõ khi hồi hương từ Ai Cập, ngài đã đưa thánh gia về Nadarét thay vì Bêlem. Thánh Giuse vâng phục thánh ý Chúa cách tuyệt đối, không máy móc mà đầy khôn ngoan và sáng tạo.
Thinh lặng giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp.
“…Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu…”
Trong bài thơ “Đà Lạt Trăng Mờ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử kêu mời ta hãy lắng đọng tâm hồn trong cỏi riêng tư để cảm nhận sâu xa vẻ đẹp thiên nhiên mà Thượng Đế yêu thương ban tặng cho. Chỉ có thinh lặng, ta mới chìm sâu vào tận đáy lòng mình để nhận ra đáy nước hồ reo, nghe thấy nhịp rung của liễu tơ và nhận ra tình yêu của đất trời.
Chính đời sống thinh lặng, Thánh Giuse mới có khả năng nhìn thấu được phía bên kia của những biến động làm xáo trộn cuộc sống của ngài. Chính trong thinh lặng ngài mới thấu suốt và tin tưởng vào những vẽ đẹp của ơn Chúa ban trước những biến cố đầy sóng gió xảy đến cho gia đình mình.
Người đời thường nói: “Lời nói là bạc, im lặng là vàng”. Thinh lặng hơn nói, vì nói chỉ là bạc mà im lặng mới là vàng, là vàng thì bao giờ cũng quí hơn bạc. Như thế thinh lặng được ví như một chuẩn mực của đạo đức, một tiêu chí của khôn ngoan thông thái.
Ông bà ta vẫn nói “Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn” (Người không biết thì lại lắm mồm vì tưởng người khác không biết như mình, người biết thì lại không nói vì nghĩ rằng mọi người đều biết”.).
Trong thinh lặng đầy khôn ngoan, Thánh Giuse đã âm thầm bảo vệ che chở Đức Maria và nuôi dưỡng Hài Nhi Giêsu trong bầu khí ấm êm của một gia đình hợp pháp. Cho nên Heidegger mới khuyên chúng ta thực tập thinh lặng, bớt nói, bớt phát biểu, bớt bàn tán….không phải để ta nên ngu muội, vô tri, nhưng để cho tâm khảm suy nghĩ hoà quyện với sinh linh vạn vật, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể thấu đạt hết mọi ngóc ngách, thông tường mọi thế thái, biến chuyển trong sự biểu đạt khôn cùng của nhân sinh, của nhiên giới.
Thinh lặng để thấu đạt được cái vô thường, cái bất biến, cái trường cửu của đất trời. Thinh lặng để thấu triệt được nội quan cũng như ngoại giới. Thinh lặng đễ thấy ta là nhỏ bé, là mong manh, là hạn hữu trong mênh mông, bao la, vô hạn giới của đất trời, của vũ trụ thường hằng và vô biên. Thinh lặng để chuyển tải nhiều hơn, thinh lặng để nói nhiều hơn, để nghe nhiều hơn, để thấu đạt nhiều hơn, có lẽ cũng đáng giá lắm thay sự thinh lặng ấy!
Trong chính sự thinh lặng của đêm vắng, Thánh Giuse đã nhận ra được ý muốn của Chúa, lắng nghe được Lời Chúa nói. Phân biệt được điều gì đúng, điều gì sai và chọn lựa cách thế thực hiện như thế nào đẹp ý Chúa nhất. Vì thế ngài được gọi là “người công chính”: làm theo ý Chúa.
Giữa bao triết lý và lắm luồng tư tưởng trong xã hội này, ta phải chọn lựa như thế nào? Giữa những nền văn hóa đa dạng và những nền văn minh phức tạp, ta biết đâu là đúng, đâu là sai? Có lẽ ta hãy học thinh lặng như thánh Giuse, để lắng đọng tâm hồn, bình tĩnh lắng nghe tiếng Chúa nói. Khi nghe được tiếng Chúa, ta phải cương quyết chọn lấy cho mình con đường. Đó là sống cho nền văn minh tình thương và văn hoá của sự sống theo gương Thánh Giuse.
2023
Tự mãn và khinh người
18.3 Thứ Bảy Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mùa Chay
Hs 6:1-6; Tv 51:3-4,18-19,20-21; Lc 18:9-14
Tự mãn và khinh người
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay mang tính ngụ ngôn, nhưng thực tế, trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người có tư tưởng khiêm tốn như ông lão trong câu chuyện trên. Thiết nghĩ, một lần khiêm tốn kiểu đó phải chăng bằng bốn lần kiêu ngạo! Nó thật giống với người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn kể về việc hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một Pharisêu và một thu thuế. Hai người này là điển hình của hai thành phần cực đoan, thái quá trong dân Dothái thời bấy giờ.
Với nhóm Pharisêu thì bảo thủ, kiêu ngạo, tự coi mình là người thành toàn, nắm toàn bộ lề luật và trở thành kiểu mẫu cho mọi người. Điều này được chứng minh qua lời cầu nguyện của ông với Thiên Chúa. Ông kể lể: “Con không gian tham, không bất công, không ngoại tình, không như người thu thuế đằng sau”; “một tuần ăn chay hai lần và dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Còn người thứ hai, bác thu thuế. Người thu thuế thì ai cũng biết, biết về tội ác của ông là phản bội và cấu kết với đế quốc La mã để hà hiếp, bóc lột, vơ vét của cải nhân dân. Vì thế, họ bị dân chúng khinh bỉ vì tội công khai của họ. Chính vì lý do đó, nên chúng ta dễ hiểu là tại sao ông thu thuế này lại đứng đằng xa, không dám ngẩng đầu lên, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Kết cục, hai người ra về và người thu thuế thì được Chúa nhận lời, còn người Pharisêu thì không những không được Chúa nhận lời mà lại còn phạm thêm tội vì coi khinh người khác ngay khi cầu nguyện.
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được. Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống chất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bầng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái : “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng… Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phaolô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên chúa. Đức Giê-su luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giê-su đã nói : “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
Nhưng thái độ hai người trước mặt Thiên Chúa khác hẳn nhau. Người biệt phái đứng thẳng lên và đứng gần sát tòa Giavê ngông nghênh kể lể những thành quả đời mình làm được. Ông không ngờ chính những việc ông làm ấy lại trở thành cô ích mà còn thêm tội trước Giavê. Cái gì đã làm cho những công việc kia ra vô ích trướcThiên Chúa ? Thưa, sự tự cao tự mãn. Ông cầu nguyện rằng: “Tôi không như người thu thuế đứng đàng sau tôi kia”.
Nói như thế chưa chắc, vì tốt khoe xấu che, xấu xa đậy lại. Nói thế mà có sống thực như thế ? Nơi đền thờ này, người biệt phái này thấy chỉ có hai người: một người tội lỗi, còn một người công chính. Người công chính đó lại là ông. Và nếu như cả thế giới lúc ấy chỉ có một người công chính, thì người đó cũng chỉ có mình ông mà thôi. Đây trước Thiên Chúa mà giữ thái độ hợm mình như vậy thì có ích gì không ? Chúa nhìn tấm lòng chứ không của lễ (Tv 49. Mt 9,13).
Còn thái độ của người thu thuế khác hẳn. Oâng đứng thẳng lên. Đứng thẳng cũng là thói quen của người Do thái khi cầu nguyện (3V 8,55. Mt 6,5). Thế người thu thuế đứng nhưng lại đứng xa bàn thờ Thiên Chúa, cúi mặt đấm ngực, thống hối trước khi bắt đầu cầu nguyện. Ông rụt rè không dám ngửa mặt lên vì ông biết mình lầm lỗi nhiều về đức công bằng. Nhưng ông dám đứng lại đó vì ông thống hối và tin vào lòng từ bi. Lòng “thống hối khiêm nhường Chúa chẳng khinh chê”. Người thu thuế cầu nguyện “Xin thương con” (c.13). Xin thương con nghĩa là xin bớt cơn giận dữ, xin tha hình phạt mà ông đáng lãnh. Oâng tự nhận, ông không có phần nào đáng được Chúa thương, nên ông mới van xin năn nỉ…
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: đừng bao giờ coi khinh người khác khi cầu nguyện. Không được phán xét anh chị em của ta, trong khi mình cũng là kẻ có tội. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên với Chúa chứ không phải quy về mình.
Hãy khiêm tốn thật lòng như người thu thuế, Chúa cần những tâm hồn trung thực và thật tâm như vậy, bởi vì tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta nhận ra động lực thâm sâu đang tác động trên mọi việc làm của chúng ta. Ước gì động lục ấy không phải là tính phô trương như người Biệt Phái ở đây mà là tình yêuthương chúng ta đặt nơi Chúa cũng như nơi tha nhân. Khi đó chúng ta sẽ không còn ảo tưởng về chính mình, mà trái lại chúng ta sẽ nhận ra con người thực của chúng ta như người thu thuế trong dụ ngôn này.
Tâm tình và cử chỉ cũng như thái độ của người thu thuế trong dụ ngôn trên đây cũng phải là tâm tình, cử chỉ và thái độ của chúng ta giờ này. Hãy bầy tỏ tâm tình và thái độ đó để chúng ta được nên công chính trước mặt Chúa.