2023
CON ĐẾN TRƯỚC TÒA NỮ VƯƠNG
22.8
Lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương
Tl 6:11-24; Tv 85:9,11-12,13-14; Mt 19:23-30
CON ĐẾN TRƯỚC TÒA NỮ VƯƠNG
Thánh vịnh 44, 10 viết rằng:” Lạy Chúa, bên hữu Ngài, Hoàng Hậu sánh vai, mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng, và trang điểm huy hoàng rực rỡ”.
Đức Thanh Cha Piô VII vào thế kỷ XIX đã cho phép rõ ràng một số giáo phận được mừng kính lễ này. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã thiết lập một lời nguyện riêng và một lễ kính riêng Đức Maria Nữ Vương. Đức Piô XII đã ước mong cho toàn thể Hội Thánh mừng lễ Đức Maria Trinh Nữ Vương. Năm 1942, chiến tranh thế giới hai bùng nổ, Đức Thánh Cha Piô XII đã dâng nhân loại cho trái tim vẹn sạch Đức Mẹ.
Năm 1944, chính Đức Thánh Cha Piô XII đã buộc toàn thể Hội Thánh mừng kính lễ Mẹ Trinh Vương một cách long trọng. Những kinh Kính Mừng, Thánh Maria và kinh Lạy Nữ Vương là những kinh ca ngợi ơn phúc của Mẹ và giúp cho con người, nhân loại cậy trông vào uy quyền của Mẹ: ” Thân lạy Nữ Vương, lạy Mẹ từ bi, nhân hậu, Mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con “. Mẹ là Mẹ của Con Thiên Chúa, là Nữ Vương hoà bình, Vương Quốc của Mẹ sẽ muôn đời tồn tại.
Khi thiết lập ngày lễ này, Đức Thánh Cha Piô XII đã mời gọi tất cả các tín hữu hãy đến ngai tòa ân sủng và xót thương của Nữ Vương và Mẹ chúng ta, để nài xin Mẹ phù trợ trong những nghịch cảnh, ban ánh sáng trong lúc tối tăm, và nâng đỡ giữa khổ đau. Ngài khuyến khích mọi người hãy nài xin ơn Chúa Thánh Thần, ra sức gớm ghét tội lỗi, và thoát ly cảnh nô lệ, để có thể dâng lên Đức Nữ Vương, từ mẫu tuyệt vời, một tâm hồn luôn luôn vâng phục và thơ thảo yêu mến.
Mẹ là người được chúc phúc giữa mọi người phụ nữ. Trong đời sống của Mẹ ở dưới thế Mẹ là người đầu tiên đón nhận được Tin Mừng từ nơi Chúa và qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, Con của Mẹ, Maria cũng là người đầu tiên đón nhận ơn cứu độ. Mẹ đã cảm tạ tri ân Chúa suốt đời Mẹ và bài ca Magnificat Mẹ cất lên là lời ngợi khen cảm tạ không chỉ trong giây lát, không phải nơi đó và lúc đó, nhưng là lời chúc tụng suốt cả đời của Mẹ: ” Đấng toàn năng đã làm cho tôi những việc cao vời. Danh của Người thật chí thánh chí tôn…Vì vậy mọi thế hệ sẽ khen tôi là người có phúc”.
Những lời lẽ như thế và với ơn phúc mà Thiên Chúa tặng ban và muôn thế hệ sẽ khen ngợi Mẹ là có phúc nói lên rõ ràng tước hiệu:” Maria Trinh Nữ Vương” của Mẹ. Thực ra, lòng tôn sùng Mẹ Maria, tôn sùng trái tim tinh khiết, vẹn tuyền, trinh khiết của Mẹ đã được các Kitô hữu trên toàn thế giới tôn kính từ lâu đời rồi.
Vương quyền cao sang của Đức Maria được gắn liền chặt chẽ với vương quyền của Con Mẹ. Chúa Giêsu Kitô là Vua vì Người có quyền toàn vẹn, riêng biệt, và tuyệt đối, trong trật tự tự nhiên cũng như siêu nhiên. Vương quyền của Đức Maria cũng vậy: phát xuất từ Con của Mẹ. Các tước hiệu Nữ Vương và Bà Chúa dành cho Đức Thánh Trinh Nữ không phải là những tước hiệu bóng bẩy.
Qua những tước hiệu này, chúng ta nhìn nhận một địa vị ưu việt, một phẩm giá và quyền năng đích thực của Mẹ trên trời cũng như dưới đất. Là Mẹ của Đức Vua, Đức Maria thực sự và đúng là Nữ Vương. Mẹ là đỉnh cao trên mọi thụ tạo, và là con người vượt trên mọi người. Thiên Chúa Toàn Năng đã đặt Mẹ vượt trên mọi thần thánh, và đổ tràn trên Mẹ tất cả ân sủng trên trời, những ân sủng từ kho tàng châu báu của Thiên Chúa, để Mẹ được miễn khỏi mọi tì ố tội lỗi. Mẹ toàn mỹ và hoàn hảo. Mẹ không thể phạm tội và thánh thiện không thể tìm được một nơi nào khác, ngoài Thiên Chúa, và không ai, trừ Thiên Chúa, có thể hiểu thấu.
Đức Maria được tôn làm Nữ Vương vì mối liên kết hợp nhất với Chúa Kitô trong tư cách là hiền mẫu, như lời sứ thần Gabriel đã tuyên xưng, và vì sự cộng tác của Mẹ trong công trình cứu độ thế giới của Con Mẹ. Với nguyên nhân thứ nhất, Mẹ là Nữ Vương vì là hiền mẫu của Đức Vua, Đấng là Thiên Chúa, nên Mẹ được tôn vinh trên mọi thụ tạo. Với nguyên nhân thứ hai, Mẹ là Nữ Vương vì Mẹ ban phát các kho tàng và thiện ích trong nước Chúa qua vai trò cộng tác trong công trình cứu độ.
Trong kinh lạy Nữ Vương chúng ta xưng tụng” Thân lạy Nữ Vương, lạy Mẹ từ bi, Mẹ là sự sống, sự ngọt ngào và hy vọng của chúng con”. Mẹ Maria được xưng tụng như Esther trong Cựu Ước đã cứu dân ra khỏi hoạ diệt vong, Nữ Vương có mọi quyền hành bên Đức Vua và là Đấng bầu cử linh thiêng nhứt bên cạnh Đức Vua. Ngày nay, những lời ca tụng Đức Mẹ hướng về vẻ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ và uy quyền của Mẹ bên ngai toà Chúa Giêsu. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của ơn cứu độ và là hoa trái tuyệt mỹ của thập giá Chúa Giêsu” Một người nữ mình mặc áo mặt trụi, chân đạp vầng trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12, 1). Mẹ Maria là người Mẹ đầy uy quyền trước mặt Chúa:” Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”(Ga 2, 5).
Chào kính Đức Nữ Vương thánh thiện! Nép vào nơi ẩn khuất chốn thung lũng, con hát mãi, trên những hoa và cỏ, ở đó con đã nhìn thấy những linh hồn bay lên. Đức Mẹ thường soi sáng chúng ta cầu nguyện và nhường công trạng cho các linh hồn đang chịu giam phạt. Mẹ làm tăng giá trị những lời cầu nguyện của chúng ta và dâng lên Thiên Chúa. Nhân danh Chúa Con, Mẹ áp dụng những công nghiệp của Người và của chính Mẹ cho các linh hồn luyện ngục. Mẹ giúp đỡ chúng ta trong việc hỗ trợ các linh hồn luyện tội.
Nếu chúng ta năng đến cùng Mẹ, Mẹ sẽ giúp chúng ta biết tự thanh tẩy tội lỗi và khiếm khuyết ngay ở đời này. Mẹ sẽ cho chúng ta được nhìn thấy Mẹ ngay sau khi qua khỏi đời này, không phải băng qua nơi đợi chờ và thanh luyện, bởi vì chúng ta đã thanh tẩy linh hồn khỏi những sai lỗi và khiếm khuyết ngay trên đời này.
Ta hãy đến ngai tòa ân sủng với niềm tín thác, để nài xin lòng thương xót và tìm ơn thánh trong những khi cùng quẫn. Như thế, ngai tòa Nữ Vương của Mẹ là biểu hiện quyền bính của Chúa Kitô. Chúa muốn Mẹ Người là một ngai tòa ân sủng, nơi chúng ta dễ dàng tìm được sự cảm thông, bởi vì Chúa ban Mẹ Người để làm trạng sư ân sủng cho chúng ta và Nữ Vương của mọi thụ tạo.
2023
Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời
21.8 Thánh Piô X, Giáo Hoàng
Tl 2:11-19; Tv 106:34-35,36-37,39-40,43,44; Mt 19:16-22
Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời
Đức thánh giáo hoàng Piô X, qua đời tại Roma ngày 21 tháng tám năm 1914, phong thánh năm 1954, nhắc ta nhớ tới một giai đoạn rối rắm và đau thương trong lịch sử Giáo hội. Các lý thuyết duy lý, duy tân và Jansenis đe dọa đức tin nguyên truyền trong lúc lửa chiến tranh thế giới thứ nhất trên đà bộc phát.
Giuseppe Sarto sinh năm 1835 tại Riese, một làng nhỏ miền Vénétie, là con một gia đình nông dân tầm thường. Sau những năm học chủng viện ở Padoua, thầy Giuseppe Sarto thụ phong linh mục, rồi lần lượt làm phó xứ, cha sở, giám mục Manton, giáo chủ Venise và hồng y năm 1893. Tại hội nghị hồng y năm 1903, Ngài được bầu kế vị Đức Lêô XIII.
Triều giáo hoàng của Ngài nổi bật với những cải tổ phụng vụ liên quan đến sách nhật tụng, Phép Thánh thể, bình ca và việc rước lễ thường xuyên. Ngài cũng cho ấn hành một cuốn giáo lý mới mà đích thân Ngài giải thích nó mỗi ngày Chúa nhật. Ngài bắt đầu công việc sửa đổi bộ Giáo luật. Việc quản trị Giáo hội đặc biệt Giáo triều Roma, cũng được sửa đổi. Thế nhưng vị giáo hoàng hiền lành đạo đức này lại gặp nhiều khó khăn, trái ý; Ngài cũng bị vướng vào nhũng rối rắm chính trị và giáo lý của một thời đại nhiều xáo trộn. Hơn nữa, Ngài linh cảm sự đe dọa của chiến tranh thế giới thứ nhất sắp bùng nổ năm 1914.
Ngài qua đời hai mươi ngày sau chiến tranh bùng nổ. Ngài nói: “Các con yêu dấu, cha hiến dâng mạng sống của cha. Hằng triệu người chết … Cha muốn giúp tránh nó, nhưng lực bất tòng tâm”. Trong chúc thư để lại, Ngài viết: “Tôi sinh ra trong cảnh nghèo và tôi muốn chết nghèo”. Thân xác Ngài vẫn còn nguyên vẹn, được tôn kính nơi Đền thờ thánh Phêrô ở Vatican
Chúa đã ban cho thánh Piô X được tràn đầy sự khôn ngoan thần linh và đức can đảm tông đồ (lời nguyện trong ngày). Ngài biểu lộ rõ rệt các đức tính đó trong suốt triều đại giáo hoàng của mình. Trước hết Ngài bãi bỏ luật Veto (phủ quyết) mà một số quốc gia vẫn còn giữ về vấn đề bầu chọn giáo hoàng, tiếp theo Ngài giải tán Opera dei Congressi, đồng thời các phong trào mà sau này, dưới đời Đức Piô XI sẽ lấy tên là công giáo tiến hành. Tại Pháp, Ngài lên án chính sách bài giáo sỹ của Combes và phản đối luật tách biệt Giáo hội khỏi Quốc gia. Cuối cùng là vụ kết án thuyết duy tân, ban đầu bằng sắc lệnh Lamentabili, sau là thông điệp Pascendi (1907).
Lời nguyện trên lễ vật thúc đẩy chúng ta học “theo các bài học của thánh Piô X hầu hết các mầu nhiệm thần linh với lòng kính cẩn, thông hiệp với chúng bằng đức tin”. Trong công cuộc của vị thánh giáo hoàng này, cải tổ phụng vụ là trọng tâm. Chính Ngài tuyên bố: “Từ nguồn suối duy nhất không thể thiếu đó tức là việc tham dự các mầu nhiệm thần linh, chúng ta có thể múc được tinh thần Kitô hữu đích thực” (Motu propio ngày 22-11-1903). Một cách nào đó, Ngài đã mở đường cho việc canh tân phụng vụ của Vatican II khi nhấn mạnh việc tham gia tích cực của giáo dân vào thánh lễ, việc canh tân âm nhạc thánh và cổ võ việc hát bình ca truyền thống. Ngài cũng thực hiện việc sửa đổi sách thần vụ bằng cách đặt ưu tiên cho việc đọc toàn bộ thánh vịnh (Hiến chế Divino Afflatu 1911) như trong phụng vụ bài đọc có nhắc lại. Trên lãnh vực thánh kinh, Đức Piô X đã có một số biện pháp như thành lập Ủy ban giáo hoàng nghiên cứu Thánh kinh (1907), lập viện kinh thánh (1909), rà soát lại bản phổ thông.
Lời nguyện tạ lễ khẩn cầu Chúa, nhân ngày lễ thánh Piô X, cho chúng ta “kiên vững trong đức tin”. Vào một giai đoạn nhiễu nhương khi các Kitô hữu cần được bảo vệ trong đức tin, thánh Piô X đã chứng tỏ sự vững chắc trong lãnh vực giáo lý công giáo, ý thức trách nhiệm chủ chăn tối cao của mình. Nhưng vị bảo vệ chính thống nồng nhiệt đó trước hết là một con người “nghèo khó, hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Phản ứng chống lại các luồng do phái Jansenius, quá khắc khổ và duy lý của thời đại, Ngài dần nổ lực để minh chứng Chúa là yêu thương. Chính vì thế Ngài đã cho tái lập việc thường xuyên đến với các bí tích, việc cử hành thánh lễ có sự tham gia tích cực của giáo dân và việc rước lễ thường xuyên. Đặc biệt, qua sắc lệnh Quam singulari (1910). Người cho phép trẻ đến tuổi có lý trí được rước lễ.
Đức Piô X khi chấp nhận làm giáo hoàng, đã thốt lên: “In crucem = đến với thánh giá”. Quả thế, các khó khăn đã chỉ gia tăng trên bước đường của Ngài, nhưng lại trở thành nguồn gốc cho tính khiêm nhu, thậm chí hiền lành trong công việc mục vụ của Ngài. Mộ chí Đức Piô X tóm tắt sâu sắc sự thánh thiện cao cả của vị thánh giáo hoàng này: “nghèo nhưng phong phú, hiền lành và khiêm nhường trong lòng, bảo vệ nhiệt thành chân lý công giáo, Người đã hiến trọn nổ lực để cải tạo lại tất cả trong Chúa Kitô”.
Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên đến gặp và xin Chúa Giêsu chỉ con đường dẫn đến sự sống đời đời, đó là một ý nghĩ khôn ngoan. Tuy nhiên, thái độ của anh đáp ứng Lời Chúa Giêsu chứng tỏ anh mới chỉ có ý nghĩ một chút về sự khôn ngoan. Anh thoáng thấy của cải không phải là hạnh phúc đích thực, vì thế, anh đến với Chúa để tìm sự khôn ngoan. Khốn nỗi, con đường khôn ngoan mới vạch ra đã bị của cải cản lối khiến anh không nhận ra được rằng sự sống đời đời mới là của cải quí giá nhất mà anh phải tìm kiếm.
Người thanh niên tìm đến với Chúa Giêsu, vì nhận thấy Ngài là một tôn sư có gì khôn ngoan hơn những bậc thầy trong dân Israel mà anh thường gặp. Anh chưa nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là tôn sư dạy sự khôn ngoan, mà còn là chính sự khôn ngoan; Ngài không chỉ đưa ra một lời dạy khôn, mà còn là lời ban sự sống đời đời; ai đón nhận và thực hiện lời Ngài sẽ được sống đời đời. Chính vì thế, anh đã sầm nét mặt, buồn sầu bỏ đi khi Chúa Giêsu bảo anh: Hãy về bán hết của cải, rồi đến theo Ngài. Anh yêu của cải hơn sự sống và hạnh phúc đời đời. Anh tưởng Lời Chúa chỉ là một trong những lời chỉ giáo muôn mặt của các bậc thầy trong Israel, có theo hay không cũng chẳng sao, cứ nắm giữ lề luật cha ông truyền lại đã đủ chiếm được Nước Trời. Do đó, anh làm sao hiểu được lời này: “Anh chỉ còn thiếu một điều”.
Anh đã thực hiện những gì ghi trong lề luật, nhưng anh còn thiếu một điều, mà thiếu điều đó, những gì anh đã nắm giữ mới chỉ là thứ công chính của Biệt phái không thể vào Nước Trời được. Ðiều anh còn thiếu chính là tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là liên kết với Ngài và thực hiện Lời Ngài. Vì Lời Ngài là lời thần linh làm cho việc tuân giữ giới răn trở thành sức sống trong tâm hồn con người.
Thật ra, tự nó, của cải không cản trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô. Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của họ, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chàng thanh niên đã đạt được hầu như mọi thứ trong cuộc sống như tiền bạc, danh vọng cùng với việc chu toàn lề luật. Tuy nhiên, anh vẫn cảm thấy một sự trống vắng nơi sâu thẳm trong tâm hồn. Anh đã tìm đến Đức Giêsu mong nhận được một giải đáp cho nỗi khắc khoải đó. Người mở lối cho anh là hãy thoát khỏi và từ bỏ những của cải đang có mà hướng đến một giá trị bền vững, đó chính là Nước Trời.
Nguyện xin Chúa kiện toàn nơi chúng ta những gì Ngài đã khởi sự, và cho chúng ta đạt tới lý tưởng là sống theo Chúa, Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống đời đời.
2023
Hãy nên như trẻ nhỏ
19.8 Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
Gs 24:14-29; Tv 16:1-2,5,7-8,11; Mt 19:13-15
Hãy nên như trẻ nhỏ
Theo truyền thống xã hội của người Do Thái, phụ nữ và trẻ em thường bị coi rẻ trong xã hội. Câu chuyện Chúa Giêsu yêu thương trẻ nhỏ trong bài Tin Mừng hôm nay được kể tiếp với câu chuyện về hôn nhân hôm qua, điều đó cho ta thấy bài Tin Mừng muốn nhấn mạnh đến tinh thần của người tông đồ phải quan tâm yêu thương lo lắng cho tất cả mọi người cho dù đó là những người dốt nát, nhỏ bé, tội lỗi hay những người bị bỏ rơi.
Do đó, mỗi người chúng ta hãy noi gương thái độ của Chúa Giêsu, Ngài luôn yêu thương đặc biệt với các trẻ nhỏ, Ngài không chừa một ai. Như vậy khi làm việc Tông đồ chúng ta cũng không được dựa vào tình cảm, thích hay không thích, nhưng là vì nhu cầu phần rỗi của tha nhân mà thôi.
Các trẻ nhỏ được Chúa Giêsu yêu thương và đưa ra làm mẫu mực cho những ai muốn bước vào Nước Trời: “Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con không được vào Nước Trời. Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, đó là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”. Tinh thần tu đức trẻ thơ là đơn sơ, phó thác, không cậy dựa vào sức riêng, nhưng đặt trọn tin tưởng vào Chúa.
Tin Mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay đề cập đến trẻ nhỏ trong một hoàn cảnh khác, với những lời của Chúa Giêsu: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời”. Người ta dẫn các trẻ em đến với Chúa Giêsu để Ngài đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Ðặt tay và cầu nguyện cho một người là nghi thức tôn giáo quen thuộc trong Do thái giáo thời Chúa Giêsu. Những vị lãnh đạo tôn giáo và các Rabbi thường đặt tay và cầu nguyện cho những ai đến xin được chúc lành; họ cũng đặt tay trên trẻ nhỏ và cầu nguyện cho chúng, mặc dù theo phong tục người Do thái thời đó, những trẻ nhỏ không có địa vị, không có giá trị gì, chỉ khi nào trẻ đến tuổi 12, nó mới được nhìn nhận có chỗ đứng trong cộng đoàn. Các môn đệ Chúa Giêsu lúc đó chưa thay đổi tâm thức, họ còn ngăn cản không cho người ta đem các trẻ nhỏ đến với Chúa.
Thái độ và lời dạy của Chúa Giêsu nhắc cho các môn đệ lúc đó và cho chúng ta ngày hôm nay rằng trong cộng đoàn Giáo Hội, mọi người không tùy thuộc hạng tuổi, đều có quyền đến với Chúa để Chúa đặt tay, cầu nguyện và chúc lành cho; không ai bị loại khỏi tình yêu và ân sủng của Chúa, dù là một đức trẻ. Các nhà chú giải đã xem đoạn Tin Mừng này như là căn bản cho việc rửa tội trẻ nhỏ được cộng đoàn tiên khởi thực hiện.
“Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng”. Chúng ta có thái độ kỳ thị, ngăn cản các trẻ nhỏ đến với Chúa không? Có những người lớn, những bậc cha mẹ rơi vào tâm thức của các môn đệ ngày xưa: họ không đem con cái đến với Chúa Giêsu, họ không nêu gương sống đức tin cho con cái, cũng không muốn cho con cái lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nại lý do tôn trọng tự do của con cái, đợi chúng lớn lên và tự quyết định muốn rửa tội hay không. Ðây là thái độ sai lầm về ơn cứu rỗi của Chúa: Ơn Chúa được ban nhưng không cho mọi người, chúng ta là ai mà dám xét đoán về điều kiện tuổi tác để được Chúa chúc lành và ban ơn cứu rỗi.
Hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu, đừng ngăn cản chúng. Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn trách nhiệm cao cả này, với ý thức rằng ân sủng và chúc lành của Chúa là kho tàng quí giá mà chúng ta có thể trao lại cho con cái chúng ta.
Lời Chúa là ngọn đèn soi bước cho người Kitô hữu. Lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu chỉ lối cho ta đạt tới cùng đích của cuộc đời: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như chúng”. Muốn vào Nước Trời, hãy trở nên như trẻ nhỏ, hãy nên như trẻ nhỏ, hãy mang lấy những tâm tình của trẻ nhỏ. Vấn đề được đặt cho chúng ta là: sống như thế nào để giống như trẻ thơ?
Trẻ thơ là một con người đang còn non yếu, luôn muốn và ưa thích đến với những người lớn và tin cậy ở người lớn. Giống trẻ thơ là đến cùng Chúa để được Chúa dạy dỗ, hướng dẫn; đến với Chúa để được tựa nương vào vòng tay an toàn, như trẻ thơ nép mình trong lòng mẹ. Trẻ thơ thì đơn sơ, trong trắng, chân thành, không nghi kỵ, vòng vo, gian dối, không tự kiêu, tự mãn, biết phó thác, tin tưởng vào Chúa quan phòng. Luôn yêu thương và tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa vì: “Mọi gánh nặng hãy trút bỏ cho Ngài, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”. Trở nên như trẻ thơ còn là mong muốn được học hỏi, luôn mở lòng mình để đón nhận những bài học, mở lòng mình để đến với người khác, mở lòng mình để được Chúa hiện diện viếng thăm, mở lòng mình để có thể gắn kết bền chặt với Chúa và anh em
Với đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta về cách sống hiền lành, khiêm tốn đón nhận mọi người. Chúa cũng dạy chúng ta hãy nên như trẻ thơ để dễ đến với Chúa. Chúng ta tự hỏi, đều gì ngăn cản chúng ta chưa đến với Chúa trong tâm tình của trẻ thơ ? Chúng ta hãy sống Lời Chúa như trẻ thơ, hãy đặt trọn niềm tin nơi Chúa và thân thưa cùng Ngài với lời Thánh Vịnh 130: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi… Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 130).
2023
Không được phân ly
18.8 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
Gs 24:1-13; Tv 136:1-3,16-18,21-22,24; Mt 19:3-12
Không được phân ly
Tin Mừng hôm nay có mấy người Pharisêu đến gần đức Giêsu để thử người: “… Có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không?”. Chúa Giêsu đã khẳng định lại luật hôn nhân gia đình theo thánh ý của Thiên Chúa: “Các ông không đọc thấy điều này sao: Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ”, và Người đã phán: “Vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt”.
Chúa Giêsu đã dùng Kinh Thánh và đôi vợ chồng ban đầu, để diễn tả ý định của Thiên Chúa mà trả lời họ: đôi vợ chồng ban đầu: Adong – Evà mà Chúa đã gắn bó đó đã nên mật thiết, “một xương một thịt”. Điều mà Kinh Thánh đã mô tả: “Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi.” (St 2, 22-23). Hình ảnh ấy cho ta thấy rằng: họ đã nên vợ chồng, con người không thể chia tách được và cũng không được phép chia cắt.
Giáo Hội xưa nay đã ca tụng hết lời công trình kết hợp thật vững bền, mầu nhiệm này của Thiên Chúa. Vững bền đến nỗi “dù tội nguyên tổ, dù án phạt đại hồng thủy cũng đã không phá hủy được.” (Lời nguyện trong thánh lễ hôn phối). Thật vậy! đôi vợ chồng ông bà nguyên tổ dù bị án phạt “đau đớn khổ sở khi sinh con, phải cực nhọc trong đời ngươi mới kiếm được miếng ăn, và còn phải chết nữa…” (St 4,16-17). Thế mà vợ chồng ấy vẫn mạnh mẽ, bền chặt bên nhau, lưu truyền giống nòi lan tràn khắp mặt đất.
Công trình tạo dựng có “nam có nữ” ấy của Thiên Chúa, đến muôn đời vẫn thật là huyền diệu. Những nam nữ ấy, cứ lớn lên là chúng hấp dẫn nhau, tìm đến nhau, khao khát nhau, cho đến khi tìm được người mình ưng ý nhất, yêu nhất để trao cho nhau thân xác tâm hồn và mọi ước vọng.
Có lần trên báo phụ nữ họ đã bàn về tình yêu, tình dục và đưa ra câu hỏi: Tại sao người nam, người nữ cứ khi trưởng thành là họ hấp dẫn nhau, khao khát nhau? Người ta đã đã đưa ra nhiều câu trả lời. Thế rồi cũng chẳng có được một lý do khoa học nào xác đáng. Cuối cùng tác giả chỉ biết dựa vào Kinh Thánh mà chấp nhận: vì họ được dựng nên “bởi xương là xương của nhau, là thịt bởi thịt của nhau.” (St 2,22-23).
Đôi nam nữ khi nên vợ, nên chồng, Thiên Chúa đã ban cho họ được hưởng một niềm vui hoan lạc đặc biệt nhất trên đời, đồng thời cũng trao cho họ một bổn phận đặc biệt nhất là: Sinh sản nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Làm một nhiệm vụ huyền diệu đặc biệt: truyền sinh và giáo dục con cái, thay cho Thiên Chúa. Điều đó có thể nói: người không sống trong bậc vợ chồng thì không được quyền hưởng niêm vui hoan lạc ấy và cũng không có thể làm tốt nhất bổn phận sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục ấy. Bởi vi khi sinh ra những đứa con, là hạt giống, là tương lai của cả nhân loại. Đứa con ấy “bởi xương là xương của cả vợ cả chồng, bởi máu thịt là máu thịt của cả chồng cả vợ”. Ai xúc phạm đến đứa con ấy là động đến cả chồng, cả vợ, cả gia đình ba thành phần ấy họ đã nên “một”. Cho nên mầm sống tương lai ấy, sẽ được yêu thương và chăm lo tốt đẹp nhất.
Luật Chúa đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị, không phải chỉ cho người Công giáo nhưng cho mọi người. Còn Môsê đã “cấp giấy ly dị mà rẫy vợ”, đây như là một luật dân sự hôm nay. Còn Chúa Giêsu thì dạy ta: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môse đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu không có thế đâu”. Đó là luật vàng và là đặc tính của hôn nhân Công giáo xưa nay: đơn hôn và vĩnh hôn (một vợ một chồng sống với nhau trọn đời). Luật này còn bên trên cả luật độc thân giáo sĩ mà Giáo Hội lập ra. Vì có lý do Giáo Hội đã tiếp nhận cả những linh mục đã có vợ con của Tin Lành vào thi hành chức vụ linh mục.
Một đôi vợ chồng bỏ nhau, họ ra tòa ly dị rồi chia nhau mọi thứ tài sản, tiền bạc. Còn một đứa con nhỏ nó không chịu đi với mẹ như tòa xử, mà muốn ở một nhà có cả cha lẫn mẹ. Sau này cha mẹ mỗi người một nơi, không được như ý muốn, em hận cho số kiếp mà bỏ đi bụi đời rồi nghiện hút, trộm cắp…
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tính bất khả phân ly của Bí tích Hôn Nhân trong Giáo Hội. Luật này do chính Chúa đặt ra chứ không phải do con người. Hơn nữa, hình ảnh người nam, người nữ kết hợp và thủy chung với nhau diễn tả hình ảnh Đức Kitô yêu thương Giáo Hội và không bao giờ xa lìa Giáo Hội.
Vì thế, nguyện ước sống chung, không phải do loài người đặt ra, nhưng chính Thiên Chúa se kết người nam và người nữ, để yêu thương, giúp đỡ nhau, sống trung thành với nhau đến trọn đời. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi. Vì vậy, Đức Giêsu nói rõ ràng rằng: “Trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực, rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình”.