2023
Kết Án Tội Mù Quáng
28.8
Thánh Augustinô, Gmtsht
St 1:2-5,8-10; Tv 149:1-2,3-4,5-6,9; Mt 23:13-22
Kết Án Tội Mù Quáng
Augustinô chào đời năm 354 trên đất Phi Châu đầy sức sống. Xuất thân từ một gia đình trung lưu với những khuynh hướng tôn giáo hỗn hợp: Cha chàng là Patricius, một người ngoại đạo sống khá phóng túng, nuôi nhiều tham vọng cho cậu con trai đầy hứa hẹn này. Mẹ chàng là Monica, một Kitô hữu sốt sắng đã dành cho chàng một tình thương đặt biệt sáng suốt, đã phải khuyên răn và khóc lóc nhiều về hạnh kiểm của con mình nhưng cuối cùng đã được chứng kiến cuộc trở lại của Augustinô và đồng thời được Augustinô dẫn lên những đỉnh cao của chiêm niệm và lòng say mê Thiên Chúa.
Nói về thiếu thời của mình, Augustinô tự nhân: “Tôi chỉ ham chơi”. Cậu bé thần đồng ấy rất sợ đi học, nhưng khi đã bị đẩy đến trường thì cậu trở thành một học sinh ưu tú vượt hẳn các bạn đồng liêu.
Đặt nhiều hy vọng vào con đường học vấn của cậu, thân sinh đã gửi cậu đến Carthagô là một trong những trung tâm văn hóa trứ danh nhất thời đó. “Tôi đến thành Carthagô, tất cả chung quanh tôi vùng dậy những quay cuồng đam mê ngang trái”.
Augustinô học hành xuất sắc bao nhiêu thì ăn chơi cũng sành sỏi bấy nhiêu. Chàng đã yêu và yêu tha thiết với sức đam mê mãnh liệt của loài người với một trái tim nóng hổi, với tất cả giác quan nhạy bén. “Lao mình vào tình ái, tôi muốn bị kẹt trong đó luôn”.
Với tài hùng biện sẵn có, Augustinô tự rèn luyện khoa ăn nói và làm quen với các văn hào la tinh, với các triết gia Hy Lạp. Một hôm tình cờ chàng giở quyển Hortensius của Cicéron, và nhận được ánh sáng bừng chiếu qua những hàng chữ của tác giả.
“Quyển sách này đã đổi hẳn các tình cảm của lòng con, hướng con về với Chúa, các ước nguyện và ý muốn của con được xoay chiều. Tất cả những ước mộng viển vông trở thành phi lý. Với một sức mạnh phi thường, con thèm muốn đức khôn ngoan bất diệt. Con bắt đầu đứng dậy trở về với Ngài”.
Từ Carthagô, cuộc sống dần đưa chàng đi tìm kế sinh nhai tại Rôma, Milan. Augustinô nay đã 30 tuổi, với thời gian, nhiều mộng đẹp đã tan vỡ. Những khó nhọc của cuộc sống giúp chàng trưởng thành hơn.
Cho tới một ngày kia, ơn Chúa đã toàn thắng, như một cơn gió lốc cuốn đi tất cả những do dự, khắc khoải trong lòng Augustinô. Một hôm, ngồi ngoài vườn với một người bạn chí thân, Augustinô nghe tiếng trẻ nhỏ nhẩm câu:
“Hãy cầm lấy mà đọc”. Nghe vậy, Người mở thánh thư và câu đâu tiên Người đọc là: “Hãy mặc lấy Đức Kitô và đừng thỏa mãn với những đam mê xác thịt”.
Câu này quả dành riêng cho Augustinô đó. Đây chính là lời đáp của ơn trên. Augustinô chạy báo tin vui này cho mẹ. Bà điềm nhiên trả lời: “Mẹ đã biết mà, Mẹ ở đâu thì con cũng sẽ đến đó”. Sứ mệnh của bà đã chấm dứt, bà mừng rỡ thấy Augustinô bắt đầu cuộc sống mới. Từ nay, Augustinô sẽ rảo bước trên con đường của Luật Chúa.
“Dưới sự hướng dẫn của Ngài, Lạy Chúa, con đã bước vào chính thâm tâm con. Con đã làm được điều đó nhờ sức Chúa nâng đỡ.”
Sau khi khám phá Thiên Chúa là Đấng đáng để cho ta bán hết tất cả để đi theo, Augustinô quyết tâm rút vào sa mạc sống ẩn dật để được thưởng thức Chúa, nhưng Augustinô sẽ không bao giờ được sống ẩn dật lâu. Danh tiếng của ngài đã được truyền lan, dân chúng theo đuổi Augustinô xin ngài hướng dẫn họ, xin ngài cố vấn cho họ trong công ăn việc làm, chỉ dẫn cho họ đường ngay nẻo chính.
Một hôm, trong khi dự lễ tại Hippone, dân chúng nảy ra ý kiến: Augustinô sẽ làm Linh mục của họ, và hơn thế nữa sẽ là Giám Mục chăn dắt học. Ý dân là ý trời, ngay lúc đó Augustinô được tôn làm làm Linh mục và sau một thời gian Augustinô trở thành Giám Mục của dân.
Vì mến Chúa đi đôi với yêu người, Augustinô mang tất cả kinh nghiệm, kiến thức rộng lớn của mình để phục vụ anh em. Nhưng trên hết mọi sự, Augustinô là con người của tình yêu: Ngài dành trọn vẹn tất cả khả năng yêu đương cho Chúa và cho anh em, điểm nổi bật của Ngài là một trái tim nóng hổi.
Năm 430, sau một cơn hấp hối, Augustinô về với Chúa, Đấng mà Ngài đã tha thiết mến yêu.
Toàn chương 23 Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại những lời kết án của Chúa Giêsu đối với các Luật sĩ và Biệt phái. Nhưng trước khi công bố 7 lời kết án đó, tác giả Mátthêu ghi lại nhận định chung của Chúa Giêsu (c.1-12): Chúa Giêsu, Ngài đề ra luật sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài, Ngài là vị thầy duy nhất thay thế Môsê và các vị thầy nhân loại khác, Ngài muốn cho các môn đệ đừng rơi vào thái độ của những Luật sĩ và Biệt phái: mù quáng, giả hình, vụ hình thức, chú trọng đến cái phụ thuộc mà bỏ quên giáo lý làm linh hồn cho những hình thức bên ngoài.
Ba lời lên án của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cùng một điểm chung là sự mù quáng. Vì mù quáng, các Luật sĩ và Biệt phái chẳng những không được vào Nước Trời, mà còn cản trở những ai muốn vào đó; vì mù quáng, họ chỉ muốn khoe khoang lòng nhiệt thành tông đồ của họ, chứ không thực sự nhằm đến ơn cứu rỗi của những người họ muốn đưa về cùng Chúa; vì mù quáng, họ thay đổi luật Chúa theo ý riêng để có lợi cho cá nhân, chứ không thực sự màng đến luật Chúa.
Ðó là ba lời kết án của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã tự ví mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm chiên lạc, như thầy thuốc cần cho bệnh nhân, như một Vị Thiên Chúa quyền năng sẵn sàng tha thứ và giải phóng con người tội lỗi. Thế nhưng, Ngài đã không sợ đưa ra những lời kết án mạnh mẽ, thẳng thắn: “Khốn cho các ngươi”, không phải vì Ngài không còn lòng nhân từ và tha thứ, nhưng vì sự cứng lòng chai đá của con người đã đến mức tột cùng; không hoán cải khỏi thái độ giả hình, mù quáng, lạm dụng tôn giáo, con người không thể hưởng được tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta khỏi thái độ mù quáng, khép kín, tư lợi, và cho chúng ta biết sống khiêm tốn, chân thành trước mặt Chúa và đối với anh em, để chúng ta xứng đáng hưởng chúc lành của Chúa.
2023
Yêu Chúa – Phục vụ anh em
25.8 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi Mùa Quanh Năm
R 1:1,3-6,14-16,22; Tv 146:5-6,7,8-9,9,10; Mt 22:34-40
Yêu Chúa – Phục vụ anh em
Tin Mừng hôm nay thuật lại sự việc một người thông luật đến hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong sách luật Môi sê điều răn nào là điều răn lớn nhất?” Chúa Giê su liền trả lời: “ Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là: Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình.”
Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Và Ngài còn cho phép chúng ta được gọi Ngài bằng một danh từ rất thân yêu là: Cha; “ Abba” Cha ơi. Vậy thì với lòng biết ơn, với lòng kính trọng và hiếu thảo thì lẽ đương nhiên là chúng ta phải yêu mến, phụng sự Chúa mới là điều phải lẽ. Kế đến mọi người cùng được Ngài sinh ra thì chúng ta cùng là con một Cha vì thế, lẽ đương nhiên là chúng ta phải yêu thương nhau rồi. Lại nữa việc chúng ta thương yêu mọi người như chính mình cũng là lệnh truyền của Người Cha cho nên, để thể hiện là người con hiếu thảo với Đấng đã dựng nên, nuôi dưỡng và chăm sóc mình thì trách nhiệm và bổn phận của người con là phải thực hiện ý muốn của Cha mình.
Sau nhiều lần những người Pharisêu vì ghen ghét mà bới móc, chất vấn Chúa Giêsu và đã bị Người làm cho phải “câm miệng”. Hôm nay họ lại “họp nhau lại, rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Chúa Giêsu để thử Người: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Một cơ hội Chúa dạy cho họ và cũng làm cho họ phải “câm miệng” nữa, Người đã trích dẫn điều thứ nhất trong mười điều răn Thiên Chúa đã truyền cho ông Môsê trên núi Xinai, trước đó cả nghìn năm: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất”. Nhưng chưa hết, Chúa Giêsu tiếp tục:“Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”. Thật là kỳ diệu và khôn ngoan, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh và khẳng định diều răn một là “quan trọng nhất”, nhưng điều răn hai “cũng giống điều răn ấy”. Vậy là hai giới răn này đã nên một điều răn quan trọng nhất của đạo Chúa là: “Mến Chúa và Yêu Người”.
Con người phải kính mến Thiên Chúa mà Chúa Giêsu nhắc lại trên, thực ra đó là luật tự nhiên mà khi tạo dựng loài người Thiên Chúa đã khắc ghi vào tâm hồn họ. Vì thế giáo lý Công giáo đã dạy: “Con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa… Họ nhìn xem trời đất muôn vật và trật tự lạ lùng trong vũ trụ, liền nhận biết có Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và an bài mọi sự”. Điều ấy cũng có thể nói: người chưa nhận biết Thiên Chúa là họ chưa được hưởng dồi dào cái ơn huệ làm người đó. Từ nhận biết ấy con người biết tôn phục kính sợ Đấng Tạo Hóa là sức mạnh, là nguyên nhân của mọi hiện tượng, vật chất trong vũ trụ này mà họ đang phải nương nhờ. Từ niềm tin đến cậy nhờ rồi người ta kính mến và cả khao khát Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của họ nữa.
Dân tộc Việt Nam, khi chưa được biết đạo Chúa họ đã biết thờ Trời, đó là nhận xét của các nhà truyền giáo. Ngày nay còn để lại những câu ca dao, những phương ngôn đầy lòng tôn sợ, tin tưởng, cậy nhờ, kính mến Đấng Trời của họ cũng là Thiên Chúa của chúng ta hôm nay: “Trời sinh voi Trời sinh cỏ”, “không có Trời ai ở với ai”, “Khởi sự tại nhân, thành sự tại Thiên”, “Ơn Trời mưa nắng phải thì”, “Ông Trời có mắt”, “Khôn đâu có lọi với Trời”, “Lưới Trời lồng lộng tuy thưa mà khó thoát”…
Còn Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa đến cứu chuộc nhân loại, Người chỉ rõ cho ta cách thức yêu mến Thiên Chúa và yêu thương con người: Người dạy ta gọi Thiên Chúa là Cha khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”, chỉ cho ta thấy rõ nhất tình yêu của Thiên Chúa là người cha, người bố mẹ của nhân loại. Đồng thời chỉ cho ta bổn phận phải kính mến của những người con đối với người Cha ấy. Người còn dạy: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy… mà ai yêu mến Thầy sẽ được Cha của Thầy yêu mến… Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”(Ga 14 15-23).
Về yêu tha nhân: Chúa muốn ta yêu tất cả mọi người vì đều là tạo vật, là hình ảnh của Thiên Chúa, đều là những người con, những anh em đang cùng sống trong một ngôi nhà là trái đất này mà Thiên Chúa đã tạo dựng. Lẽ nào ta lại không phải yêu thương nhau? Lẽ nào không yêu thương mà chúng ta còn cùng tồn tại được chăng? Vậy hãy yêu thương nhau theo khuôn vàng thước ngọc Chúa đã dạy: “Những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em hãy làm cho người ta”. (Mt 7, 12), “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 15, 12-13), “đã hiến mạng sống vì anh em”.
Thánh Phanxicô Assisi, ngài được chọn là “con người của thiên niên kỷ thứ hai”, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chọn quê hương và ngày lễ kính Ngài để quy tụ các nhà lãnh đạo các tôn giáo. Vì ngài có lòng yêu thương phi thường. Lòng yêu thương không chỉ đối với con người mà còn đối với tất cả mọi loài thụ tạo. Ngài thường chuyện trò với những thú vật, gọi chúng là bạn và mời gọi hãy cùng ta ca tụng Chúa.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa Thiên Chúa muốn nhắc nhở chúng ta trong cuộc đời trần thế này phải thực thi trọn vẹn hai điều răn quan trọng nhất. Nếu chúng ta chỉ kính mến Chúa mà ghét bỏ anh em mình thì như thánh Gioan nói: “Kẻ nào nói kính Chúa mà không yêu người thì đó là kẻ nói láo”. Vậy thì lòng kính mến Thiên Chúa và yêu người anh em phải luôn được thực thi cách song hành, có như thế chúng ta mới trở thành những người con có hiếu vì biết thực thi ý muốn của Người Cha.
2023
Người Israel lòng dạ ngay thẳng
24.8 Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ
Tl 11:29-39; Tv 40:5,7-8,8-9,10; Mt 22:1-14
Người Israel lòng dạ ngay thẳng
Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Nathanaen, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu đã khen ông: “Ðây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng” (Ga 1, 47b). Khi Natanien hỏi Chúa Giêsu làm sao Ngài biết ông, Chúa Giêsu trả lời “Tôi thấy anh ở dưới cây vả” (Ga 1, 48b). Ðiều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Nathanaen phải kêu lên, “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel” (Ga 1, 49b). Nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng lại, “Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!” (Ga 1, 50)
Theo truyền thuyết truyền lại, thì thánh nhân là người có tầm vóc trung bình với mái tóc đen, nước da trắng trẻo, và đôi mắt tròn, lớn ẩn sâu trong hai con mắt hơi rộng, ngày ngày Ngài đọc kinh có tới trăm lần. Giọng nói của Ngài sang sảng và có sức thu hút lạ thường. Vẻ mặt Ngài luôn luôn vui tươi, Ngài cũng được ơn nói nhiều thứ tiếng và biết mọi sự tương lai. Với những ơn đặc biệt ấy, danh tiếng Ngài chả mấy chốc lừng lẫy như sóng cồn, khiến bao nhiêu con bệnh cũng như bao nhiêu người mắc cơn nguy biến đều tìm đến xin thánh nhân cứu chữa.
Bấy giờ vua Pôlêmon có một công chúa bị quỷ ám. Vua đã nhờ các quỷ khác trừ nhưng vô hiệu quả, nghe nói thánh nhân có uy quyền trừ được tà ma, đầu tiên nhà vua không tin, nhưng phần tin công chúa, phần muốn thử tài của Ngài nên vua cho mời thánh nhân tới. Sau khi cầu nguyện sốt sắng, thánh nhân đã trừ quỷ và chữa cho công Chúa khỏi.
Trước phép lạ nhãn tiền này, nhà vua cho người mang vàng bạc hậu tạ thánh nhân, nhưng Ngài một mực khước từ. Một đêm kia vua Polêmon chiêm bao thấy thánh nhân hiện đến và nói với nhà vua rằng: “Tôi đến đây không phải để gầy dựng gia nghiệp, thu tích vàng bạc nhưng để cứu rỗi các linh hồn, giải phóng người ta khỏi ách lầm than của ma quỷ.
Đồng thời vua cũng được thánh nhân giảng cho biết qua về Chúa Giêsu và hứa sẽ chỉ tên vạch mặt quỷ Atarôt, bằng cách bắt nó tuyên xưng Chúa Kitô rồi mới trục xuất nó ra một lần nữa. Sự việc xẩy ra y như vua đã chiêm bao: một ngày kia trước mặt vua và cả triều đình thánh nhân công khai bắt tên quỷ Atarôt thú nhận nó là tên lừa bịp dân chúng và là tên phản tặc đối với Thiên Chúa. Đồng thời nó tuyên xưng thánh nhân là tông đồ Thiên Chúa sai đến để truyền bá Phúc âm. Thánh nhân ra lệnh cho nó phải cút khỏi vùng này và cấm từ nay không được lai vãng đến hại dân. Tên quỷ vâng lệnh và “cúp đuôi” biến mất. Bấy giờ dân chúng hết lời ca tụng thánh nhân và đập phá tượng quỷ đang thờ. Chứng kiến phép lạ nhãn tiền này, cả triều vua xin học đạo và chịu phép rửa tội.
Ma quỷ căm giận vì thất bại nên tìm cách trả thù. Chúng xúi giục một số viên chức nổi lên chống đối lại thánh nhân và coi Ngài như kẻ thù phá hoại chùa miếu đền thờ, phá rối an ninh. Rồi tiếng đồn thổi vu cáo thánh nhân mỗi ngày một lan rộng.
Lần kia một số công chức âm mưu đến vu cáo với vua Atigiê em vua Polemê rằng: thánh nhân đã phá hủy đền chùa của họ. Tức giận, Atigiê truyền đưa thánh nhân tới. Trước sân rồng lộng lẫy, thánh nhân đàng hoàng tiến lên tâu trình mọi việc với nhà vua. Đang khi nhà vua sỉ nhục thánh nhân thì tất cả các tượng bụt trong đền vua tự nhiên đổ tan tành, nhà vua nổi nóng hạ lệnh lột da rồi thiêu sinh thánh nhân. Nhưng Chúa toàn năng đã tỏ uy quyền của Ngài để mở mắt cho những kẻ mù tối: qua hai cuộc hành hình thánh nhân vẫn còn sống. Sau cùng thánh nhân bị trảm quyết, ngày 24 tháng 8 năm 52.
Nghe tin thánh nhân bị trảm quyết, cả triều vua Pôlômon vội vã sang xin xác thánh Ngài và an táng rất trọng thế. Để thưởng công vua Pôlômon, sau 30 ngày các vị tông đồ đã truy phong nhà vua lên chức giám mục. Còn vua Atigiê và những kẻ đã nhúng tay hành quyết thánh nhân đều bị bệnh quỷ ám và chết một cách khốn nạn.
Sau khi an táng xác thánh nhân, dân chúng tấp nập đến kính viếng và được hưởng nhiều phép lạ. Nhiều người lương dân thấy vậy đâm ghen tương. Họ bí mật quật mộ và quẳng quan tài Ngài xuống biển. Nhưng Chúa quan phòng đã làm phép lạ khiến tấm quan tài bằng chì của thánh nhân nổi lềnh đềnh trên mặt biển và được sóng biển đưa tới hòn đảo Lipari gần Xixin (Cicile). Tín hữu miền này rước quan tài thánh nhân về miền Bênêven và xây cất đền thờ kính Ngài. Với những phép lạ thời danh Ngài làm, chẳng bao lâu nơi đây trở thành đất hành hương danh tiếng. Năm 983 dưới thời Đức giáo hoàng Grêgôriô V, xác thánh Ngài được di chuyển vể La-mã nằm bên cạnh các Tông đồ khác.
Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages.
Philipphê cùng quê quán với hai anh em Phêrô và Anrê, ở làng chài Bétsaiđa bên bờ biển Tibêriát. Ông là một trong những vị tông đồ đầu tiên được gọi theo Chúa như Tin Mừng Gioan ghi nhận ngay ở chương đầu (Ga 1, 43-44).
Philipphê gặp Nathanaen cũng thường gọi Batôlômêô, giới thiệu về thầy của mình – Chúa Giêsu: “Chúng tôi đã gặp thấy Con Người mà luật Môisê và các tiên tri đã nói đến: Đó chính là Giêsu, con trai ông Giuse làng Nadarét”. Cùng với Betsaiđa, Cana, Nadarét chỉ là những thị trấn nhỏ vùng quê. Trong Cựu ước không có một ngôn sứ nào nhắc đến Nadarét. Vì thế, Nathanaen, người Cana, nghi ngờ rằng thân thế của Thầy Giêsu: “Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được”. Philipphê không cần mất thời giờ để tranh luận, nhưng thuyết phục bạn mình đến gặp Đức Giêsu để chính Nathanen tự mình khám phá ra Ngài: “Hãy đến mà xem”. Chỉ kinh nghiệm gặp và sống với Chúa Giêsu mới có thể giúp Nathanaen vượt qua được những giới hạn trần tục, che kín mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể. “Hãy đến mà xem”, là câu trả lời của Chúa Giêsu, khi hai ông Andrê và Gioan, những môn đệ của ông Gioan Tẩy giả hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?” Chúa trả lời: “Hãy đến mà xem… đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người…” (Ga 1,35-42).
Vừa gặp Chúa Giêsu, Ngài đã nhận định về ông như một người Israel đích thực: “Lòng dạ không có gì gian dối”. Ông đã kinh ngạc trước nhận xét của Đức Giêsu, Đấng thấu suốt lòng dạ con người. Đức Giêsu biết rõ Nathanaen đang khao khát hiểu biết về Thiên Chúa, đang muốn gặp Thiên Chúa. Người đã đặt vào lòng Nathanaen lòng khao khát Đấng đã dựng nên con người vì tình yêu: “Trước khi Philipphê gặp anh, Thầy đã thấy anh dưới cây vả”. Nathanaen đã đến và nghe lời Chúa Cứu Thế, ông đã hết sức cảm phục” (x. Ga 1,43-51).
Ông Nathanaen, còn được gọi là Batôlômêô, có lẽ sẽ không yêu mến Chúa nếu như ông không “đến mà xem” như lời mời gọi. Nếu ông chỉ dừng lại với những hiểu biết đóng khung của mình thì Đức Giêsu sẽ chẳng là gì trong tâm trí của ông. Được kêu mời đến mà xem, ông đã nhận ra người mà ông đang mong chờ, biết được người mà ông đang mong chờ, biết được người mà ông muốn gắn kết cuộc đời, và yêu được người mà ông tôn thờ.
Sự hiểu biết không chỉ đến nhờ lý trí, nhưng còn được khai mở nhờ đức tin. Lý trí cho ta biết cách thức thông truyền tình yêu, còn đức tin giúp ta biết mức độ của tình yêu. Lý trí giúp ta hiểu lúc nào có tình yêu, còn đức tin giúp ta vững tin vào tình yêu luôn mãi.
Từ đời đời, Thiên Chúa đã biết ta trong mọi bí ẩn của tâm hồn. Chúa dò thấu tường tận. Không có gì kín nhiệm mà Chúa không thông suốt. Chúa biết rõ tất cả nơi chúng ta.
Qua cuộc gặp gỡ Chúa đã biến đổi Nathanaen, tình gắn bó với Thầy bền vững. Cũng thế, người đến gặp gỡ Thiên Chúa là thân thiết với Ngài, là biết Người một cách thâm sâu hơn, là “kiểm nghiệm bằng mắt thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đức tin”
2023
Chiến thắng lòng ghen tị
23.8 Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mươi Mùa Quanh Năm
Tl 9:6-15; Tv 21:2-3,4-5,6-7; Mt 20:1-16
Chiến thắng lòng ghen tị
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?”. Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Trình thuật tin mừng hôm nay là cả một câu chuyện về tình yêu và lòng thương xót của Thiên chúa. Cho dù bạn là ai, tuổi tác thế nào, địa vị ra sao, tài năng vượt trội hay hạn chế, sức khỏe dồi dào hay suy kiệt, bạn vẫn nhận được lời mời gọi của thiên Chúa “Hãy vào làm vườn nho cho ta.”
Vì thế không bao giờ là quá muộn màng để chúng ta có thể làm việc cho Chúa, và đồng thời bất cứ lúc nào chúng ta cũng có cơ hội để làm việc cho Người với một phần thưởng gấp trăm luôn sẵn sàng chờ đợi để trao ban cho chúng ta.
Những ai đã từng thất nghiệp hẳn sẽ cảm được một niềm vui lớn lao như thế nào khi nghe tin mình được tuyển dụng, có được việc làm với một mức lương hậu hĩnh. Vì vậy, ‘Đi làm vườn nho cho Chúa’ là một lời mời gọi, hiệu triệu đặc biệt các Kitô hữu sống đức tin, làm chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa trong gia đình, tại giáo xứ, và ở những nơi chúng ta hiện diện để danh Chúa được ‘rạng rỡ vinh quang’. Đồng thời chúng ta tin rằng ‘lương bổng’ Thiên Chúa ban cho chúng ta sẽ luôn dư dật. Vì thế, bạn và tôi còn chần chờ lưỡng lự gì nữa trước lời mời gọi đi ‘làm vườn nho’ cho Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ chê bỏ những thiện chí và cố gắng của chúng ta và Ngài luôn đưa tay ra cho chúng ta nắm lấy để cứu vớt, để đỡ nâng. Đồng thời đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hãy đưa tay ra cho những anh em đồng loại để nâng đỡ, cảm thông, sẻ chia với một tình yêu không tính toán. Thiên Chúa là Đấng công bình, nhưng sự công bình của Ngài là sự công bình của tình yêu thương xót. Có lẽ chúng ta sẽ không so đo khi một người thân yêu của chúng ta đang có nguy cơ lâm vào cảnh thất nghiệp, nhưng lại được nhận vào làm việc cùng chúng ta, với một mức lương như chúng ta, mà trái lại chúng ta sẽ vui mừng khôn xiết cho họ.
Cũng thế, trong ‘vườn nho’ yêu thương của Thiên Chúa sẽ không có chỗ cho sự so đo tính toán, nhưng hoàn toàn là một tình yêu vô vị lợi. Nếu ta tự mãn về lòng ‘đạo đức’ hay sức lực, tài năng của mình cống hiến cho Giáo hội thì hãy coi chừng, vì Chúa cảnh báo: “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.” (c.16) Vì vậy chúng ta hãy quảng đại làm việc cho Chúa với hết khả năng của mình để Giáo hội – ‘Vườn nho của Chúa’ sinh nhiều hoa trái tốt lành mà không so đo tính toán, còn mọi sự khác Người sẽ ban cho sau.
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được chủ trả tiền công đúng như thoả thuận, không thiếu một hào. Thế nhưng họ vẫn không hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền công bằng mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Ca-in ghen tị với A-ben chỉ vì lễ vật của A-ben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Ca-in đánh chết đứa em thân yêu.
Lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un khi Đa-vít chiến thắng Gô-li-át và đập tan quân thù nên dân chúng ca tụng Đa-vít hơn cả vua, khiến vua Sa-un lùng sục Đa-vít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 17-18).
Người ta không muốn cho kẻ khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh.
Chỉ có Chúa là ông chủ tốt bụng, không đến để khai thác sức lao động của công nhân, nhưng chăm lo cho đời sống của từng người.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng quan tâm tới từng người, đặc biệt là người bị bỏ rơi. Người thợ không có ai thuê là người kém may mắn trong xã hội. Bị xã hội gạt ra ngoài lề. Chỉ có Thiên Chúa mới quan tâm, mời họ vào làm vườn nho cho Chúa.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng, không chỉ có công bình mà còn có tình thương. Công bình tuyệt đối chỉ có trong hỏa ngục. Xã hội không tình thương không thể sống được. Xã hội là một toàn thể, là một gia đình Thiên Chúa. Trong một toàn thể, cần phải có sự hài hòa trong tổng thể. Ta liên đới với người khác. Ta không thể hạnh phúc một mình. Người đau khổ là lời chất vấn lương tâm trách nhiệm của ta. Thiên Chúa dậy ta hãy quan tâm tới anh em bé nhỏ khi trả cho người thợ chỉ làm 1 giờ số lương đủ sống cho cả gia đình.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng, không nhìn con người theo hiệu năng công việc nhưng nhìn theo tình người. Xã hội hôm nay nhìn con người theo hiệu năng. Nên những người già cả, ốm yếu bị loại trừ. Trong mắt Thiên Chúa, con người không những là nhân vị đáng kính trọng mà còn là những người con đáng yêu mến. Theo nhãn quan thiêng liêng, những người bất hạnh, đau khổ là nguồn ơn phúc cho chúng ta vì những đau khổ của họ thông phần vào sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su phê phán những người biệt phái vì họ đã ghen tị với những người thu thuế và tội lỗi chỉ vì những người nầy được Chúa Giê-su yêu thương và tiếp đón.
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp giữa anh em, bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.