2023
Dụ ngôn Nước Trời
31.10 Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Rm 8:18-25; Tv 126:1-2,2-3,4-5,6; Lc 13:18-21
Dụ ngôn Nước Trời
Để dân chúng hiểu cách tổ chức và sinh hoạt trong Nước trời, Đức Giêsu thường dùng những dụ ngôn mà người ta quen gọi là “Dụ ngôn Nước trời”. Sự phát triển của Nước trời được ví như hạt cải, tuy nhỏ bé nhưng được nảy mầm và lớn lên phi thường. Cũng vậy, như nắm men vùi vào ba đấu bột, nắm men có sức mạnh làm dậy tất cả đấu bột. Hạt cải và nắm men tuy nhỏ bé, nhưng đưa đến kết quả ngoài sức tưởng tượng. Nước trời cũng có sức mạnh để phát triển, làm sung mãn và biến đổi được tất cả như vậy.
Chúa ví Nước trời như hạt cải. Cải là một thứ rau bên Thánh địa có nhiều. Hạt cải rất nhỏ. Để nói về sự bé nhỏ của vật gì, người ta thường ví: nó to bằng hạt cải! nghĩa là vật ấy nhỏ lắm. Đức Giêsu cũng có lần nói đến sự bé nhỏ của hạt cải: “Nếu anh em có đức tin bằng hạt cải…”. Nhỏ bé thế mà gieo vào đất tốt, cây cải mọc cao lớn, cành lá xum xuê, chim trời đến đậu và có thể làm tổ được.
Hạt cải nhỏ bé thật nhưng có sức sống mãnh liệt bên trong, nhờ có sức sống bên trong, nó có thể mọc lên thành cây lớn. Hình ảnh cây cải ở Palestina chắc chắn khác cây rau cải ở Việt Nam, hạt cải thuộc lớp hạt rất nhỏ khi gieo xuống, nhưng khi mọc lên cây cải cao lớn, mà chim trời có thể đến nương náu dưới tán của nó được.
Đức Giêsu có ý nói: Nước trời ban đầu thật nhỏ bé trên dưới vài chục người với Đức Giêsu và các môn đệ quanh quẩn trong xứ Palestina nhỏ bé, nhưng trải qua lịch sử thăng trầm, đến bây giờ Hội thánh có trên một tỷ người có mặt khắp nơi trên thế giới. Chức năng của Nước trời, của Hội thánh, của Dân Chúa là phải lớn lên và trở thanh bóng mát cho đời, cho mọi người nương ẩn giữa bão táp mưa sa của cuộc đời.
Dụ ngôn “Men trong bột” nói lên sức men thấm nhập toàn thúng bột, làm cho bột dậy men. Chúa không chú trọng đến số men dùng, mà chú trọng đến sức mạnh dậy men. Cũng như men pha vào bột làm cho nó dậy men có hương vị thì giáo lý Nước trời cũng sẽ thâm nhập vào thế giới làm cho nó sẽ trở nên tốt hơn và làm cho mọi người có khả năng nhận biết Tin mừng.
Tinh thần Bác ái Công giáo dạy chúng ta không nên khơi dậy sự tiêu diệt, sự trả thù mà hãy nghĩ đến việc hoán cải như thứ men nhỏ bỏ vào hũ bột. Tất cả bột sẽ dậy men. Như vậy, bổn phận người Kitô hữu là đem Tin mừng vào mọi cơ cấu gia đình và xã hội của mình, phải vận động để ảnh hưởng Tin mừng được thể hiện trong luật pháp, đoàn thể cũng như quốc gia và mọi sinh hoạt của xã hội.
Với dụ ngôn hạt cải và nắm men, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta đi vào cái nhìn của Thiên Chúa. Một hạt cải nhỏ bé trở thành một cây lớn đến độ chim trời có thể nương náu được, một ít men có thể làm dậy cả khối bột. Sức mạnh của cái nhỏ bé, sức toả lan của cái âm thanh, đó là sức mạnh của chính Giáo hội Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu dùng những hình ảnh này để trấn an và khuyến khích các môn đệ. Những phương tiện nhỏ bé và hầu như vô hiệu các ông đang có trong tay quả thực làm cho các ông băn khoăn lo lắng, nhưng Chúa muốn các ông đặt tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Các Tông đồ đã đi rao giảng với hai bàn tay trắng, nhưng đó đã là sức mạnh nhào nặn Giáo hội từ 2000 năm qua.
Cả hai dụ ngôn hạt cải và nắm men đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa. Một sức mạnh mà chúng ta nhìn thấy nhờ đức tin mà thôi. Không có đức tin chúng ta sẽ không vượt qua được những thử thách xem ra như đang cản trở sự phát triển của Nước Chúa trên trần gian này. Chúng ta cũng lưu ý thêm là khi kể hai dụ ngôn này Đức Giêsu không nhằm đến diễn tiến đang xảy ra của Nước Chúa như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào cuối cùng của lịch sử. Mặc cho những thử thách, những ngăn trở Nước Chúa dù được bắt đầu một cách hết sức khiêm tốn, nhỏ nhoi nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn, cuối cùng.
Hai dụ ngôn ngắn gọn về hạt cải và men trong bột mở ra một cái nhìn rất lạc quan về thực tại nước Trời nơi tấm lòng của kiếp nhân sinh được Thiên Chúa cứu độ: Nếu có niềm tin nhỏ bé và ít ỏi, nhưng một khi vượt qua được những trở ngại để vươn lên, hạt cải nước Trời sẽ trở thành một cây lớn, làm chỗ nương tựa cho cuộc sống, niềm tin này giúp con người luôn vươn lên phát triển tâm hồn. Hạt giống đức tin có những khả năng không ngờ: Khi được gieo xuống đất, hạt giống bé tí xíu, bé nhất trong các loại hạt, nhưng khi nó mọc lên phát triển thành một cây to chim trời có thể làm tổ. Thật ra, tác nhân chính của sự việc, đó là Thiên Chúa. Chính Người làm nảy sinh điều bất ngờ. Cộng với niềm tin nhỏ bé được nuôi dưỡng, con người có men của lòng mến nước Trời, lòng mến sẽ biến đổi bột, kiếp nhân sinh một cách mãnh liệt, từ đó cho ra những tấm bánh thơm ngon cho nhân gian và làm của lễ dâng lên cho Thiên Chúa.
Với sức mạnh của ân sủng đức tin và lòng mến lan tỏa sẽ biến cánh đồng nhân sinh thành đồng ruộng tốt tươi đầy bông lúa chín vàng như trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh ánh sáng đẩy lùi bóng tối: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12,46).
2023
Cốt Lõi Của Ðạo
30.10
Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Rm 8:12-17; Tv 68:2,4,6-7,20-21; Lc 13:10-17
Cốt Lõi Của Ðạo
Đức Giêsu đã đi rao giảng được một thời gian, có rất đông người theo để nghe Chúa giảng. Hôm nay ngày Sabat, Ngài vào giảng trong hội đường và ở đó Ngài chữa một người đàn bà bị tật khòm lưng đã 18 năm. Vậy mà viên trưởng hội đường lại căm giận Chúa. Nhân dịp này, Chúa dạy bài học: luật giữ ngày nghỉ không quan trọng bằng luật yêu thương. Người Do thái chỉ tìm cách soi mói bắt bẻ, mà không biết cảm thương với người xấu số. Họ dựa vào Thiên Chúa để trách móc người khác. Điều đó cho thấy, họ không biết sống theo tinh thần bao dung, nhân hậu của Chúa.
Chúng ta nên biết: Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho ông Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ Nhị luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ Sabat, thuộc giới răn thứ ba trong thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thực ra, khi ban bố lề luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần dà, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả những chi tiết nhỏ nhặt. Đề rồi, các luật sĩ, biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau trước cảnh khổ của người lân cận. Đức Giêsu, Đấng là hiện thân của tình thương, đã nhìn thấy và hiểu rõ cảnh khổ của người phụ nữ bị còng lưng. Ngài đã vượt ra khỏi khung cảnh của luật Maisen, để giải thoát cho một con người. Trong khi đó, ông trưởng hội đường lại có thái độ vụ hình thức, vụ luật, lãnh đạm vô tâm, xem thường nỗi thống khổ của người lân cận. Ông tìm lý do biện hộ cho thái độ thiếu bác ái, thiếu thông cảm của mình nơi luật Maisen. Ông bực tức nói với đám đông: “Đã có sáu ngày phải làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày Sabat”.
Tin Mừng thuật lại, Chúa Giêsu chữa một phụ nữ còng lưng ngày Sabbat. Người nói: “Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà” (Lc 13,12).
Điều này khiến cho “Ông trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat” (Lc 13,14).
Ngày Sabbat có nguồn gốc từ Thiên Chúa khi tạo dựng vũ trụ và con người trong vòng sáu ngày, đến ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi (x. St 1,1-8.27-28-2,3), và đặc biệt là trong biến cố vượt qua Biển Đỏ cách lạ lùng. Dân Do Thái được thoát khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, bởi sự can thiệp kỳ diệu do quyền năng của Thiên Chúa. Vì vậy, thuở ban đầu ngày Sabbat là ngày dùng để tôn thờ và tạ ơn Thiên Chúa. Tuy nhiên, thời gian về sau, ngày Sabbat đã bị những người Biệt phái làm sai lệch ý nghĩa chính của nó.
Vì vậy, Chúa Giêsu xác định rõ lại cho họ thấy ý nghĩa đích thực của ngày Sabbat. Ngày Sabbat được đặt ra là để “làm việc lành và để cứu sống” (x. Lc 6,9), nên Chúa Giêsu đã không ngần ngại chữa một phụ nữ còng lưng và “Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa” (Lc 13,14).
Ta cũng xin Chúa giúp chúng ta ý thức về ý nghĩa và mục đích của việc nghỉ ngày Chúa Nhật. Đó là thời gian chúng ta dành để sống thân tình với Chúa, với tha nhân và quan tâm những người cần được giúp đỡ. Qua đó, chúng ta vượt thắng lòng ham mê của cải vật chất, để được sống trong tình thương của Thiên Chúa và mọi người.
Và rồi một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người Biệt phái. Những người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến độ dẫm lên trên cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt lõi của đạo chính là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát: “Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Hưu lễ”. Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng trong ngày Hưu lễ, để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người, hay đúng hơn, tình yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân giữ bên ngoài.
Xin cho chúng ta hiểu rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc tuân giữ luật lệ không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến những hành động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng sống cho tình yêu là được sống trong Chúa.
2023
Chọn và gọi
28.10
Thánh Simon và Jude, Tông Đồ
Rm 8:1-11; Tv 24:1-2,3-4,5-6; Lc 13:1-9
Chọn và gọi
Hai vị thánh hôm nay chúng ta mừng Lễ luôn đứng bên nhau trong danh sách 12 Tông Đồ. Simon là một con người nhiệt thành, không quãng sự khó nhọc và hăng say. Chúa Giêsu đã biến đổi ông từ một người nhiệt thành với nước Israel trần thế, thành một vị Tông Đồ nhiệt thành với Nước Trời. Giuđa còn gọi là Tađêô. Ông được gọi là Giuđa trung kiên, vì ông đã trung kiên với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Noi gương hai vị thánh Tông đồ, chúng ta cũng phải trở nên những dụng cụ đắc lực cho Hội Thánh và tích cực siêng năng trong bổn phận của người tín hữu.
Trong suốt cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, người ta thấy Ngài luôn dành cho việc cầu nguyện một vị trí quan trọng. Người ta thấy Ngài cầu nguyện mọi nơi: trong hội đường, trên núi, ngoài bãi biển… và mọi lúc: lúc sáng sớm, khi đêm về, sau một ngày giảng dạy hay trước một việc làm quan trọng, như hôm nay, trước khi chọn và gọi các tông đồ. Với Chúa Giêsu cầu nguyện là lẽ sống của đời mình, nơi đó Ngài gặp Chúa Cha, nhận ra ý Ngài để thực hiện. Ngày cũng dạy các tông đồ và những ai đi theo Ngài phải biết cầu nguyện luôn; “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1); hoặc “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5). Nhờ cầu nguyện mà chúng ta biết mình phải làm gì và công việc của chúng ta cũng nhờ đó mà thực sự là công việc của Chúa và để làm vinh danh Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha: “Người gọi các môn đệ và chọn Nhóm Mười Hai mà Người gọi là Tông Đồ: Đó là Simon mà Người gọi là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philípphê và Bartôlô mêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt là kẻ phản bội.” Đây là nhóm các ông đã theo Chúa Giêsu từ những buổi đầu rao giảng, đầy nhiệt thành, và tin vào Lời Chúa, là khởi sự của Giáo hội sơ khai, Chúa không ngừng dạy dỗ, chỉ bảo và gìn giữ các ông.
Tin Mừng hôm nay kể lại sự kiện Đức Giêsu chọn gọi và thiết lập nhóm mười hai, đội quân tay phải của Ngài. Ngài không quảng cáo tuyển nghề, mà chỉ “chộp” một cách giản đơn: “Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn.” “Lên núi” được dùng ở đây để nhớ lại ngọn núi Sinai trong Cựu Ước, nơi xưa Môsê đã tụ họp mười hai chi tộc Israel để biến họ trở thành dân riêng của Thiên Chúa. Trước khi gọi các ông, Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Con số mười hai cho thấy Ngài muốn khai sinh một dân mới, kết thành một cộng đoàn, trước hết là “cùng ở với Ngài”, tham dự vào sứ mệnh, rồi thực tập đi loan báo Tin Mừng kèm theo quyền năng Ngài thông ban và tiếp tục sứ mệnh của Ngài trên trần gian.
Ngài không tuyển những người có thế giá, nổi nang, học thức, mà lại gọi những ngư phủ tầm thường ít học, tính khí khác nhau. Hầu hết họ là những người nhút nhát, sau này chạy bỏ Thầy trong cuộc thương khó. Matthêu là hàng thu thuế tội lỗi công khai. Có những người nóng tính được mệnh danh là “con của thiên lôi”. Phêrô chối Thầy, người thì ngày sau bán Thầy như Giuđa Iscariô. Nhưng họ lại là “những kẻ Người muốn.” Đường lối của Chúa thì khác xa với đường lối của con người. Cách huấn luyện của Đức Giêsu là cho họ được ở với Thầy, tập suy nghĩ, ăn nói, cư xử, hành động như Thầy trực tiếp trong cuộc sống. Ở với Thầy có cơ hội để Thầy quan sát, nhắc nhở, sửa sai, tập tành, rèn luyện thành người môn đệ đích thực, làm nền tảng lưu truyền Tin Mừng cho khắp thế gian sau này.
Chúa Giê-su luôn cầu nguyện cùng với Chúa Cha để hiểu thánh ý Người, dù bận rộn nhiều việc trong ngày nhưng Chúa Giê-su vẫn dành riêng thời gian cầu nguyện đôi khi cả đêm trong thinh lặng thanh vắng. Khi khởi đầu mọi công việc, Chúa Giêsu đều cầu nguyện với Chúa Cha, Thầy Giêsu cũng dạy chúng ta hãy thường xuyên cầu nguyện là lúc tâm hồn lắng đọng, đặt hết tâm trí vào lời cầu nguyện, lắng nghe tiếng nói tận đáy lòng để giúp chúng ta biết làm những việc theo dẫn dắt của Thần khí Chúa. Kinh nghiệm của Thánh Bênađô:“Ba yếu tố giúp ta thành công trong việc tông đồ: lời giảng, gương sáng và cầu nguyện, nhưng cầu nguyện là hơn cả.”
Qua đó, có thể thấy mối quan hệ giữa cầu nguyện và loan báo Tin Mừng: chúng ta cầu nguyện để có thêm sức mạnh, thêm vững tin và đem niềm tin đó trao cho những người chưa nhận biết Chúa; ngược lại, loan báo Tin Mừng giúp họ biết cách cầu nguyện, trò chuyện cùng Chúa và tiếp tục công cuộc truyền giáo ấy. Giữa hai hành động ấy có một mỗi tương hỗ sâu sắc, không thể tách rời. Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa chúng ta mừng kính hôm nay là một trong những minh chứng hữu hiệu cho việc cầu nguyện và loan báo Tin Mừng. Các ngài luôn vững tâm tin tưởng vào Thiên Chúa mà các ngài loan báo, luôn cầu nguyện cùng Người và sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để bảo vệ niềm tin ấy.
Chúa Giêsu là Trưởng Tử của Thiên Chúa mà còn kiên trì, vững tâm cầu nguyện và loan báo Tin Mừng thì chúng ta là ai mà dám không làm điều đó. Nếu có tư tưởng vì là Con Thiên Chúa nên Người có thể làm việc đó cách hoàn hảo, còn chúng ta chỉ là phận người, làm sao có thể sánh được? Khi đó, chúng ta hãy nhìn thấp hơn và suy ngẫm về các tông đồ. Các ngài cũng là phận người như chúng ta, đôi khi còn chưa hoàn hảo bằng chúng ta, nhưng các ngài đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và hằng thi hành thánh ý Người. Do đó, nếu các ngài làm được, chúng ta cũng phải noi theo tấm gương của các ngài, biết chuyên cần cầu nguyện và loan báo Tin Mừng.
Hằng năm, vào chủ nhật tuần áp cuối tháng 10, Giáo hội dành đặc biệt để cầu nguyện cho việc truyền giáo cũng như nhắc nhở về sứ mệnh truyền giáo của mỗi người Kitô hữu. Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo năm 2021 của Đức Thánh Cha Phanxicô: “ Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra.” Cv 4,20. Có phải chúng ta thực hiện việc truyền giáo là lan tỏa tình yêu thương với tha nhân bằng những hành động nhỏ thiết thực như biết chia sẻ giúp đỡ bữa ăn cho những người khó khăn, an ủi những gia đình đau khổ vì người thân qua đời trong nạn dịch, đóng góp vật chất tiếp sức cho công cuộc truyền giáo ở các vùng xa xôi hẻo lánh…
2023
Biết phải biết trái
27.10 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi-Chín Mùa Quanh Năm
Rm 7:18-25; Tv 119:66,68,76,77,93,94; Lc 12:54-59
Biết phải biết trái
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhắc đến những quy luật báo hiệu thay đổi thời tiết trong thiên nhiên mà Thiên Chúa đã an bài cho con người nhận biết được. Người nhắc lên điều đó như có phần khen ngợi họ thông thạo việc trời đất cho đời sống phần xác mình: “Khi các ngươi thấy mây kéo lên ở phía tây, các Ngươi nói ngay: ‘Mưa đến nơi rồi’ và xảy ra đúng như vậy”.Nhưng Chúa nói lên điều này là để khiển trách họ: Thông biết những chuyện trời đất kía , nhưng lại không biết nhận ra thời giờ cứu chuộc của Thiên Chúa đã đến với nhân loại. Có lẽ Chúa nhắm đến mấy ông Pharisêu cũng đang ngồi ở đó. Người hay gọi họ là “ những kẻ đạo đức giả”mà trách dân chúng. Dân chúng đã không biết thời giờ cứu chuộc, cũng không biết phải làm gì trước những biến cố họ đang chứng kiến ấy.
Thiên Chúa khi tạo dựng vũ trụ, Người đã ban cho con người được quyền cai quản vũ trụ ấy. Đồng thời Người cũng ban cho con người khả năng, trí tuệ vừa đủ để đần dần khám phá mà quản trị chúng. Nhìn lại lịch sử phát triển của những công trình nghiên cứu khoa học của thế giới: Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng mà khám phá thế giới, mỗi ngày lại tìm ra những điều mới lạ. Cho nhân loại ngày càng hiểu biết vũ trụ hơn, đồng thời cũng ngày càng được thấy sự huyền diệu vĩ đại của Thiên Chúa tối cao tạo dựng. Người ta thống kê thế kỷ 19 có gần 90% các nhà khoa học tin nhận Thiên Chúa là thế. Quý hóa thay, những kiến thức khoa học đó ngày nay đã nên tài sản quý trong kho tàng của toàn thể nhân loại, của mọi thời đại. Mỗi người cứ lớn lên cắp sách tới trường qua các môn học là được hiểu biết về vũ trụ, về quy luật của chúng mà Thiên Chúa đã tạo dựng.
Một điều ân phúc lớn lao, cho nhân loại hôm nay nữa là có Hội Thánh Chúa hiện diện nơi trần gian này. Nơi đó được Chúa hứa ban có Thánh Thần hướng dẫn cho đến ngày tận thế. Nơi đó Chúa cũng ban cho liên tục mọi thời mọi nơi những nhà, “Khoa Học”lớn lao hết lòng, tận tụy… chỉ lo học hỏi về Thiên Chúa mà hướng dẫn nhân loại sống theo thánh ý Chúa: đó là biết bao các đấng thánh, các đấng cầm quyền trong Hội Thánh xưa nay. Con cái Chúa trong Hội Thánh không còn phải cảnh như dân Do Thái xưa “bơ vơ như đàn chiên không người chăn dắt”(Mc 6,30-34). Mà dân Chúa được hướng dẫn mọi ngày từ điều nhỏ đến điều lớn trong cuộc đời.
Để mà nhận ra “cái gì là phải” mà lo mà làm như Chúa đã nói với dân Do Thái trong Tin Mừng hôm nay: Chúa dùng dụ ngôn hai người mắc nợ nhau. Người mắc nợ nếu khôn ngoan phải biết thương lượng, lo mà trả trước, đừng để đến ngày chủ nợ đưa ra tòa. Khi ấy sẽ chỉ bị ngồi tù và phải trả nợ “hết đồng kẽm cuối cùng”. Con người tôi cũng là một con nợ thật lớn đối với Thiên Chúa: Thân xác, linh hồn tôi, mọi ơn lành đến với hồn xác tôi hàng ngày, mọi tiền tài của cải tôi đang có…tất cả đều là của Chúa ban. Tôi có biết mà tạ ơn Chúa hàng ngày, có chia sẻ cho những người khó khăn hơn như Chúa muốn tôi làm? Nếu không thì có ngày tôi cũng sẽ phải ra tòa, rồi ngồi tù mà phải trả nợ cho đến “hết đồng kẽm cuối cùng.
Dấu chỉ, dấu chứng lớn nhất là chúng ta có một Thiên Chúa là Cha. Người đã làm được tất cả những gì làm được cho chúng ta, kể cả việc trao ban cho chúng ta Người Con yêu dấu duy nhất của Người, để chúng ta được hòa giải với Người và hòa giải với nhau trong tình anh chị em. Vì thế, chúng ta phải xử với nhau như anh chị em. Hơn nữa đối với Chúa Giêsu, trần gian này chẳng qua là nơi Thiên Chúa giáo huấn cho chúng ta, làm cho chúng ta nên cao cả qua những việc mình làm mỗi ngày để mang lại hạnh phúc cho nhau. Một mai đây khi đến thời đến buổi chúng ta cũng sẽ cùng nhau về với Cha. Sống ở đời này với ưu tiên một là Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể mong được về hưởng hạnh phúc với Người.
Dù muốn hay không thì ngày ra trước tòa phán xét cũng sẽ đến với mỗi người chúng ta. Có điều ngày ấy đến rất bất ngờ, ta không biết được. Do đó tốt hơn hết là ta hãy khôn ngoan chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ấy.
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta mặc lấy cái nhìn lạc quan và tin tưởng. Chúng ta dễ cảm tạ Thiên Chúa khi gặp may mắn, thịnh đạt, thành công; nhưng chúng ta lại dễ bị cám dỗ để không nhận ra sự hiện diện và tác động của Ngài trong những mất mát, thua thiệt. Nhìn vào điềm báo thời tiết, chúng ta biết được trời sắp mưa hay sắp nóng nực; cũng thế, nhìn vào những may mắn và cả những thất bại, chúng ta hãy nhận ra lời mời gọi tin tưởng và dâng lời cảm tạ Chúa. Mỗi gặp gỡ, mỗi biến cố đều là dấu chỉ thời gian, vừa bày tỏ sự hiện diện và tác động yêu thương của Chúa, vừa mời gọi chúng ta tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.