2023
Bài Học Khiêm Nhường
4.11
Thánh Charles Borromeo, Tiến Sĩ
Rm 11:1-2,11-12,25-29; Tv 94:12-13,14-15,17-18; Lc 14:1,7-11
Bài Học Khiêm Nhường
Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng hôm đó Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một đầu mục nhóm Biệt phái. Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời… Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Xét bề ngoài, thì đây chỉ là một vấn đề lịch sự, bởi vì xếp chỗ ngồi là việc của chủ nhà, chứ không phải của người dự tiệc. Tuy nhiên, việc chọn chỗ cuối như thế phải được thực hiện một cách đơn sơ, tự nhiên, chứ nếu tìm chỗ cuối với hậu ý và hy vọng được mời lên chỗ cao hơn, thì đó là một sự khiêm nhường giả tạo, một sự kiêu ngạo tinh tế.
Chúa Giêsu nhắc nhở những người được mời bằng những lời khôn ngoan thường tình. Người ta thường dạy rằng: tốt hơn là chọn một chỗ ở cuối bàn. Lúc đó, người khách sẽ được vinh dự trước mặt mọi người, khi chủ nhà đến yêu cầu lên chỗ cao hơn. Trái lại, thật là sỉ nhục khi điều ngược lại xảy ra, vì khách được mời nằm trên những chiếc ghế trường kỷ mà ăn, nên khó dậy mà đổi chỗ một cách trang nghiêm, nếu mình phải nhường chỗ cho một người khác. Kẻ hạ mình xuống sẽ không có nguy cơ bị hạ nhục trước mặt kẻ khá
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Giáo huấn của Chúa Giêsu mang sứ điệp tinh thần khiêm tốn và cách thực thi sống bác ái quảng đại không vụ lợi, không mong được đáp trả như người đời thường nghĩ: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”. Giáo huấn khiêm tốn và bác ái đó đã được thánh Phaolô nối tiếp khi chia sẻ với giáo hữu thành Ephêsô: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2). Trong thư gửi giáo đoàn Galat, vị Tông đồ còn nhấn mạnh các hoa trái sinh từ Thánh Linh trong đó có đức ái và sự khiêm tốn hiền hòa. (x. Gl 5,22)
Khiêm nhường trước hết hệ tại thái độ xác định vị trí khách quan của mình: tội lỗi trước Đấng Toàn Năng và Chí Thánh. Người khiêm nhường nhìn nhận rằng mọi sự mình có đều do lãnh nhận nơi Chúa, rằng mình là đầy tớ vô dụng, tự mình không là gì khác hơn là tội nhân. Nhưng kẻ khiêm nhường lại không thất vọng, ngã lòng, nhưng sẽ mở tâm hồn đón nhận ơn Chúa, đón nhận năng lực của ân sủng.
Dân Israel đã học hỏi sự khiêm nhường trước hết bằng kinh nghiệm về sự toàn năng của Chúa, Đấng cưú thoát họ. Họ giữ cho kinh nghiệm ấy được sống động bằng cách tưởng nhớ đến kỳ công của Thiên Chúa trong việc phụng tự của họ. Phụng tự đó là trường dạy khiêm nhường. Trong lúc ca tụng và tạ ơn Thiên Chúa, người Israel bắt chước gương vua Đavít khi nhảy múa trước hòm bia để tôn vinh Chúa… Rồi những nhục nhã, thất bại và lưu đày cũng cho họ ý thức về sự bất lực căn bản của con người.
Để sống khiêm nhường đích thực, chúng ta hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đã hạ mình xuống làm tội nhân chịu treo trên Thập Giá, đối với người đời đây đã là địa vị quá thấp hèn, nhưng Chúa còn muốn ẩn thân dưới hình Bánh hình Rượu, bề ngoài bất động, hầu cho ta được thấy sự tiêu hao mình đi vì lợi ích của nhiều người.
Chính lúc chúng ta khiêm hạ và sống bác ái vô vị lợi, chúng ta đang “thêu dệt” công trình nhân cách chính mình trong cuộc sống hằng ngày. Hơn nữa, tinh thần đức tin của chúng ta đang vươn tới núi Sion Thành Thánh, nơi đại hội Giêrusalem của những người tin, đó là đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa là những kẻ đã được ghi tên trên trời, như thư Do Thái phác họa (Dt 12,18-19.22-24a).
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
2023
Giữ luật trong yêu thương
3.11 Thứ Sáu trong tuần thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Rm 9:1-5; Tv 147:12-13,14-15,19-20; Lc 14:1-6
Giữ luật trong yêu thương
Tin mừng cho biết, có 7 lần Chúa Giêsu chữa bệnh ngày Sabát, riêng Luca kể lại 4 lần và bị các người biệt phái kết án. Hôm nay Chúa Giêsu chữa cho người bị bệnh phù thũng, và Ngài khởi đầu bằng câu hỏi: “Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không ?” tiếp theo sau đó, Ngài lại đặt ra một tình huống và yêu cầu họ trả lời: “Trong ngày Sabat ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao ?”
Tuy nhiên, họ đã cứng họng và không thể trả lời được bất cứ câu hỏi nào của Chúa Giêsu. Lý do những luật sĩ không thể trả lời được các câu hỏi của Chúa Giêsu chỉ vì họ sống vụ luật, hình thức, giả tạo. Nên gặp phải Đấng là nguồn gốc của chân lý, tình thương thì đương nhiên họ phải câm miệng, bởi vì họ thuộc hạng người: luôn chất những gánh nặng không thể vác nổi lên vai người ta, còn họ, họ không đụng một ngón tay mà lay thử.
Một lần nữa, trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp cử chỉ quen thuộc của Chúa Giêsu. Ngài vượt qua mọi rào cản trong cuộc sống để tìm đến với những người tàn tật và bất cứ ai đang gặp đau khổ trong thể xác hay tâm hồn. Những người biệt phái và luật sĩ đưa ra không biết bao nhiêu là hàng rào, để đẩy con người khốn khổ ra bên lề xã hội. Chúa Giêsu đến quy tụ mọi người không trừ một ai. Ngài đạp đổ mọi thứ rào cản của cuộc sống. Có mặt trong những bữa tiệc linh đình của những người biệt phái giàu sang, Ngài cũng không ngần ngại ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những người bị xã hội gán cho nhãn hiệu là hạng người bất chính, ngay cả những cô gái điếm
Trang Tin mừng thứ Sáu tuần XXX hôm nay đề cập đến sự im lặng của những người Pharisiêu. Chuyện xảy ra là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisiêu dùng bữa. Khi ấy có một người bị phù thũng đến trước mặt Ngài. Ngài không thể thờ ơ trước nỗi khốn khổ của anh ta, nên Ngài đã quay sang hỏi những người Pharisiêu: “Có được phép chữa bệnh ngày sa bát hay không?” Chúa hỏi như vậy không phải để xin phép họ cho chữa bệnh ngày sabát, nhưng là chất vấn lương tâm họ. Và thái độ của họ khi đó là im lặng. Họ im lặng không có nghĩa là họ tỏ dấu đồng thuận với việc Chúa sẽ chữa lành cho người bệnh này trong ngày sabát. Họ vẫn biết là Chúa có quyền năng chữa lành cho người bệnh, nhưng luật là luật: Không thể chữa bệnh ngày sa bát đươc! Chính vì vậy họ im lặng.
Ta thấy tất cả vụ án của Chúa Giêsu đều bắt nguồn và xoay quanh những cuộc đối đầu về lề luật. Đối đầu với những người Biệt phái cho đến cùng bằng cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho con người thấy rằng chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là lề luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em mình
Giáo dục con người sống cho ra người có nghĩa là giáo dục cho con người biết sống yêu thương. Thông minh đĩnh đạc, mà không có trái tim để yêu thương, thì đó là một tai họa cho bản thân cũng như cho xã hội.
Có tất cả mà không có một trái tim để yêu thương, thì đó là nỗi bất hạnh lớn nhất đối với con người. Cách mạng mà không xây dựng trên tình yêu, thì đó chỉ là phá hoại. Đạo đức mà không có tình yêu, thì chỉ là một trò lừa bịp.
Chúa Giêsu cho thấy con người là ưu tiên tối thượng của lề luật. Luật lệ, ngay cả luật ngày Sabát, cũng sẽ thành vô nghĩa nếu không vì lợi ích của con người. Đối với Ngài, chỉ có một luật lệ gồm tóm và là nền tảng của mọi luật lệ, đó là yêu thương. Nhưng để có yêu thương, trước tiên phải có sự nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá mỗi người.
Quả thật, vì quá câu nệ vào luật mà những người Pharisiêu đã bóp nghẹt lòng trắc ẩn, chạnh thương của mình trước nỗi thống khổ của con người. Không những vậy, vì chỉ biết khư khư bảo vệ tập tục, luật lệ mà họ tìm cách dò xét và lập mưu để bắt lỗi Chúa Giêsu – người mà theo nhận định của họ là kẻ hay phá luật.
Đối với Chúa Giêsu, chỉ có một luật mà người ta phải giữ đó là luật của tình thương. Ngài vẫn biết rằng giới lãnh đạo Do thái đang tìm mọi cơ hội để dò xét và bắt lỗi Ngài, nhưng vì lòng chạnh thương trước những người nghèo khổ, bệnh tật, Ngài bất chấp tất cả mọi hiểm nguy, bất chấp mọi mưu mô, tính toán của người ta.
Người biệt phái dù giữ nghiêm ngặt luật ngày Sabát: Không được làm việc gì, nhưng họ vẫn cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày Sabát (Lc 14,5) hay dẫn bò, lừa đi uống nước…
Như thế, trong ngày Sabát họ tự cho phép cứu, nuôi dưỡng con vật, trong lúc họ lại soi mói, công kích Chúa Giêsu vì đã chữa bệnh cho một người bị mắc bệnh phù thũng trong nhà một người biệt phái vào ngày Sabát.
Người biệt phái và luật sĩ đã đưa ra không biết bao nhiêu là hàng rào để đẩy những con người khốn khổ ra bên lề xã hội. Trong lúc Chúa Giêsu đến để quy tụ mọi người không trừ một ai. Ngài đạp phá mọi thứ rào cản của cuộc sống.
Qua hành động chữa lành người phụ nữ trong ngày Sabát, Chúa Giêsu vượt qua mọi rào cản, biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người, đặc biệt là người khốn khổ. Qua đó, Ngài thổi tình yêu vào Lề Luật: Ngày Sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ các biệt phái rằng chỉ có một luật duy nhất tóm kết mọi thứ Lề Luật, luật ấy chính là luật yêu thương.
Xin cho chúng ta giữ luật Chúa và nó phải được mang trong một trái tim ngập tình yêu thương như Chúa Giêsu thể hiện tình yêu với tất cả mọi người trong xã hội, đặc biệt là những người tàn tật, đau khổ trong thể xác và tâm hồn…
2023
Nhớ người – nghĩ ta
Lễ Các Đẳng Linh Hồn
Rm 8:31-39; Tv 109:21-22,26-27,30-31; Lc 13:31-35
Nhớ người – nghĩ ta
Tục ngữ Việt Nam có câu: Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn. Hay: con ai chẳng là con cha, cháu ai là chẳng cháu bà cháu ông. Hai chữ cội nguồn đã mang lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ. Theo tháng năm, từ đông sang tây, từ bắc chí nam, đâu đâu cũng vang lên giai điệu về chữ hiếu như là lời báo đáp và ghi ơn tổ tiên mình.
Chính vì thế, hàng năm Giáo Hội công giáo đã dành trọn tháng 11 để tưởng nhớ những người quá cố, để sống lại đạo làm con. Người công giáo vẫn có thói quen tốt lành xin lễ cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, trong ba ngày đầu năm, Giáo Hội Việt Nam đã dành ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Hòa lẫn với chủ đề kính nhớ tổ tiên, Giáo Hội cũng đã nhắn gửi tới từng người con phải biết yêu chuộng ý nghĩa thiêng liêng cao cả: con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm.
Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai hậu, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, có dư dật của cải, cụ thể có nhiều hoa màu ruộng đất và đàn gia súc phong phú. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
Nói tới luyện ngục, hẳn chúng ta không khỏi có những cảm nghĩ buồn vui lẫn lộn. Vui vì người vào đó sớm muộn gì rồi cũng sẽ có ngày ra. Buồn vì số người vào đó chắc chắn là đông đảo. Hay nói một cách khác: mấy ai sẽ thoát được lửa luyện tội?
Ngay từ xa xưa, Giáo Hội vẫn tin rằng những người đã chết trong tình trạng ơn nghĩa cùng Chúa, nhưng còn vướng mắc những tội nhẹ, hay chưa đền bù hết những hình phạt tạm bởi tội, sẽ phải vào luyện ngục đền bù cho xong, rồi mới được lên thiên đàng, hưởng hạnh phúc muôn đời cùng Chúa.
Cựu Ước đã đề cập tới luyện ngục khi ghi lại hành động cao đẹp của ông Macabêô, khi ông quyên tiền gửi về Giêrusalem để dâng của lễ xóa tội cho một số anh em binh lính đã chết, mà lúc còn sống đã mang trong mình những ảnh tượng ngẫu thần, là điều mà lề luật Do Thái ngăn cấm.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng cũng đã nói về luyện ngục:
Hãy liệu làm hòa với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt quan tòa, quan tòa lại trao ngươi cho tên lính canh và ngươi sẽ bị tống vào ngục. Ta bảo thật cho ngươi biết: ngươi sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,25).
Hôm nay nhân ngày lễ các linh hồn, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy dành tình yêu cho ông bà cha mẹ qua việc cầu nguyện cho các ngài. Chúng ta hãy nài xin lòng thương xót của Chúa đón nhận các ngài và tha thứ những yếu đuối trong thân phận con người của các ngài. Vì nhân vô thập toàn, ai mà không có lỗi trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng chí thánh. Chúng ta hãy nhớ đến người quá cố để làm điều gì đó nhằm cứu vớt họ. Có thể là nhường cho các ngài những ơn toàn xá trong 8 ngày đầu tháng. Có thể là làm những việc lành phúc đức để đền bù cho những thiếu sót trong cuộc đời các ngài. Có thể là những lời kinh ta trao gởi họ cho lòng thương xót của Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết tận dụng những ngày này như là mùa báo hiếu cha mẹ và tri ân anh em bè bạn những người đã giúp đỡ chúng ta mà nay đã không còn. Xin cho họ được nghỉ yên bên Chúa.
Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng đáng làm con cái của Chúa.
2023
Sống thánh giữa đời
Lễ Các Thánh
Rm 8:26-30; Tv 13:4-5,6; Lc 13:22-30
Sống thánh giữa đời
Chúng ta biết rằng, các Thánh trên trời không chỉ gồm những người đã được Giáo Hội tôn phong, mà là tất cả những ai ngày hôm nay đang được hưởng nhan thánh Chúa trên thiên quốc.
Họ là ai vậy ? Đây cũng là câu hỏi mà thánh Gioan Tông Đồ đặt ra cho “vị trưởng lão”, khi trong một thị kiến, ngài được đưa lên trên các tầng trời. Tác giả đã thuật lại trong sách Khải Huyền rằng: “Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: “Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.” (Kh 7,9-10).
Vì các ngài là những người “thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” nên chắc chắn, trong số đó có những người bà con thân thuộc của chúng ta. Họ là ông bà cha mẹ, anh chị em ruột thịt; họ là những người chúng ta đã từng quen biết, và có khi họ là những người hàng xóm láng giềng, những người hàng ngày đã từng sống bên cạnh chúng ta.
Không phải tự nhiên mà họ được đứng trong hàng ngũ các thánh, nhưng theo lời của sách Khải Huyền, sở dĩ họ được như vậy, là vì họ đã phải trải qua đau khổ lớn lao, họ đã giặt và tẩy áo mình trong Máu Con Chiên là Đức Giêsu.
“Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.” (Kh 7,15-17).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta con đường để nên thánh, để đạt tới hạnh phúc nước trời, đó là con đường của Tám Mối Phúc. Không có niềm vui, hạnh phúc nào mà không phải đánh đổi bằng hy sinh, không có thành công nào mà không phải trả giá. Cũng vậy, chúng ta sẽ không thể đạt được niềm vui và hạnh phúc Nước Trời nếu không chấp nhận hy sinh, cũng như không thể nên thánh mà không phải trả giá bằng sự kiên trì. Tám Mối Phúc là những cách thức, là những con đường và là điều kiện bắt buộc cho tất cả những ai muốn tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời.
Tám Mối Phúc không phải là một thứ quảng cáo siêu tốc, không phải dạng mì ăn liền, mà là những đòi hỏi, buộc mỗi người phải kiên trì thực hiện từng ngày, từng ngày trong suốt cuộc đời. Nó không phải là một sự buông chiều theo trào lưu dễ dãi của xã hội, mà là một thách thức, một đòi hỏi phải lội ngược dòng, phải dám sống khác, sống tốt hơn, sống siêu thoát, từ bỏ nhiều hơn. Nếu như người đời ngày nay tìm kiếm sự giàu sang phú quý, con người bị quay quắt với ước mơ làm giàu, thì mối phúc thứ nhất đòi mọi người phải có tinh thần nghèo khó. Đòi buộc này không có nghĩa là kẻ theo Chúa phải là những kẻ khố rách áo ôm, bữa no bữa đói, mà là tất cả mọi người, dù họ đang được thuận lợi giàu có, hay đang nghèo hèn khốn khó, thì cũng cần phải có một tâm hồn nghèo khó.
Các thánh nam nữ là những người đã bước qua cuộc đời này và để lại cho đời những gợn sóng của tình yêu dâng hiến, của tình người vị tha phục vụ quên mình. Họ đã thả vào dòng đời này một tình yêu hiến dâng, một tình yêu cao vời dành cho Thiên Chúa, một con tim rộng mở đến cho tha nhân. Họ là những người nam, người nữ đã cống hiến cuộc đời để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Họ có thể là những con người biết tận dụng khả năng Chúa ban để làm đẹp cho cuộc đời bằng biết bao nghĩa cử yêu thương. Họ có thể là những con người kém may mắn nhưng đã âm thâm gieo vào đời những lời kinh nguyện, những hy sinh cho những người thân yêu. Họ đã biết tôn vinh Chúa qua dòng đời đầy trái ngang bể dâu này.
Mừng kính các thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống hiến chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của các thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như các thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng các thánh nam nữ là dịp để nhắc nhở ơn gọi của chúng ta là nên thánh. Ai cũng phải nên thánh. Nên thánh trong bổn phận. Nên thánh trong hy sinh vì lợi ích tha nhân. Nên thánh trong việc đón nhận thánh ý Chúa với lời xin vâng trọn vẹn. Nên thánh giữa dòng đời tục lụy là điều rất khó nhưng không phải là không có thể.
Mừng kính các thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống hiến chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của các thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như các thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.