2023
Yêu thương và phục vụ
30.6
St 16:1-12,15-16; Tv 7:21-29; Mt 8,5-17
Yêu thương và phục vụ
Mỗi ngày sống của chúng ta, dù có thế nào đi nữa thì cũng chỉ được gói trọn trong 24 giờ đồng hồ. Thế nên, chúng ta phải sống làm sao để một ngày trôi qua thật là ý nghĩa và giá trị. Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay là một mẫu sống tuyệt vời cho chúng ta. Một ngày sống của Chúa tràn đầy tình yêu thương và tinh thần phục vụ. Tình yêu thương phục vụ ấy đã được lan tỏa đến mọi người, không phân biệt lương giáo hay đẳng cấp trong xã hội.
Sau khi chữa người bị phong hủi (8,1-4), Chúa Giêsu vào thành Ca-phác-na-um. Ngay lúc ấy có một viên đại đội trưởng đến gặp Người để xin chữa lành cho một người đầy tớ. Chúa nhận lời sẽ đến nhà ông. Nhưng với một lòng tin vững mạnh, ông chỉ xin Chúa phán một lời thì đầy tớ của ông sẽ lành mạnh (c.5-8). Lòng tin của ông đã được Chúa Giêsu đề cao và ngay giờ đó Chúa đã chữa cho người đầy tớ của ông được khỏi bệnh (c.13).
Hình ảnh và lòng tin sắt đá của viên đại đội trưởng hẳn làm chúng ta phải tự hổ thẹn với chính bản thân mình. Bởi lẽ trong cuộc sống, mỗi khi gặp khó khăn thử thách, chúng ta rất dễ nghi nan, ái ngại, rồi nản chí, những lúc ấy lòng tin của chúng ta như vẫn còn dang dở, mờ ám, bấp bênh. Vẫn biết rằng, Chúa luôn hiện diện ngay bên để trợ giúp và hướng dẫn chúng ta ngay giữa những thăng trầm của cuộc sống. Nhưng nào chúng ta có nhận ra Ngài đâu chứ? Chúng ta vẫn cứ mải mê với những sự vật trần thế, vẫn bám víu vào những trợ lực mau qua của con người thời đại, mà quên đi Chúa đang đồng hành bên chúng ta.
Đây là cơ hội để chúng ta tự vấn về lòng tin của mình: khi những gian nan thử thách đến với chúng ta, liệu chúng ta có dám vững tin rằng Chúa đang âm thầm ngự trên con thuyền đời mình không? Dù rằng đôi lúc Chúa vẫn im lặng và ngủ say trên con thuyền đời ta. Nhưng đâu phải là Ngài chẳng biết điều gì đang xảy ra cho chúng ta, mà có lẽ là chưa tới giờ của Ngài đó thôi. Vì Ngài vẫn mãi mãi yêu thương và luôn luôn sẵn sàng phục vụ chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có dám buông thả đời mình trong vòng tay yêu thương của Ngài không? Như viên đội trưởng trong bài Tin Mừng, đã dám tin rằng chỉ một lời Ngài phán ra, đủ để cứu mạng sống người đầy tớ của ông.
Về phần Chúa Giêsu, Ngài đến trần gian để đem ơn cứu độ đến cho mọi người, không phân biệt dân Do thái hay dân ngoại. Bởi đó tất cả mọi người đều có quyền hưởng ơn cứu độ. Ngài đến để xây dựng một gia đình mới trong tình yêu Thiên Chúa. Một gia đình trong đó mọi người là anh chị em với nhau, có Thiên Chúa là Cha, cùng sống yêu thương và phục vụ lẫn nhau cách chân thành quảng đại. Do đó tất cả mọi người đều được mời gọi gia nhập vào gia đình của Thiên Chúa.
Chúng ta cũng được mời gọi theo gương Ngài, sống yêu thương và sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ mọi người chung quanh, không phân biệt tôn giáo, đẳng cấp. Đó chính là một cuộc sống đầy ý nghĩa và giá trị nhất. Một cuộc sống mà Thiên Chúa luôn ước mong nơi mỗi người chúng ta trong cõi đời đầy thương đau thử thách này.
Phép lạ thứ hai trong đoạn Tin Mừng là việc Chúa chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt, sau đó bà chỗi dậy phục vụ Ngài (c.15). Chính Chúa Giêsu đã đi bước trước để ban ân phúc cho bà, điều đó nói lên tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho mọi người, không phân biệt giới tính hay đẳng cấp (vì theo quan niệm Do thái: phụ nữ bị xếp vào loại công dân hạng hai, không có tiếng nói trong cộng đoàn). Hình ảnh bà chỗi dậy phục vụ Ngài đã diễn tả sứ mạng phục vụ của Giáo hội theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Cũng vậy, Giáo hội và mỗi người chúng ta sau khi được Thiên Chúa thanh tẩy và chữa lành nhờ sự Phục sinh của Đức Kitô, đều có sứ mạng phục vụ nhân loại, phục vụ Nước Thiên Chúa.
Như thế, yêu thương và phục vụ chính là sứ mạng quan trọng nhất của Giáo hội và của chúng ta. Thế giới và con người thời đại hôm nay đang rất cần những chứng tá đích thực của một tình yêu chân chính, cần được cảm nghiệm thực sự những nghĩa cử phục vụ tận tình vô vị lợi của những người môn đệ Đức Kitô. Chúng ta phải trở nên những chứng nhân thực sự của Tin Mừng giữa thế giới hôm nay. Chúng ta phải để cho mọi người chất vấn chúng ta về sứ mạng yêu thương và phục vụ.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng đã phục vụ không biết mỏi mệt và không ngừng phục vụ. Tất cả những ai đến với Ngài đều được chữa lành và được chúc phúc (c.16). Chúng ta thử hồi tâm xét lại lòng mình xem chúng ta đang ở ngưỡng nào trên hành trình yêu thương và phục vụ?
Mỗi bước chân yêu thương phục vụ của chúng ta theo gương Chúa Giêsu trong từng ngày sống sẽ có tác dụng rất lớn cho con người và thời đại hôm nay. Vì ơn cứu độ và hạnh phúc Nước Trời thuộc về tất cả mọi người mà chúng ta có nhiệm vụ rao truyền và sẻ chia. Những hành vi yêu thương và nghĩa cử phục vụ của chúng ta sẽ có sức mạnh lôi kéo nhiều người đến gia nhập Giáo hội để lãnh nhận ơn cứu độ, đặc biệt trong Năm Thánh này.
Nhiều tâm hồn đang khát khao tìm kiếm công lý, yêu thương và an bình giữa một thế giới đầy hận thù, chiến tranh và chia rẽ. Chúng ta có sứ mạng làm chứng tá cho Nước Trời, Vương Quốc của tình yêu, thứ tha và an hòa.
2023
Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
29.6 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Hai Mùa Quanh Năm
St 17:1,9-10,15-22; Tv 128:1-2,3,4-5; Mt 8:1-4
Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
Hôm nay Giáo Hội mừng trọng thể lễ kính hai vị thánh Tông Đồ của Hội Thánh: Thánh Phê-rô và thánh Phao-lô. Nhà văn Oscar Wilde nói: “Không có thánh nhân nào mà không có quá khứ và cũng không có tội nhân nào lại không có tương lai”. Thật vậy, khi nhìn vào tiểu sử của hai vị thánh mà chúng ta mừng kính hôm nay, chúng ta thấy các Ngài cũng có những lúc yếu đuối, lỗi lầm. Song các Ngài đã biết sửa sai, làm lại cuộc đời.
Khi Nhìn lại quá khứ của Phêrô và Phaolô, chúng ta cảm thấy hơi ngán ngại. Nếu Phêrô chối Chúa Giêsu trong cơn nguy khốn và cô đơn tuyệt đỉnh, thì Phaolô ở trong tình trạng căng thẳng hơn nhiều. Vì quá nhiệt thành với Do Thái giáo, nên Phaolô rất dị ứng với Kitô giáo. Ông muốn tẩy trừ Danh Đức Giêsu Kitô ra khỏi cuộc đời này. Vì thế, ông rất hăng say bắt bớ và giết hại những ai xưng mình là Kitô hữu. Dù vậy, Chúa vẫn thương ông vì biết ông hành động do không hiểu biết và lầm lạc cách vô tình. Chúa nhìn thấu tâm hồn của ông chứ không theo những gì thể hiện bên ngoài. Biến cố Phaolô ngã ngựa trên đường đi Đamas mang nhiều ý nghĩa thâm sâu, nhưng trên hết là biến cố của lòng thương xót Chúa dành cho Phaolô nói riêng và cho con người chúng ta nói chung.
Chúa Giêsu đã mạnh dạn và táo bạo trong việc tuyển chọn môn đồ để kế tục sự nghiệp của mình. Trong Nhóm Mười Hai, có những thành phần bị coi là rốt cùng trong xã hội như làm nghề chài lưới, thu thuế . . . Để rồi có người đã chối Thầy, có người bán Thầy, có người chạy thục mạng khi Thầy gặp nguy hiểm . . . Nhưng với những việc đó cũng không làm cho Chúa Giêsu thất vọng và chán nản, Ngài còn tuyển thêm một đồ đệ vốn là “thù địch” của mình nữa, đó là Phaolô. Việc làm như thế quả là liều mạng.
Thánh Phê-rô, còn gọi là Simon, là một con người ít học, sinh sống bằng nghề chài lưới. Khi được Thầy Giêsu kêu gọi làm môn đệ thì liền lập tức bỏ lại mọi sự mà đi theo Thầy, trong quá trình theo Chúa ông tỏ ra nhiệt thành và năng nổ, bộc trực, luôn nhanh nhẹn trả lời câu hỏi mỗi khi Thầy đưa ra, nhưng bởi vì bộc trực và năng nổ cộng với sự cậy mình: “ta đây” khiến ông hay vướng vào sai lầm; cụ thể ông đã can ngăn Thầy đừng lên Giêrusalem để chịu khổ nạn, chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ.
Trong cuộc thương khó của Thầy, vì sợ bị liên lụy nên ông đã chối Thầy ba lần…Nhưng sau đó ông đã ăn năn than khóc, hối hận vì những việc mình đã làm đối với Thầy, từ đó ông không còn dám cậy mình, để cho cái tôi kiêu hãnh trong mình chi phối hành động nữa, ông đặt trọn niềm tin và vâng lời tuyệt đối nơi Thầy Giê-su Chí Thánh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã đặt ông làm đầu thay Ngài để xây dựng và bảo vệ Hội Thánh thuở sơ khai. Cuối cùng ông đã anh dũng hy sinh mạng sống để bảo vệ niềm tin vào Thầy Giêsu. Ông xin chịu đóng đanh ngược vì nghĩ không xứng đáng được như Thầy. Thánh nhân có câu nói bất hủ: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai? Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Ngược lại, Thánh Phao lô là một trí thức, ông trung thành với truyền thống Do-Thái giáo, ông chống đối Chúa Giêsu và ra tay bắt bớ những kẻ theo Ngài. Cụ thể là ông đã ủng hộ việc người Do Thái sát hại thánh Têphanô…Nhưng về sau, chính Thầy Giêsu đã dùng biến cố ngã ngựa khi ông trên đường đi đến Đamas để thu phục ông. Kể từ đó ông đã thay đổi hoàn toàn, ông trở thành tông đồ của dân ngoại, bôn ba khắp nơi rao giảng Tin Mừng nước trời để rồi cuối cùng bị vua Nêrôn giết bằng cách chặt đầu vào khoảng năm 67. Thánh nhân có những câu nói rất hay: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi”. (Gl 3, 20). “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35).
Tin Mừng hôm nay thánh sử Mathêu thuật lại việc Thầy Giê-su hỏi các môn đệ của Người xem thiên hạ nói gì về Người? Các ông thưa: “Kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông giê-rê-mi-a hay là một trong các ngôn sứ”. Như vậy, người đồng thời với Chúa Giêsu không một ai có cái nhìn đúng đắn về Ngài cả. Có lẽ đây chỉ là tiền đề cho một câu hỏi khác của Thầy Giê-su. Câu hỏi mang tầm vóc quan trọng và cụ thể hơn dành cho các môn đệ “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô , Con Thiên Chúa hằng sống” Câu trả lời của ông Phê-rô làm Chúa Giêsu hài lòng. Ngài liền khen: “Này anh Simon con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Và rồi ngay sau đó Chúa Giêsu đã chính thức trao cho Thánh nhân một trọng trách vĩ đại là làm đầu Hội Thánh với quyền thế: Mở cửa Nước Trời, quyền tha thứ cũng như cầm buộc. “Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này. Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời, dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
Mầu nhiệm Nước Trời và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ôi tuyệt vời. Chúa đã dùng những con người xem ra bất toàn và yếu đuối, chống đối lại Ngài. Ngài cảm hóa, hướng dẫn để rồi cuối cùng trở nên những trụ cột hết lòng xây dựng Hội Thánh.
Mừng kính hai vị thánh cả hôm nay. Trước hết chúng ta cảm tạ và ngợi ca Thiên Chúa. Vì biết bao hồng ân Chúa đã ban cho hai vị thánh cũng như đã ban cho mỗi người chúng ta. Đấng đã biến đổi hai vị thánh thành rường cột của Giáo Hội. Sau là chúng ta nhìn lên hai vị thánh nhân mà học tập, bắt chước các nhân đức nơi các Ngài để rồi cuộc đời chúng ta luôn biết cậy trông, tín thác vào sự quan phòng và tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
2023
Hãy Rước Mẹ Về Nhà Mình
Lễ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – Hãy Rước Mẹ Về Nhà Mình
Is 7, 10-17; Kh 12, 1-6.10; Ga 19, 25-27
Trở về với những trang sách Sáng Thế, chiều chiều gió hiu hiu thổi, Thiên Chúa đi dạo với hai ông bà nguyên tổ trong vườn địa đàng.
Phải nói rằng cảnh thiên đàng đã đẹp cộng thêm hình ảnh đẹp của Thiên Chúa và hai ông bà nguyên tổ quả là tuyệt vời. Thiên Chúa cho hai ông bà thừa hưởng công trình sáng tạo của Thiên Chúa thế nhưng mà hai ông bà đặc biệt là bà đã không cảm nhận được ân sủng từ Thiên Chúa để rồi bà giơ tay hái trái cấm từ lời ngon ngọt của con rắn.
E-và đã phạm tội ! Thiên Chúa giận thì giận nhưng vẫn thương con người. Thiên Chúa đã hứa cho một người phụ nữ khác thay thế E-và bất tuân.
Lời hứa cứu độ đã đến với con người, đã đến với nhân loại sau một thời gian dài. Tưởng chừng như Thiên Chúa lãng quên nhưng không, Ngài đã thực thi lời hứa đó. Người nữ sửa cái sai của E-và đó chính là Trinh Nữ Maria. Hai chữ E-va Mẹ đảo vần. Eva bất tuân còn Mẹ thì xin vâng : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Mặc dầu chưa hiểu hết ý định và chương trình của Thiên Chúa, nhưng vì tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Maria đã thưa lời “Xin vâng” và đón nhận tất cả, đón lấy ý Chúa làm ý mình để chương trình tình yêu của Thiên Chúa được hoàn tất.
Với lời “Xin vâng” của thôn nữ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người, mở đầu công cuộc cứu rỗi trần gian. Thôn nữ Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế qua thái độ khiêm nhường khi lời đáp xin vâng phát xuất từ lòng tin của mình. Lời “Xin vâng” của Mẹ là cửa ngõ dẫn vào ơn cứu độ. “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật.” Mẹ “Xin vâng” là Mẹ đón nhận công việc mở cửa cho ơn cứu độ tuôn tràn đến với nhân loại.
Nhờ lời “Xin vâng” của Mẹ Maria, Đức Giêsu đã đến trần gian, khai mở cho nhân loại một thời đại mới, thời đại của tình yêu cứu độ. Đức Giêsu đã đến phá tan bức màn đêm tăm tối, mở ra một bầu trời hy vọng cho nhân loại. Nhờ lời Mẹ xin vâng, lịch sử nhân loại bước sang trang mới, mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên hồng ân cứu độ.
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Mẹ Maria là mẫu gương tuyệt hảo về sự vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Bằng niềm tin và sự vâng phục, Mẹ đã tự do cộng tác vào công trình cứu độ. Từ lúc nhận lời Sứ thần truyền tin với lời “Xin vâng” đầu tiên, Mẹ đã sống vâng phục thánh ý Thiên Chúa trong suốt cuộc đời. Qua từng biến cố, Mẹ đã liên tục thưa những tiếng “Xin vâng”, để cùng với Chúa Giêsu tiến bước trong hành trình đức tin với lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha, để cuối cùng là lời “Xin vâng” hiệp nhất với Chúa Giêsu trên thập giá hoàn tất ý định của Thiên Chúa. Sau hai tiếng “Xin vâng” của Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.”
Với lời “Xin vâng”, Mẹ Maria quả thực đã trở thành người đầu tiên trong nhân loại nói lên sự vâng phục trọn vẹn đối với Thiên Chúa. Trong khi thế trần vui mừng vì hy vọng được tha thứ nhờ lời “Xin vâng” của Mẹ, thì Mẹ Maria lại nghĩ đến những đòi hỏi gắt gao của lời xin vâng đó. Mẹ biết lời xin vâng ấy sẽ dẫn đưa Mẹ trên con đường hy sinh, nhưng vì yêu nhân loại và khát khao làm vimh danh Thiên Chúa, Mẹ đã đón nhận tất cả để chương trình cứu độ được nên hoàn trọn.
Hình ảnh, con người xin vâng của Mẹ Maria quá tuyệt vời. Mẹ đã sửa sai cho người nữ đầu tiên trên trái đất này. Mẹ đã làm cho cục diện cứu độ được thay đổi, Mẹ đã làm cho những gì hư mất nay được phục hồi. Chính nhờ lời xin vâng tuyệt hảo mà Thiên Chúa cứ mãi chở che Mẹ, ấp ủ Mẹ.
Hình ảnh người phụ nữ trong sách Khải Huyền cũng chính là hình ảnh của Mẹ Maria. Đối diện với thế lực của quỷ dữ nhưng Mẹ được chở che vì Mẹ đã ôm trọn, Mẹ đã cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ đã được đưa ngay lên tòa của Thiên Chúa trước những thế lực quỷ dữ canh chừng ăn tươi nuốt sống Mẹ.
Và, hình ảnh hết sức đẹp mà chúng ta thấy trong trang Tin Mừng rất ngắn của Thánh Gioan. Mẹ Maria, đứng dưới chân thập giá, chỉ còn mình Mẹ và người môn đệ Chúa yêu, Mẹ cũng đã ôm trọn Gioan vào lòng để chở che Gioan trong nỗi cô đơn, trong nỗi cay đắng tột cùng của Chúa Giêsu. Mọi người bỏ đi hết, mọi người tháo chạy hết và chỉ còn mình Mẹ can trường dưới chân cây thập giá.
Mẹ là như thế ! Mãi mãi Mẹ vẫn như vậy trong suốt cả cuộc đời. Mẹ ôm con khi sinh con nơi hang đá Bê lem, Mẹ ôm con trốn sang Ai Cập, Mẹ ôm con dâng mình cho Chúa và Mẹ cũng ôm con Mẹ trên đỉnh đồi Gôn gô tha. Và, Mẹ đã ôm Gioan đại diện cho nhân loại vào trong lòng Mẹ để Mẹ chở che.
Bản tính Mẹ là như vậy, bản chất Mẹ là như vậy.
Mẹ yêu thương, che chở con người để rồi trong thế giới “Thánh tượng” (icon), tranh icon được biết đến nhiều nhất là bức “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” (Our Lady of Perpetual Help) – được vẽ vào khoảng thế kỷ 13 có nguồn gốc từ Hy Lạp theo truyền thống Byzantium – mà nguyên bản, từ năm 1866 đến nay, được đặt tại nhà thờ Thánh An Phong (Alfonso) ở Rôma, Ý.
Sự nổi tiếng này có nhiều nguyên do, mà trước hết là bởi niềm tin của giáo dân về sự linh thiêng của “Thánh tượng” (có vô số truyền thuyết về “quyền năng Thiên Chúa” thể hiện qua “Thánh tượng” này được lan truyền khắp nơi…).
Tiếp theo, phải kể đến sự kiện các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế đã chọn “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” làm bổn mạng cho sứ vụ chính của Hội Dòng, và nhận sự uỷ thác của Đức Giáo Hoàng Pi-ô IX phải truyền bá hình ảnh “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” cho toàn thế giới – kể từ năm 1866.
Đức Mẹ tuy bồng ẵm Chúa Giêsu trong lúc con mình sợ hãi, nhưng lại không hướng ánh mắt về con mình, mà về phía người đối diện ngắm nhìn bức ảnh. Điều đó như Đức Mẹ muốn nhắn gửi sứ điệp:
“Là người Mẹ, tôi biết con tôi đang tìm sự an ủi chở che, nên ngồi sát nép vào lòng tôi tìm sự an ủi giúp đỡ để con tôi làm trọn hảo ý Thiên Chúa muốn. Và tôi chấp nhận vâng theo ý Thiên Chúa bằng lòng để con tôi hy sinh cho công cuộc cứu rỗi loài người khỏi vòng tội lỗi. Tôi đã nói lời xin vâng theo ý Thiên Chúa ngay từ giây phút Thiên Thần đến truyền tin cho tôi. Điều này tôi không bao giờ rút lại.
Như Chúa Giêsu, con tôi, nép sát mình bên tôi khi sợ hãi lúng túng nhìn thấy cây thập giá, con người các bạn trong cơn khốn khó đau khổ, cũng được phép chạy đến tìm sự an ủi giúp đỡ nơi tôi.
Tôi là người mẹ luôn sẵn sàng phù hộ giúp đỡ cho những người cần đến kêu cầu tôi.
Và trong dòng thời gian do lòng kính mến cùng biết ơn, người ta ca tụng tặng tôi danh hiệu: Đức Bà phù hộ các giáo hữu! Đức Bà an ủi kẻ âu lo!
Tôi vui mừng được làm công việc của một người mẹ bây giờ ở trên trời chuyển lời cầu xin của người tín hữu tới nhan Thiên Chúa, Đấng là kho tàng mọi ân đức phúc lộc cho con người.”
Và đó đây trong kinh cầu Đức mẹ hằng cứu giúp, người tín hữu Chúa Kitô hát kêu xin: “Con xin dâng lên gia đình con cái, trong tay khoan nhân của Mẹ Chúa trời! Xin Mẹ thương hãy giúp đỡ con!”
Hôm nay, mừng kính Mẹ Hằng Cứu Giúp, một lần nữa, chúng ta chân nhận, chúng ta xác tín rằng Mẹ luôn luôn che chở, Mẹ luôn phù trì chúng ta : Mẹ nguồn cậy trông chưa thấy ai xin Mẹ về không, hỡi Mẹ Thiên Chúa, xin hãy lắng nghe con nài van. Mẹ nguồn an vui, ôi Nữ Trinh là nguồn an vui, hết tình kêu khấn con tin chắc Mẹ luôn nhận lời.
Chuyện quan trọng và hết sức quan trọng là chúng ta có bắt chước như Gioan là mang Mẹ về nhà của mình hay không ? chúng ta mang mẹ nào đó về nhà để rồi chúng ta cứ mãi hoang mang, mãi mất lòng tin.
Cuộc đời này có quá nhiều lắng lo để rồi chúng ta hoang mang, chúng ta mất lòng tin.
Cứ bắt chước như Gioan, hãy rước Mẹ về nhà mình để rồi gia đình chúng ta luôn được bình an dưới sự chở che của Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Lm. Anmai, C.Ss.R.
2023
Tỏa chiếu ánh Tin Mừng như Thánh Irênê
28.6 Thánh Irenaeus, Gmtđ
St 15:1-12,17-18; Tv 105:1-2,3-4,6-7,8-9; Mt 7:15-20
Tỏa chiếu ánh Tin Mừng như Thánh Irênê
Thánh Irênê sinh tại Tiểu Á và giữa thế kỷ II. Chúng ta biết được phần nào ngày sinh của Ngài, dựa vào bản tường thuật Ngài viết về thánh Policarpô. Ngài viết cho Flôrinô:
– “Tôi có thể nói với ông nơi thánh Pôlicarpô ngồi khi Ngài rao giảng lời Chúa, tôi được thấy Người ra vào. Bước chân, phong thái, cách sống và lời Ngài nói in sâu vào lòng tôi. Tôi như còn nghe thấy Người kể lại cách người đàm luận với thánh Gioan và các tông đồ khác đã thấy mặt Chúa. Người nói lại cho chúng tôi những lời nói và những điều các Ngài đã học được liên quan đến Chúa Giêsu. Các phép lạ và giáo thuyết của Chúa.
Thánh Irenê còn phấn khởi ghi thêm:
– “Tôi ghi nhận các hành vi và lời nói ấy không phải trên bảng viết mà là trong sâu thẳm tâm hồn. Thiên Chúa cho tôi được ơn không ngừng nhớ lại những kỷ niệm ấy trong lòng”.
Như vậy, thánh Irênê luôn nhớ mãi hình ảnh sống động của thánh Policarpô qua đời năm 155. Vậy có thể là thánh Irênê ra đời khoảng từ năm 130 đến 135, và Ngài được giáo dục tại Smyrna, làm môn đồ của thánh Pôlicarpô. Hấp thụ nền giáo dục gần với các tông đồ. Nhất là với thánh Gioan, thánh Irênê còn ở trong vòng ánh sáng mà tâm điểm là tình yêu đằm thắm giữa thánh Gioan với Chúa Kitô. Trong tác phẩm dài “Adversus Haereses” của Ngài. Chúng ta cảm thấy Ngài là người được thấm nhiễm một trực giác hiếm có.
Thánh Pôlicarpô gọi Irênê sang Gaule. Tại đây thánh Pôthinô, giám mục Lyon phong chức linh mục cho Ngài. Phần đóng góp của thánh Irênê cho Giáo hội thật lớn. Ngài chú tâm tới mọi khoa học, chuyên cần suy gẫm thánh kinh. Khi nghiên cứu huyền thoại và các hệ thống triết học ngoại giáo, Ngài biết tìm ra nguồn gốc các sai lầm và bác bỏ các lạc thuyết pha trộn huyền thoại vào Kitô giáo. Tertulianô đã tuyên nhận rằng không có ai nỗ lực tìm tòi hơn là thánh Irênê. Thánh Hiêrônimô, nại đến thánh nhân để củng cố uy tín của mình. Ngài được coi như là ánh sáng các vùng Gaules ở Phương Tây.
Năm 177, thánh Irênê được cử làm đại diện về Rôma, bên cạnh Đức giáo hoàng để thực hiện một sứ mệnh tế nhị là dàn xếp ngày mừng lễ phục sinh
Trở lại Lyon, thánh Irênê gặp lại một giáo đoàn côi cút. Marcô Aureliô vừa mới giết hại các Kitô hữu. Đức cha Pothinô đã bị sát hại. Thánh Irênê được bầu lên kế vị. Ngài trở thành thủ lãnh Giáo hội tại xứ Gaule, bận rộn với công việc rao giảng, thánh nhân vẫn viết sách để chống đỡ chân lý. Ngài phải chiến đấu không ngừng, bởi vì cuộc bách hại tưởng chấm dứt khi Marcô Aureliô qua đời, nhưng các lạc giáo lại nổi lên chống phá Giáo hội. Thánh Irênê dùng hết tâm trí và đức tin chống lại các lạc thuyết nhưng vẫn yêu thương những kẻ lầm lạc, Ngài cầu nguyện cho họ van nài họ trở về với Giáo hội thật:
– “Hợp nhất với Chúa là sự sống và là Sự sống …. Khốn khổ cho ai lìa xa sự hợp nhất ấy. Hình phạt đổ xuống họ không phải do Thiên Chúa mà do chính họ, vì khi chọn quay mặt khỏi Thiên Chúa, họ đánh mất mọi tài sản”.
Các tác phẩm lừng danh Ngài đã soạn khiến cho Ngài đáng được gọi là “Ánh sáng bên trời Tây”.
Dưới sự dẫn dắt của thánh Irênê, Lyon đã trở thành một trường dạy phụng sự Chúa đào tạo nhà tri thức và có khả năng truyền giáo. Thế hệ đầu tiên của trường đã bảo vệ đức tin tinh tuyền bằng những nghiên cứu và sách vở của họ. Thế hệ thứ hai phổ biến Tin Mừng đến những miền khác.
Hoàng đế Seltinô – Severô tái diễn cuộc bách hại. Ông gia hình cho đến chết những ai kiên trì với đức tin. Lyon là thành phố diễn ra cuộc hãm xác tập thể các Kitô hữu thật khủng khiếp. Máu chảy thành suối trên đường phố tiếp nối dòng máu các giám mục tử đạo, thánh Irênê, cũng bị hạ sát với đàn chiên mình. Một tài liệu cố tìm được cho thấy có đến 19 ngàn Kitô hữu cùng chịu khổ chịu chết vì đạo với Ngài.
Thánh Irênê đã dùng tài năng và trí thông minh Chúa ban để bảo vệ đức tin. Noi gương Thánh nhân, chúng ta hãy xin Chúa ban ơn để mỗi chúng ta cũng biết tận dụng khả năng Chúa ban cách riêng cho mỗi người để làm sáng danh Chúa.
Xưa nay chưa hề có chuyện lạ lùng này là “bụi gai có thể sinh ra trái nho”, hay “bụi găng có thể sinh ra trái vả”. Nhưng, ấy là chuyện của loài thực vật. Còn con người, thật khó mà thấu hiểu lòng dạ bên trong thế nào, có chăng, cũng chỉ nhìn thấy cái vẻ bên ngoài mà thôi. Vì thế, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta “Hãy coi chừng các tiên tri giả”. Chúa lên án cách sống giả hình của những người không yêu mến Chúa, không sống Lời Chúa dạy, và chỉ mượn Chúa, mượn Tin Mừng để đánh bóng mình. Họ đang dối Chúa, lừa mọi người.
Quả thực, đôi khi, chúng ta nhìn thấy cái vẻ ngoài của một người xấu xí, không sạch sẽ thơm tho, mà chúng ta xem thường họ là hèn kém. Và thông thường, nhìn ai sạch sẽ, xinh đẹp, sang trọng hay ra vẻ đạo mạo thì ta lại quý chuộng, kính nể và có khi còn cho là đàng hoàng đạo đức. Đôi mắt phàm của chúng ta luôn nhầm lẫn.
Nhưng trong mắt Chúa thì không. Bởi vì chỉ có Chúa mới thấu suốt lòng dạ con người. Chúa Giêsu nói: “Hãy xem trái thì biết cây. Cây tốt thì sinh trái tốt”. “Trái tốt” ở đây không phải cái vẻ bề ngoài có thể đánh lừa chúng ta đâu, nhưng là một cuộc sống tỏa chiếu ánh Tin Mừng. Bởi, nếu Tin mừng là sức sống cho cây cuộc đời chúng ta, thì hoa trái cuộc sống của chúng ta sẽ chan hòa tình yêu thương chân thành, như Chúa Giêsu đã sống yêu. Chúa muốn các gia đình chúng ta luôn lắng nghe và sống Lời Chúa Giêsu dạy, để Lời Chúa Giêsu thấm nhuần từ trong cõi lòng, và thể hiện ra trong từng lời nói, cử chỉ hành động, cách ứng xử với nhau, với người, với đời.