2023
SỐNG CAN ĐẢM NHƯ GIOAN TẨY GIẢ
Ngày 14 tháng 12
Màu trắng. Thứ 5, tuần 2, Mùa Vọng. Các bài đọc: Is 41,13-20; Mt 11,11-15. Lễ nhớ Thánh Gioan Thánh Giá, Linh mục, tiến sĩ Hội thánh.
SỐNG CAN ĐẢM NHƯ GIOAN TẨY GIẢ
Thánh Gioan Thánh Giá sinh tại Tây Ban Nha vào năm 1542. Thân phụ của ngài là một thợ dệt và ông đã qua đời khi Gioan còn rất trẻ. Gioan đi học tại một trường dành cho các trẻ em nghèo và nhận làm người giúp việc cho một ông giám đốc bệnh viện. Cùng thời gian ấy, Gioan ghi danh học ở trường đại học do các tu sĩ dòng Tên phụ trách. Dù còn trẻ, Gioan cũng hiểu được giá trị của việc hiến dâng những đau khổ cho Tình Yêu Chúa Giêsu.
Thánh Gioan Thánh Giá nài xin Thiên Chúa vui nhận những đau khổ ngài chịu hàng ngày vì lòng yêu mến Đức Chúa Giêsu.
Khi lên 21 tuổi, tình yêu Thiên Chúa đã thúc đẩy Gioan vào tu dòng Cát minh. Cùng với Thánh nữ Têrêsa Avila, Gioan đã được Thiên Chúa tuyển chọn để đem đến cho các tu sĩ một tinh thần nhiệt thành mới mẻ.
Thế nhưng cuộc đời của Gioan đã phải trải qua muôn vàn thử thách. Dù thành công trong việc thiết lập thêm nhiều tu viện mới, ở đó đường lối thánh thiện của Gioan được các tu sĩ thực hành, song chính bản thân Gioan cũng bị nhiều phê bình chỉ trích. Thậm chí Thánh nhân đã bị giam tù và bị hành hạ kinh khủng. Dường như Thiên Chúa đã bỏ rơi Gioan và ngài đã phải chịu đau khổ dữ dội. Tuy vậy, khi những cơn bão khó khăn này qua đi, Đức Chúa Giêsu đã ân thưởng cho đầy tớ trung thành của Người. Chúa ban cho Thánh Gioan bình an sâu thẳm và niềm vui tâm hồn. Gioan sống rất thân mật với Thiên Chúa. Sau chín tháng, Thánh nhân đã tìm cách thoát khỏi cảnh tù đày.
Thánh Gioan có một cách đối xử thật tuyệt vời đối với các tội nhân. Lần kia, có một bà tội lỗi rất đẹp đến cám dỗ ngài. Gioan đã giúp bà ăn năn thống hối những lầm lỗi của bà và cuối cùng bà đã thay đổi đời sống. Một đàn bà khác có tính nết hung dữ đến nỗi người ta phải gán cho bà nhãn hiệu là “kinh dị.” Tuy vậy, Thánh Gioan đã thuyết phục được bà bằng chính những đức tính tốt lành của ngài.
Thánh Gioan Thánh Giá nài xin Thiên Chúa vui nhận những đau khổ ngài chịu hàng ngày vì lòng yêu mến Đức Chúa Giêsu. Vị thánh này được nhiều người biết đến vì các sách thiêng liêng ngài viết, những sách chỉ dẫn cách sống thân mật với Thiên Chúa. Thánh nhân qua đời ngày 14.12.1591.
Đức Giáo Hoàng Clement X tôn phong Chân phước cho cha Gioan vào ngày 25 tháng 01 năm 1675, và Đức Giáo Hoàng Benedictus XIII đã nâng Ngài lên bậc Hiển thánh ngày 27 tháng 12 năm 1726. Đức Giáo Hoàng Pius XI đã tuyên xưng cha Gioan Thánh Giá là Tiến sĩ Hội Thánh vào ngày 24 tháng 8 năm 1926.
Theo luật tự nhiên, chúng ta cảm thấy vui, hạnh phúc và phấn khởi khi có ai đó khen mình, nếu người có chức, có quyền khen ngợi mình thì niềm vinh dự, và hạnh phúc đó càng “dâng cao”. Tuy nhiên, chúng ta có bao giờ sống để cho Chúa khen mình chưa? Hay chúng ta chỉ thích để người đời ca ngợi mình?
Qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu đã khen ngợi thánh Gioan Tẩy Giả: “trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả”.
Thánh Gioan Tẩy Giả quả thật là một ngôn sứ có phúc. Ngài đã được nhìn thấy Đấng mà Thiên Chúa sai ngài đi loan báo. Đấng ấy chính là Chúa Giêsu. Ngài là người dọn đường cho Chúa Giêsu… Và cả cuộc đời của ngài đã thi hành vâng theo ý muốn của Thiên Chúa.
Qua những lời Chúa Giêsu khen ngợi thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng hay để tâm hồn mình lắng nghe tiếng Chúa. Có thể Chúa cũng đang khen ngợi mỗi người chúng ta, mặc dù Chúa không nói rõ tên của mỗi người như năm xưa đã nói về thánh Gioan Tẩy Giả nhưng Chúa vẫn đang nói với chính mỗi người chúng ta, Chúa đang khen chúng ta là những người “có phúc”. Vì Chúa Giêsu đã nói: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”.
Gioan Tẩy giả từ trong ngục tù đã sai các môn đệ đến phỏng vấn Đức Giêsu có phải là Đấng Cứu Thế không. Sau khi đã trả lời, Đức Giêsu khen và so sánh Gioan Tẩy giả với mọi người thì Gioan cao trọng hơn hết, vì ông đã giúp dọn đường cho Chúa đến cứu nhân loại, đã làm phép rửa giúp mọi người thống hối. Nhưng nếu so sánh Gioan với người ở trong Nước trời, thì người nhỏ nhất trong nước này còn cao trọng hơn ông: phần thưởng ở đó rất lớn lao vì luôn có Chúa hiện diện.
Đức Giêsu khen Gioan Tẩy giả về chức vụ tiền hô của ông, vì ông đã thi hành rất hoàn hảo. Ông là người cao trọng hơn tất cả mọi người phàm từ trước tới nay, vì ông được vinh dự dọn đường cho Đấng Cứu Thế, và khi Ngài đến, ông còn được vinh dự giới thiệu Ngài cho mọi người biết.
Quả vậy, sánh với đạo cũ, ông là tiên tri trọng hơn các tiên tri, vì ông đã giúp vào việc dọn đường cho Đấng Cứu Thế ra đời gần hơn các tiên tri khác, và vì ông đã được thấy Chúa cũng như các việc Người làm.
Nhưng ông vẫn là người thuộc đạo cũ, bởi vậy, tuy là trọng nhất trong các tín đồ đạo cũ, nhưng lại nhỏ hơn hết sánh với các tín đồ thời đạo mới, vì trong luật đạo mới Thiên Chúa ban các ân huệ cao quý cho loài người cách rộng rãi hơn.
Thánh Gioan Tẩy giả là người quả cảm không bao giờ chịu lùi bước và chịu thua sự dữ. Ông dám can đảm ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình. Ông đã từ bỏ mọi sự, sống đời khó nghèo và sám hối trong hoang địa. Và sau cùng đã chịu cho người ta chặt đầu bỏ trên đĩa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy noi gương Gioan Tẩy Giả: sẵn sàng lên tiếng loan báo Đức Giêsu cho mọi người, dù thuận tiện hay không thuận tiện. Sẵn sàng sống sự khiêm tốn để cho nội dung lời loan báo có hồn và vui lòng nhường lại sân khấu cho diễn viên chính là Đức Giêsu. Có thế, chúng ta mới hy vọng Đức Giêsu khen ngợi là người có phúc như Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Mùa vọng là thời gian tỉnh thức và nỗ lực. Nỗ lực chiến đấu với bản thân mình, từ bỏ những đam mê, những thói quen không tốt, những việc làm không chính đáng, phải dấn thân thi hành giới ranh mến Chúa yêu người thì chúng ta mới mong được vào Nước Trời.
2023
HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Ngày 13 tháng 12
Thứ 4, tuần 2, Mùa Vọng. Các bài đọc: Is 40,25-31; Mt 11,28-30. Lễ nhớ Thánh Lucia, trinh nữ, tử đạo.
HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG
Lucia sinh ra tại Syracusas ở đảo Sicilia thuộc nước Ý. Cô mồ côi cha ngay từ khi còn bé. Cô đã theo đạo ngay từ nhỏ, và đã được giáo dục đức tin vào Chúa thật chu đáo. Cô cũng đã có ước nguyện dành trọn cuộc đời của mình để thờ phụng Chúa.
Cuộc sống tưởng sẽ êm đềm trôi, ai dè khi vừa tới tuổi trưởng thành thì một sự việc đã xảy ra ngoài ý muốn của cô. Mẹ của cô, một người gốc Hy Lạp tên là Eutychia đã ép buộc cô phải lập gia đình với một chàng thanh niên giàu có của một gia đình quen biết theo tập tục thời bây giờ, bất chấp sự thoả thuận của đôi nam nữ này.
Rất may một biến cố bất ngờ xảy ra trong gia đình giúp Lucia “thoát nạn”. Bà mẹ của cô bị một cơn bệnh “thập tử nhất sinh” nhưng cuối cùng bà đã qua khỏi. Lucia cho rằng bà được khỏi là do phép lạ của Chúa, do việc cầu nguyện của cô. Chính sự việc này đã khiến bà đổi ý không còn bắt Lucia phải kết hôn nữa. Từ đó Lucia thêm phần tin tưởng vào Chúa. Cô bán tất cả phần gia tài mình có rồi phân phát cho kẻ nghèo khó.
Sự việc tưởng như thế là xong nhưng có dè đâu chàng thanh niên bị từ chối kết hôn vẫn còn say mê Lucia. Vì bị từ chối kết hôn, anh ta cảm thấy cay cú nên đã tố cáo Lucia với Hoàng đế Roma là Ðiôclêtianô lúc đó. Ông vua này vốn là một người không có cảm tình gì với người Kitô hữu. Ngược lại còn căm ghét những người có đạo một cách điên cuồng. Lucia bị bắt và bị giam cầm chỉ vì cô là người có đạo và hiện đang theo đạo.
Lính tráng đã giải cô đến trước mặt vị quan Paschase. Paschase đã dụ dỗ cô dâng hương tế thần nhưng cô không đồng ý, sau đó ông này âm mưu muốn hủy hoại đời trinh tiết của Lucia bằng cách để cho số thanh niên dâm đãng làm nhục cô cho đến chết. Nhưng tình thương của Chúa thật nhiệm màu. Chúa đã làm phép lạ gìn giữ Lucia làm cho thân xác Lucia hoá ra nặng như đá nên không kẻ nào có thể làm hại được nàng.
Sau đó với sự nóng giận của một người thua cuộc, quan Paschase đã cho quân lính tẩm dầu vào thân xác Lucia và đốt cháy cho đến chết. Lucia đã hy sinh vì Chúa năm 304.
Chúa Giêsu kêu gọi những kẻ khổ cực lầm than đến với Ngài để được nâng đỡ giúp sức. Chúa Giêsu ở giữa con người, sống kiếp con người. Ngài cảm thông với tất cả những lao đao, khốn cùng của con người. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài để được an ủi, đỡ nâng. Hãy đến với Chúa là mạch tình yêu. Tình yêu ban sức mạnh để ách trở nên êm ái và gánh được nhẹ nhàng.
Trong ngôn ngữ do thái, “gánh” và “ách” vừa có nghĩa là luật lệ vừa có nghĩa là giáo huấn. “Mang lấy ách” hoặc “Mang lấy gánh” của ai nghĩa là làm đệ tử người đó, chịu sự giáo huấn của người đó, sống theo luật lệ của người đó.
Văn mạch: trước đoạn này, Chúa Giêsu vừa nói về “những bậc khôn ngoan thông thái” do thái tức là các rabbi, các người biệt phái . Dân chúng đã cảm thấy quá nặng nề và mệt mỏi khi học với họ và sống theo cách giải thích lể luật khắt khe của họ.
Chúa Giêsu mời người ta học với Ngài và sống theo luật Ngài. Giáo huấn và lề luật của Ngài đặt nền tảng trên lòng yêu thương (Ga 13,34). Cách đối xử của Ngài đầy lòng hiền hậu và khiêm tốn (câu 29). Bởi đó ai học với Ngài và sống theo luật Ngài thì sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng và cảm thấy êm ái, nhẹ nhàng.
Trong cuộc sống hằng ngày, ai trong chúng ta cũng đã cảm nghiệm được vất vả, mang gánh nặng, chịu gian nan thử thách, chịu đau khổ cả tinh thần lẫn vật chất, từ bản thân đến gia đình và xã hội.
Bên Chúa, con người hôm nay tìm thấy được một nơi yên nghỉ sau những giây phút mệt mỏi của đời sống và đặt tất cả mọi nỗi lo âu, những gánh nặng trần thế như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi” (Mt 11,28). “Các con hãy mang lấy ách của Ta”. Đây là kiểu nói bóng trong truyền thống Thánh Kinh nơi các thầy rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhìn nhận ai là thầy (Hc 51,31; Is 55,1). Chúng ta nhìn nhận và học nơi Thầy Giêsu hiền lành và khiêm nhu, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới như Thầy đã dạy.
Con người sẽ tìm thấy bình an, khi nhìn nhận sự bé nhỏ của mình trước Đấng Tạo Hóa và phó thác vào Ngài, họ được chính nước Trời khi giữa phong ba cuộc đời giữa những mỏi mệt của cuộc sống đó là mầu nhiệm nước Trời mà người không tin vào Chúa Giêsu không thể cảm nghiệm.
Chúng ta mang tâm tình tín thác trong cuộc sống: “Hãy trao phó mọi việc trong tay Chúa, thì bạn sẽ thành công, Ngài sắp xếp mọi sự để thực hiện ý Người” (Cn 34,4).
Trường học của Chúa Giêsu, người theo học được mời gọi sống theo gương mẫu của Ngài: hiền lành và khiêm nhường, nghĩa là bất bạo động, tràn đầy tình thương, nhân từ, tha thứ và liên đới giữa mọi người, đặc biệt là những người bé mọn, bị bỏ rơi, bị khinh miệt, kỳ thị và đàn áp.
Khi biết cách sống tình yêu thương đại đồng và phát huy tình yêu thương không biên giới đó, nghĩa là không hận thù, không bạo động, con người sẽ đạt được bình an nội tâm và thể hiện nó ra trong cuộc sống cá nhân, gia đình và xã hội
2023
Tìm cứu những ai lầm lạc
Ngày 12 tháng 12
Thứ 3, tuần 2, Mùa Vọng. Các bài đọc: Is 40,1-11; Mt 18,12-14.
Tìm cứu những ai lầm lạc
Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha nên Ngài cũng xưng mình là mục tử: “Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10,1-18, 27-28). Ngài là mục tử nhân lành hiến thân cho đoàn chiên. Ngài còn nhận chính Ngài mà mục tử cho Israel – một đàn chiên bị bỏ rơi (x. Mt 9,36). Ngài khẳng định sứ vụ mục tử của Ngài là tìm kiếm những con chiên lạc (Mt 10,6), điều đó biểu lộ Thiên Chúa luôn nhân hiền, bao dung, xót thương những con người tội lỗi sa ngã.
Ngài cũng mời gọi tất cả các mục tử trong cộng đoàn thi hành sứ vụ tìm kiếm những con chiên lạc khi dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về, vì Ngài không muốn bất cứ kẻ mọn hèn nào trong cộng đoàn bị hư mất: “Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn” và ý Cha trên trời là: “Không muốn một ai trong những kẻ bé mọn phải hư mất” (Mt 18,14).
Trong dụ ngôn có một chi tiết làm chúng ta thắc mắc: “Để 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc!” Ta sẽ không thể hiểu được những câu này, nếu ta chỉ suy nghĩ theo luân lý tính toán vụ lợi. Trái lại ta sẽ hiểu rất dễ nếu suy nghĩ theo lý lẽ của con tim, như Blaise Pascal nói: Con tim có lý lẽ của nó” như: một người mẹ lạc con, phải chăng bà để các đứa con khác ở nhà và tất cả đi tìm đứa bị lạc.
Người mục tử bỏ 99 con chiên lành để đi tìm con chiên lạc, không phải vì lý do kinh tế vì một con không đáng giá gì, nhưng chỉ vì tình thương thôi.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những người lầm lỗi; nhưng Ngài chỉ có thể tha thứ khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ để trở nên một vị thánh. Kẻ trộm trở nên thánh không phải vì là người tội lỗi, nhưng vì người trộm nhận biết mình là kẻ có tội.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Chúng ta cũng phải bắt chước Chúa mà thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hoá nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra mà bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, và biết cầu nguyện cho anh em.
Kinh Thánh nói rất nhiều hình ảnh Thiên Chúa là người mục tử: Thánh Vịnh ca ngợi Thiên Chúa là người mục tử của dân (x. Tv 22; 79,2; 94,7), Ngôn sứ Isaia còn nhấn mạnh hình ảnh mục tử Giavê: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt ” (Is 40,11). Ngôn sứ Giêrêmia đã loan báo Vua của Giuđa sẽ mang trách nhiệm người mục tử (x. Gr 2,8; 10,21). Thiên Chúa sẽ cho dân người những người mục tử mới với sự khôn ngoan (x. Gr 3,15; 23,1-4; Ed 34; Gcr 11,4-17). Êdêkien còn loan báo chỉ có một vị vua mới là mục tử (x. Ed 37,24).
Chúa Giêsu nhấn mạnh: Ngài là mục tử nhân lành hiến thân cho đoàn chiên (x. Ga 10,1-18. 27-30). Ngài còn nhận chính Ngài là người mục tử cho Israel – một đoàn chiên bị bỏ rơi (x. Mt 9,36; Mc 6,34). Ngài khẳng định sứ vụ mục tử của Ngài là tìm kiếm những con chiên lạc (x. Mt 10,6; Lc 15,4-7 ; Mt 18,12-13), điều đó biểu lộ Thiên Chúa luôn nhân hiền, bao dung, xót thương những con người tội lỗi sa ngã.
Ngài cũng mời gọi tất cả các mục tử trong cộng đoàn thi hành sứ vụ tìm kiếm những con chiên lạc khi dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về, vì Ngài không muốn bất cứ kẻ bé mọn nào trong cộng đoàn bị hư mất: “Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn” (Mt 18,10) và ý của Cha trên trời là: “Không muốn một ai trong những kẻ bé mọn phải hư mất” (Mt 18,14). Cho nên người mục tử dành tình thương và cảm thông cho những thành viên lầm đường lạc lối.
Giáo hội là hiện thân của Ðức Giêsu và mỗi người chúng ta là chi thể của Ngài. Cho nên, chúng ta cũng được mời gọi yêu thương, tiếp nối sứ mệnh mục tử nhân lành của Ðức Giêsu Kitô khi giúp những anh em lầm lỗi trở về với Chúa.
Chúng ta cũng phải bắt chước Chúa mà thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hoá nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra mà bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, và biết cầu nguyện cho anh em.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
2023
Lòng tin
Ngày 11 tháng 12
Thứ 2, tuần 2, Mùa Vọng. Các bài đọc: Is 35,1-10; Lc 5,17-26.
Lòng tin
Câu chuyện Tin mừng hôm nay kể về việc người bị bại liệt được các bạn và người thân của mình đem đến cho Chúa Giêsu chữa lành. Họ tìm hết cách mà không thể nào đưa anh bại liệt đến gần Chúa Giêsu được vì người ta vây quanh Người. Bất đắc dĩ họ đành táo bạo đưa người bại liệt trổ nóc nhà và thòng dây xuống để anh được ở ngay trước mặt Chúa Giêsu.
Điều mà họ muốn đưa người bệnh tới với Chúa Giêsu cốt là để anh được chữa lành thể lý và có thể đi lại được. Đâu ai ngờ rằng Chúa Giêsu cảm phục lòng tin của họ vào Người, nên Người chữa cho anh cả về mặt đức tin khi nói: “Này anh, anh đã được tha tội rồi” (c. 20). Chúa Giêsu giờ đây có cơ hội để tỏ cho nhóm các biệt phái và luật sĩ thấy rằng vì là Thiên Chúa, được chia sẻ chức vị thần linh với Chúa Cha, nên chỉ bằng một lời phán của Người thì có quyền năng ban ơn tha thứ. Điều này dường như vượt tầm suy nghĩ của những người có mặt hôm ấy, nhưng đó lại là sự thật đã được các ngôn sứ báo trước, cụ thể trong Bài đọc : Chúa sẽ cứu thoát tâm hồn trước khi chữa lành thể xác dân ngài (x. Is 35,4-6).
Đang lúc Đức Giêsu ngồi giảng dạy trong nhà, người ta khiêng một người bất toại đến. Vì dân chúng quá đông, họ không khiêng vào được đã dỡ ngói mái nhà rồi thòng chiếc chõng người bệnh xuống trước mặt Người. Chúa thấy họ có lòng tin mạnh mẽ như thế nên nói với người bệnh: “Này anh, anh đã được tha tội rồi”. Nhóm biệt phái và luật sĩ không tin nhận Người là Thiên Chúa nên cho lời nói đó là phạm thượng, vì chỉ có mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Để chứng tỏ mình là Thiên Chúa có quyền tha tội. Chúa bảo người bất toại trỗi dậy vác giường mà về, tức thì anh trỗi dậy vác chõng ra về trước sự kinh ngạc của mọi người.
Bệnh bất toại hay bại liệt thường do đứt hay tắc mạch máu não do những chứng áp huyết cao, đau màng óc, chấn thương sọ não, sưng bướu óc, sưng cơ tim, kinh phong hay do vi khuẩn phá huỷ tuỷ sống. Y học ngày nay có thể giải phẫu để nối mạch máu, lấy bướu máu, chạy điện trị liệu vật lý để chữa bệnh tê liệt nhẹ. Đối với chứng bất toại nặng thì khoa học hoàn toàn bất lực. Hiện nay có nhiều người bán thân bất toại hay bất toại hoàn toàn chỉ còn chờ chết thôi.
Đức Giêsu cũng tỏ lòng trắc ẩn đối với những bệnh nhân ấy, nên đã chữa lành cho một người bị bại liệt. Nhưng cách chữa bệnh của Ngài hôm nay hơi khác thường: thay vì chữa bệnh như thường lệ, Ngài lại tha tội cho bệnh nhân trước rồi mới chữa bệnh sau. Việc làm này khiến các luật sĩ và biệt phái rất tức giận.
Tuy nhiên, Đức Giêsu làm như thế là ngầm bảo họ rằng: Ngài có quyền tha tội vì Ngài là Thiên Chúa. Việc làm này cũng nhắc nhở chúng ta phải chữa bệnh bại liệt tâm hồn. Phải chú trọng đến sức khỏe phần hồn hơn phần xác.
Thực tế cho thấy người ta dễ dàng nhận ra tình trạng bại liệt thể lý khi bị mất khả năng cử động các giác quan. Nhưng rất khó để nhận ra tình trạng bất toại thiêng liêng. Cũng như người biệt phái và các luật sĩ, khi thấy Chúa Giêsu được uy tín trước lòng dân, họ ghen tị sinh ra căm phẫn và tức tối, nên muốn tìm cách hãm hại, loại bỏ Người.
Trước việc tốt một người thực hiện, chưa chắc ai ai cũng đều đón nhận. Lý do là vì những thành kiến vô hình ngăn cản ta đến với Chúa hoặc với anh chị em, hay những định kiến khiến ta không thể thoát khỏi nỗi buồn, cơn giận, tự dằn vặt và để mình bị sống trong tổn thương nào đó mà không dám mở ra để đón nhận, để bao dung.
Hành động của những người thân của người bại liệt đáng để mỗi Kitô hữu suy nghĩ trong Mùa Vọng này. Họ yêu thương người thân của mình, dù con người ấy không có khả năng hoạt động. Họ tìm cách cứu chữa, không thất vọng, mà công việc ấy chẳng phải dễ dàng. Đám đông không còn là trở ngại không thể vượt qua, bởi tình yêu giúp họ thêm sáng kiến, mở lối đưa người thân của mình đến cùng Đấng chữa lành. Dĩ nhiên, Chúa vẫn luôn đòi hỏi người được chữa lành phải có đức tin. Nhưng ở đây, đức tin của những người thân và sự phục vụ đầy yêu thương của họ nâng đỡ đức tin yếu ớt và làm sống lại niềm hy vọng nơi con người bị bệnh tật chôn vùi trong nhiều năm tháng. Những người thân của anh đã giúp anh gặp lại được Đức Giêsu.
Qua phép lạ này, chúng ta thấy Chúa thường đáp lại lòng tin và lòng bác ái của người đến kêu xin như Ngài thường nói: “Đức tin của con đã chữa con”. Hôm nay chúng ta phải chân nhận rằng: những người khiêng người bại liệt có lòng tin sâu sắc, lòng tin ấy được biểu lộ qua lòng bác ái chân thật, một tình thương sáng ngời, những việc làm của họ có sức lay động cả trái tim của Đức Giêsu. Và kết quả hết sức tốt đẹp như Tin mừng hôm nay đã trình bày cho thấy.