2023
Các Mối Phúc Thật
13.9 Thánh Gioan Chrysostom, Gmtsht
Cl 3:1-11; Tv 145:2-3,10-11,12-13; Lc 6:20-26
Các Mối Phúc Thật
Sự mơ hồ và mưu đồ trong thời đại Thánh Gioan Kim Khẩu, vị thuyết giáo đại tài của Antioch, là đặc tính của bất cứ ai có địa vị sống ở thành phố lớn trong thời ấy. Được đưa đến Constantinople sau mười hai năm sống đời linh mục ở Syria, bỗng dưng Thánh Gioan thấy mình là nạn nhân bất đắc dĩ của vị hoàng đế mưu mô muốn đưa ngài làm giám mục của thành phố lớn nhất triều đình. Là một người khổ tu, không bệ vệ nhưng có phẩm cách, và bị đau bao tử vì những ngày sống trong hoang địa như một ẩn sĩ, Thánh Gioan bắt đầu chức giám mục dưới mây mù chính trị của triều đình.
Nếu thân xác ngài yếu đuối thì miệng lưỡi của ngài lại mạnh dạn. Nội dung các bài giảng của ngài, điều ngài dẫn giải về Kinh Thánh, không bao giờ sai vấn đề. Có khi những quan điểm ấy chọc giận giới quyền cao chức trọng. Có khi một số bài giảng kéo dài đến hai giờ đồng hồ.
Lối sống của ngài ở triều đình không được một số cận thần ưa thích. Ngài đề nghị một chỗ ngồi khiêm tốn cho các kẻ bợ đỡ hàng giáo phẩm đang chầu chực để được hưởng ơn mưa móc của triều đình và giáo hội. Thánh Gioan phàn nàn về nghi thức triều đình đã đưa ngài lên địa vị cao hơn các viên chức chính phủ. Ngài không phải là người muốn được ưu quyền.
Vì nhiệt huyết nên ngài hành động. Những giám mục hối lộ để được quyền cao chức trọng đều bị truất phế. Nhiều bài giảng của ngài kêu gọi những hành động thực tiễn để chia sẻ của cải cho người nghèo. Người giầu không thích thú gì khi nghe thánh nhân nói rằng, sở dĩ có của cải trần gian là vì Adong phạm tội, cũng như các ông không thích nghe ngài nói về sự trung tín trong hôn nhân của người chồng cũng giống như người vợ. Đối với vấn đề công bình và bác ái, Thánh Gioan không bao giờ chấp nhận thái độ kỳ thị trong việc áp dụng.
Vì lối sống tách biệt, vì tính khí thẳng thắn, nhất là khi trên tòa giảng, Thánh Gioan chắc chắn là mục tiêu để nhiều người chỉ trích và hục hặc cá nhân. Ngài bị kết tội tham ăn uống một cách lén lút. Vì trung thành trong công việc linh hướng cho một quả phụ giầu có, là bà Olympia, ngài đã bị cho là giả hình trong vấn đề của cải và bác ái. Hành động của ngài chống với các giám mục bất xứng ở Tiểu Á bị các giáo sĩ khác coi là hám danh, lạm dụng quyền thế trái với quy tắc giáo luật.
Hai nhân vật nổi tiếng thời ấy đã đích thân làm mất uy tín Thánh Gioan là Theophilus, là Tổng Giám Mục Alexandria, và Hoàng Hậu Eudoxia. Theophilus sợ rằng địa vị của Đức Giám Mục Constantinople ngày càng quan trọng nên đã nhân cơ hội kết án Thánh Gioan là dung dưỡng tà thuyết. Đứng sau Theophilus và các giám mục không ưa gì Thánh Gioan là hoàng hậu Eudoxia. Bà bực tức với bài giảng của thánh nhân về sự tương phản giữa giá trị phúc âm và cuộc sống xa hoa của triều đình. Không biết vô tình hay cố ý, một số bài giảng của ngài đề cập đến Jezebel* đáng ghê tởm và Herodias** vô đạo như những đồng minh của bà hoàng hậu, là người sau cùng đã xoay xở để Thánh Gioan phải lưu đầy. Ngài chết trong cảnh đầy ải năm 407.
Jezebel là một cái tên đã trở thành biểu tượng, đồng nghĩa với xảo trá và tội lỗi và thường để gán cho những phụ nữ dối trá một cách trơ trẽn.
Herodias là người đã dùng nhan sắc để lấy người em rể có quyền thế là vua Hêrôđê Antipas. Herodias là người đã mưu mô để giết Thánh Gioan Tẩy Giả.
Chúa Giêsu quả thực đã sống như một người nghèo giữa những người nghèo; đã tuyên bố: Phúc cho những kẻ nghèo đói, phúc cho những kẻ đang khóc lóc, phúc cho những kẻ bị bách hại, Chúa Giêsu hẳn phải là người hạnh phúc nhất, vì Ngài đã đi đến tận cùng sự nghèo đói, bách hại ấy. Chúa Giêsu đã không làm phép lạ cho trái đất luôn chảy sữa và mật, Ngài đã không đem lại một giải pháp chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể nào; thế nhưng, cuộc sống, lời nói và cái chết của Ngài lại là chìa khóa giúp giải quyết các vấn đề của con người. Quả vậy, vấn đề cơ bản của con người là gì, nếu không phải là được sống hạnh phúc; tuy nhiên, sai lầm lớn nhất của mọi thời chính là nghĩ rằng càng có nhiều tiền của, quyền bính, danh vọng thì càng được hạnh phúc.
Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dụng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giêsu nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giêsu đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giêsu là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người.
Chúa Giêsu được mọi người biết đến là một người nghèo. Nghèo từ khi sinh ra đến lúc từ giã thế gian để về với Chúa Cha.
Chính Chúa Giêsu đã ví cuộc đời của mình như: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu”.
Lúc sinh thời, nhất là trong thời gian loan báo Tin Mừng, từ lối sống đến hành động, Ngài luôn quan tâm đến tận cùng kiếp sống con người, nhất là những người khốn khó, bệnh hoạn, tật nguyền. Nên Chúa Giêsu không ngần ngại để sống với những người nghèo hèn, cảm thông cho những người tội lỗi và ăn uống với họ, đồng thời luôn coi họ như những bạn. Sẵn sàng đứng về phía họ để bênh đỡ, chở che.
Tinh thần và lối sống đó hôm nay được Chúa Giêsu chính thức chúc phúc, và qua đó như một lời mời gọi mọi người đi theo con đường đó để được hạnh phúc: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi”.
Phải chăng Chúa Giêsu là người cổ hủ, lối sống lỗi thời và Ngài cổ súy cho cái nghèo để rồi những ai muốn đi theo Ngài thì phải sống một cuộc sống bần cùng, cơ cực?
Thưa! Hẳn là không rồi! Qua mối phúc này, Chúa Giêsu muốn cho con người được hạnh phúc hoàn toàn, khi không bị chi phối bởi lòng ham muốn tiền bạc, vì nếu mê mẩn với chúng thì sẽ trở thành nô lệ cho tiền bạc mấy hồi!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hướng tâm hồn lên Chúa Giêsu và quy chiếu cuộc đời của ta với Ngài để vui mừng khi được sống tinh thần nghèo khó như Ngài.
Một cách cụ thể, đó là sống hết mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân, nhất là những người bần cùng trong xã hội.
Cần phải xác định thật rõ rằng: gia tài đích thực của chúng ta là Thiên Chúa. Giá trị lớn lao nhất là sống cho Thiên Chúa qua cung cách phục vụ tha nhân. Cùng đích của con người không phải là của cải chóng qua đời này mà là cuộc sống mai hậu.
Khi chúng ta lâm cảnh nghèo đói và gặp đau khổ trong cuộc sống trần gian, chúng ta hãy tin tưởng vào Lời Chúa hứa với hy vọng để được hạnh phúc, vì Nước Trời là của anh em, anh em được no thoả, anh em sẽ được vui mừng, phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Nếu chúng ta được Chúa ban giàu có, thì chúng ta phải biết dùng vật chất để phát triển xã hội, giúp đỡ người nghèo đói, nâng cao đời sống văn minh, phục vụ tha nhân trong tinh thần bác ái, từ thiện, thì đó là cái giàu hạnh phúc, vì biết dùng của cải vật chất để được công phúc trên trời.
Chúng ta đừng bao giờ dừng lại trong sự thoả mãn hạnh phúc trần gian, nhưng phải tìm sự thoả mãn với những thực tại thiêng liêng để vươn mình lên, để định hướng cho sự sống đời đời của mình. Chúng ta đừng ỷ lại với cái vui thú trần thế mà tự mãn cho bản thân, không màng chi đến niềm vui hạnh phúc đời đời. Chúng ta hãy lo làm vinh danh Thiên Chúa, nếu mình được vinh danh thì hãy vinh danh trong Chúa, vì được diễm phúc hiệp thông với Chúa, vinh danh vì Chúa nghĩa là mọi sự đều bởi Chúa ban cho, vinh danh với Chúa vì mọi việc chúng ta làm để tôn vinh danh Chúa. Chúa Giêsu luôn nhắn nhủ chúng ta phải tìm đến hạnh phúc đích thực là thứ hạnh phúc có Chúa ở cùng trong cuộc sống đời này và đời sau.
2023
Tuyển chọn
12.9 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Cl 2:6-15; Tv 145:1-2,8-9,10-11; Lc 6:12-19
Tuyển chọn
Khi biết được giới lãnh đạo Do thái đang tìm cách loại trừ mình, Đức Giêsu trải qua một đêm dài cầu nguyện với Cha Ngài và đến sáng ngày hôm sau, Ngài quyết định chọn 12 vị tông đồ. Những vị tông đồ được Chúa tuyển chọn là những con người rất đỗi bình thường giữa dân chúng, chứ không nổi bật hay lỗi lạc gì hơn dân chúng. Chúa chọn các ngài không phải các ngài có tài cán gì, nhưng vì các ngài có khả năng ứng đáp lời mời gọi của Chúa và chấp nhận để Chúa uốn ắn, điều chỉnh con người của các ngài.
Các ngài sẽ là biểu tượng và nên móng của một Israel mới mà Chúa sẽ thiết lập vì Israel cũ không còn khả năng dung nạp hay thông truyền ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa cho muôn dân nữa. Nói cách khác, trên nền tảng 12 tông đồ (đại diện cho mười hai chi tộc Israel) Chúa khôi phục nhà Israel và Israel mới đươc khôi phục có khả năng chuyển tải ơn cứu độ phổ quát cho muôn dân tộc.
Trước khi tuyển chọn, Chúa Giêsu đi lên ngọn núi và cầu nguyện: Chúa Giêsu là một người thường xuyên cầu nguyện (Lc 5,16 6,12 9,18.28.29 10,21 11,1.22.32.40-46 23,34.46). Ngài cầu nguyện tha thiết trong những lúc quan trọng (3,21 9,28-29 22,41). Lần này Ngài cầu nguyện “suốt đêm”, chứng tỏ việc Ngài sắp làm là hết sứ quan trọng, quan trọng đối với sứ vụ của Ngài và quan trọng đối với toàn thể lịch sử cứu độ.
Đó là việc gì? là việc tuyển chọn từ số đông môn đệ ra 12 người mà Ngài gọi là tông đồ:
Khi ghi nhận các tông đồ được tuyển chọn khỏi hàng ngũ môn đệ, Lu Ca tỏ ra quan tâm tới các tác vụ trong Giáo hội. Quan tâm này sẽ được khai triển nhiều hơn nữa trong quyển công vụ (chẳng hạn Cv 6,17). Môn đệ là tất cả những ai “đi theo” Chúa Giêsu; còn tông đồ là những môn đệ được tuyển chọn kỹ để làm “cán bộ”. Điều kiện được tuyển chọn là:
Đã từng sống với Chúa Giêsu và chứng kiến việc Ngài chết và sống lại;
Được “sai đi” (đây là ý nghĩ của chữ “tông đồ” apostolos) để loan báo Tin Mừng sống lại ấy. Lu Ca dành riêng danh hiệu “tông đồ” cho nhóm tông đồ 12 vì chỉ có họ mới hội đủ hai điều kiện này. ngay cả với Phaolô, Lu Ca cũng không gọi ông là “tông đồ”, vì Phaolô là tông đồ theo một nghĩa khác hơn.
Đức Giêsu đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha trước khi chọn các Tông đồ. Điều này chứng tỏ việc tuyển chọn các Tông đồ rất quan trọng, vì các ngài tiếp tục sứ mệnh của Đức Giêsu. Chúa gọi và chọn họ chứ họ không cho mình được chọn hoặc tự ứng cử, nghĩa là Chúa ở một vị thế cao hơn, Chúa là trung tâm chứ không phải họ được quyền lấy mình làm chuẩn; như thế điều kiện đầu tiên để trở thành Tông đồ là do Chúa chọn. Các môn đệ lại với Ngài, nghĩa là họ phải được tách ra khỏi đám đông và đến; như thế, điều kiện thứ hai là khi được gọi, họ phải được tách riêng ra, nghĩa là phải có sự thay đổi đời sống nên tốt hơn.
Sau một thời gian thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến, trong số đó có những người ngưỡng mộ, có kẻ nghịch thù. Chung quanh Ngài cũng có nhiều môn đệ. Bây giờ đến lúc Ngài tuyển chọn một nhóm nòng cốt sẽ lãnh trách nhiệm phổ biến Lời Ngài.
Đối với Chúa Giêsu, con số 12 có một giá trị tượng trưng: các Tông đồ là 12 viên đá sống thay thế cho 12 viên đá lấy ở sông Giođan (Gs 4,1-6) cho đến thời mới. Các ngài là tổ phụ cho dân tộc mới và là quan xét để xét xử các công dân của vương quốc tương lai.
Ngày nay, tiếp nối sứ vụ của thánh Phêrô là Đức Giáo hoàng, và tiếp nối sứ vụ của các Tông đồ là các Giám mục, và Linh mục là đại diện của Giám mục trong việc chăm sóc và điều khiển dân Chúa. Ý nghĩa này khơi dậy cho người Kitô hữu có lòng yêu mến, vâng phục và trung thành với Đấng Bản quyền của mình trong Hội thánh, và nhiệt tình góp phần mình vào việc xây dựng và phát triển Hội thánh.
Chúa Giêsu đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ đã được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê, có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế là hạng người thường bị khinh bỉ.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi. Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”, hoặc “Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”.
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
2023
Vui với người vui
11.9 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Cl 1:24; Cl 2:3; Tv 62:6-7,9; Lc 6:6-11
Vui với người vui
Tin mừng hôm nay ghi lại một nỗ lực của Chúa Giêsu nhằm nhắc nhở cho người Do thái về cái cốt lõi của đạo được thể hiện qua lề luật. Một trong những khoản quan trọng của lề luật chính là ngày hưu lễ. Chúa Giêsu đã không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật, và kiện toàn lề luật chính là mặc cho tinh thần và ý nghĩa của yêu thương; không có tình thương, lề luật chỉ còn là một cái xác không hồn. Như vậy, kiện toàn luật giữ ngày hưu lễ chính là biến ngày đó thành ngày tôn vinh Thiên Chúa, và không gì đứng đắn và xứng hợp hơn để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày hưu lễ, cho bằng thể hiện tình thương đối với tha nhân.
Chính trong ý nghĩa ấy mà Chúa Giêsu đã chữa lành một người có bàn tay khô bại trong ngày hưu lễ. Lề luật là một thể hiện ý muốn của Thiên Chúa, và ý muốn của Thiên Chúa không gì khác hơn là con người được sống, và sống dồi dào, sung mãn chí là sống yêu thương. Như vậy chu toàn lề luật trước tiên là sống yêu thương
Trong hành trình đi loan báo Tin Mừng, người ngôn sứ trong Cựu Ước gặp biết bao từ khước, bị chống đối và thậm chí còn bị đe doạ đến tính mạng. Thánh Gioan Tẩy Giả vì nói lên tiếng nói chân lý, muốn bảo vệ luân lý đạo đức mà ngài đã bị chém đầu. Chúa Giêsu-Vị ngôn sứ quyền năng không thoát khỏi số mệnh đã dành riêng cho Ngài. Mặc dầu Ngài đã đem Tin Mừng cho người nghèo, giải phóng kẻ bị áp bức và kẻ bị cầm tù, đem ánh sáng cho người mù, bảo vệ kẻ cô thế cô thân, và chữa lành bệnh tật. Cho dù Ngài chỉ nói lời yêu thương, khuyến cáo cảnh tỉnh người lầm lạc trở về, thế mà Ngài lại bị lên án và bị giết chết trên Thập Giá. Bài Tin Mừng Lc 6, 6-11 hôm nay nói lên mầm mống chống đối của những kẻ không ưa Ngài, muốn tìm cách hãm hại và loại trừ Ngài. Chúng ta hãy cùng Ngài bước vào cuộc đối đầu đã khởi sự.
Mở đầu vớí câu 6, Thánh sử giới thiệu một ngày làm việc của Chúa Giêsu : Ngài vào hội đường và giảng dạy. Đó là công việc của vị ngôn sứ và cũng vì việc này mà Ngài được Chúa Cha uỷ thác xuống trần. Ngài không nói lời của Ngài nhưng là lời phát xuất từ Chúa Cha và chính Ngài là Ngôi Lời hằng hữu muôn đời. Ngài nói lên tiếng nói Tình Yêu Thiên Chúa muốn chia sẻ hạnh phúc với con người. Bài giảng của Chúa Giêsu hôm nay được gắn kết với hành động. “Ở đó có một người khô bại tay phải”: Bàn tay con người là dụng cụ lao động để kiếm sống. Bàn tay cũng là cách diễn tả tâm trạng: vui buồn, chúc phúc, thề hứa và cũng để cầu nguyện thờ lạy. Tay anh bị khô bại nên mất đi hết hiệu lực trên và đó là một thiệt thòi, một lỗ hỗng trong cuộc sống của anh. Hôm nay anh là nhân vật chính. Anh là nơi để Thiên Chúa thi ân giáng phúc nhưng anh cũng là nguyên nhân để người pha-ri-sêu phản đối và tố cáo một con người: Đức Giêsu. Họ đang rình xem Chúa Giêsu có chữa bệnh cho anh không, chỉ để tố cáo.
Trong đầu chương 6, người pha-ri-sêu chỉ dám mon men đến xem xét và lên án các môn đệ của Chúa Giêsu phạm luật sa-bát: bứt bông lúa. Nhưng hôm nay, họ đã cố ý rình mò hành vi của ông thầy và muốn tiêu diệt “Tận gốc”. Chúa Giêsu hiểu được tâm địa của họ, Ngài muốn dạy cho họ về luật yêu thương, luật để cứu sống để chữa lành, đối lại cách sử dụng luật của họ, luật được đặt thêm ra trong luật Môsê, chỉ để hại nhau, để lên án tố cáo và để giết chết. Vì thế, Ngài nói với người bại tay: “ Anh chỗi dậy ra đứng giữa dây!” ( c.8). Hình ảnh chỗi dậy như rũ bỏ giữ luật vì luật, giữ luật theo nghĩa đen trong hằn học, bực bội mà thiếu vắng tình yêu đồng loại. Lần này, Chúa Giêsu đi trực tiếp vào vấn đề và quyết định nói rõ, nói thẳng cho họ biết cốt lõi và tinh thần của luật: “ Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt ?”
( c.9). Chúa Giêsu muốn đưa ngày sa-bát về ý nghĩa nguyên thuỷ của nó “ Ngày sa-bát được lập ra vì người ta…” (Mc 2,27) vì bổn phận bác ái trổi vượt trên hình thức tuân giữ ngày nghỉ. Đàng khác, Ngài cũng nhận là Ngài làm chủ ngày sa-bát (x. Mc 2,28) khi làm việc lành, việc thiện trong ngày sa-bát là chúng ta bắt chước Thiên Chúa yêu thương tạo dựng vũ trụ, và Thiên Chúa còn tiếp tục cai quản vũ trụ và ban sinh khí cho con người. Ngày sa-bát đích thực là ngày con người sẽ nghỉ ngơi như Thiên Ch và cộng tác với Ngài, hiệp thông với tâm tình của Ngài.
Sau khi đã giáo huấn và nhắc nhở họ về mục đích của ngày sa-bát, Chúa Giêsu đã rảo mắt nhìn họ tất cả. Một cái nhìn như nhắc nhở sự trở về, sự thức tỉnh lương tâm chai lỳ khô cứng của họ. Chúa Giêsu liền bảo người bại tay: “ Giơ tay ra!” Anh ta làm theo và tay anh được lành. (x. c. 10). Lời Ngài có uy quyền trên bệnh tật và lời Ngài đã chứng minh Tình Yêu Thiên Chúa qua hành vi cụ thể chữa lành. Việc chữa lành của Chúa Giêsu đã đưa anh khô bại tay trở về cuộc sống đời thường nhưng lại là lúc làm cho mầm mống ghen tỵ, hiềm khích của người pha-ri-sêu gia tăng. Thánh sử Luca viết tiếp, họ giận điên lên và bàn nhau xem có làm gì được Chúa Giêsu không ( c.11). Một kế hoạch được lập ra. Một âm mưu được khởi đầu chỉ vì lòng ghen ghét.
Thái độ của người pha-ri-sêu xưa cũng là hành vi của chúng ta ngày nay. Nhiều lúc trong cuộc sống nơi công sở, nhà máy, trường học, chúng ta vẫn có nhiều âm mưu diệt trừ lẫn nhau: một lời nói xấu, gièm pha, một hành vi phản đối hoặc thái độ “ mackeno”. Thậm chí một vài người có hành vi loại trừ Thiên Chúa như: tôn thờ chủ nghĩa vật chất, ham mê những quyến rũ của lạc thú trần gian và có những thái độ chống phá Giáo hội như : đặt điều vu khống, bắt bớ, bách hại những người ngay lành, thấp cổ bé miệng, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, trẻ em…
Luật sĩ và những biệt phái đang rình xem Chúa Giêsu có lỗi luật nghỉ ngày Sabát hay không để bắt lỗi Ngài đã vi phạm ngày hưu lễ ngõ hầu có lý do ám hại Chúa. Ngài nhìn họ với ánh mắt buồn và giận, vì họ cứng lòng, giữ luật vì hình thức và vụ lợi.
Chúa Giêsu đã từng khẳng định Ngài không đến để phá bỏ Lề Luật, nhưng là để kiện toàn (x. Mt 5,17-18), làm cho luật được trọn nghĩa, là đem cho Lề Luật một ý nghĩa tích cực, một nội dung tình yêu. Chúa không chấp nhận giữ luật theo nghĩa đen và câu nệ vào hình thức hơn nội dung. Nhất là giữ luật mình hơn luật của Thiên Chúa để rồi lỗi giới luật căn bản là công bình yêu thương và lòng tin.
Dù giữ luật ngày Sabát, tuy nhiên những luật sĩ và biệt phái vẫn có giải thích rộng rãi khác về luật nghỉ ngày Sabát: Cho phép cứu thoát con vật bị sa xuống giếng trong ngày Sabát (x. Mt 12,11). Như thế, họ tự cho phép cứu con vật mà lại không cho phép cứu người anh em đang đau khổ vì bệnh tật. Chúa Giêsu buồn và giận vì điều đó.
Qua hành động chữa lành người bị bại tay ngay cả trong ngày Sabát, Chúa Giêsu biểu lộ tâm hồn tràn đầy yêu thương đối với con người, đặc biệt người khốn khổ. Qua đó, Ngài thổi tình yêu vào Lề Luật: Ngày Sabát được làm việc lành để thể hiện tình thương. Ngày hưu lễ là ngày dành làm vinh danh Thiên Chúa khi cứu chữa con người để con người được hạnh phúc. Cho nên, chữa bệnh trong ngày hưu lễ là điều Chúa Cha rất vui lòng.
2023
Ý Nghĩa Của Lề Luật
9.9 Thánh Phêrô Claver, Lm
Cl 1:21-23; Tv 54:3-4,6,8; Lc 6:1-5
Ý Nghĩa Của Lề Luật
Vào thời Chúa Giêsu, không thiếu những người nhân danh luật pháp để triệt hạ và chối bỏ người khác. Truyện được ghi trong Tin Mừng hôm nay là một điển hình cho biết bao trường hợp nhân danh pháp luật để đè bẹp con người. Chúa Giêsu đã thách thức cho đến cùng thái độ như thế. Thật ra, Chúa Giêsu không phải là một con người sống ngoài luật pháp, Ngài đến để kiện toàn lề luật. Nhưng sở dĩ Chúa Giêsu chống lại luật pháp là bởi vì luật pháp đó phi nhân hoặc chối bỏ con người.
Các môn đệ vì đói nên bứt bông lúa mà ăn, thật ra không phải là vi phạm ngày Hưu lễ. Không có khoản luật nào trong các sách luật xem một hành động như thế là vi phạm ngày Hưu lễ; nếu có thì chỉ là vi phạm một trong 39 hành động mà các nhà chú giải Do thái đã thêm vào qui định của ngày Hưu lễ mà thôi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã dẫn chứng hành động của Vua Ðavít và Ngài khẳng định: hành động của các môn đệ không hề vi phạm ngày Hưu lễ. Lề luật vì con người, chứ không phải con người vì lề luật. Ðó là ý nghĩa của luật pháp mà Chúa Giêsu nêu bật trong cuộc tranh luận với những Biệt phái. Khi luật pháp chống lại con người, nghĩa là chối bỏ phẩm giá và quyền lợi cơ bản của con người, thì luật pháp đánh mất ý nghĩa và không còn lý do để hiện hữu nữa; trong trường hợp đó, dĩ nhiên không tuân hành luật pháp là một thái độ thích đáng.
Thật ra, khi luật pháp chối bỏ hoặc chà đạp những quyền cơ bản của con người, thì luật pháp đó cũng xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Gioan đã hành động một cách cương quyết khi dõng dạc tuyên bố trước Công nghị Do thái: “Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”. Chẳng hạn, khi luật pháp một quốc gia cho phép phá thai, nghĩa là tước đoạt quyền sống của con người, thì chống lại luật pháp đó là một nghĩa vụ. “Thà vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người”. đó là nguyên tắc nền tảng hướng dẫn người Kitô hữu trong các quan hệ xã hội của họ. Chúa Giêsu luôn đòi hỏi các môn đệ của Ngài một thái độ dứt khoát tận căn: không thể vừa vâng lời Thiên Chúa, vừa chạy theo những gì chống lại Thiên Chúa.
Ngày sabát nghỉ việc là để ghi nhớ việc Thiên Chúa nghỉ ngơi sau khi tạo dựng nên thế giới (Xh 20,8-11). Đồng thời nó cũng loan báo việc dân Thiên Chúa khi kết thúc thời gian, đi vào nơi yên nghỉ và bình an của Chúa.
Hôm nay Chúa Giêsu và biệt phái tranh luận nhau về việc sống ngày sabát. Biệt phái chỉ biết giữ luật nghỉ ngơi ngày sabát. Nên khi họ thấy các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa trong ngày này thì họ lên án. Chúa Giêsu hiểu luật ngày sabát nhằm giải phóng con người, nên trách biệt phái quá câu nệ chữ nghĩa của luật mà không hiểu tinh thần.
Bộ luật của người Do thái nhận tại núi Sinai khi Chúa truyền cho Maisen chỉ có 10 điều, nhưng được giải thích cách tỉ mỉ trong sách Lêvi và Đệ Nhị Luật thành hơn 500 điều. Một trong những điều quan trọng là ngày nghỉ sabát, thuộc giới răn thứ ba trong thập điều, được tuân giữ chi tiết, cặn kẽ và nếu phạm vào có thể bị ném đá chết.
Thực ra, khi ban bố lề luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần dà, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả chi tiết nhỏ nhặt. Để rồi, các tiến sĩ, luật sĩ, biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Câu chuyện trong bài Tin mừng hôm nay nói lên sự dị biệt của Chúa Giêsu và người biệt phái về ngày sabát, ví dụ như việc các môn đệ Chúa Giêsu bứt lúa ăn khi đi qua cánh đồng. Mọi sự việc tầm thường không đáng kể, nhưng cái tính hay ghen tương nghi ngờ, cái tính hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của những người biệt phái đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabát. Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xảy ra những xung đột và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội.
Ngày sabát, bứt mấy bông lúa như thế chẳng có lỗi gì, luật chỉ cấm cày cấy hay gặt hái, nhưng những người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm làm trong ngày sabát. Đây là tính hay xét nét, khắt khe, quét nhà ra rác… để sinh ra mất lòng nhau.
“Đức Giêsu trả lời: Các ông chưa đọc…”
Chúa Giêsu bênh vực các môn đệ bằng cách giải thích cho họ nhớ lại những trường hợp được miễn giữ luật. Và Chúa Giêsu đã rút ra từ Thánh kinh hai trường hợp được miễn giữ luật để minh chứng: 1Sm 21,1-6 và Ml 12,5-6. Ở đây Luca chỉ ghi lại trường hợp thứ nhất về câu chuyện vua Đavít cùng với thuộc hạ vì đói quá, nên đã ăn bánh trưng hiến trong đền thờ, thứ bánh mà chỉ dành riêng cho tư tế mới được ăn.
Nại đến bằng chứng này, Chúa Giêsu muốn nêu lên rằng: được miễn giữ luật khi có việc tối cần, mà ở đây là trong lúc quẫn bách không có gì ăn cho đỡ đói ngoài thứ bánh trưng hiến.
Hôm nay lời Chúa nói với chúng ta rằng Ngài là chủ của ngày sabát, nghĩa là Ngài có quyền qui định luật lệ cho ngày lễ nghỉ nói riêng và mọi luật lệ tôn giáo. Chính những luật lệ ấy nâng chúng ta lên cao khỏi những khuynh hướng thấp lè tè của bản năng, để đến gần và nên giống Đức Kitô hơn.
Chúa Giêsu vẫn coi việc giữ luật là việc tốt, là việc đạo đức. Nhưng Ngài muốn rằng, việc giữ luật phải phát xuất từ tình thương; nếu không, việc giữ luật chỉ là việc đạo đức ở bên ngoài, mà bên trong không có thực chất. Giữ luật là thể hiện tình thương, không có tình yêu thương thì không còn phải là luật của Chúa.
Ngày nay, nhiều người cũng đã quên đi ý nghĩa của ngày “sa-bát”; khi vì miếng cơm, manh áo họ không phân biệt ngày thường và ngày Chúa nhật; tất bật với cuộc sống, họ quên đi quyền lợi được nghỉ ngơi, giải trí sau những ngày lao động trong tuần – của chính bản thân và của những người thân yêu trong gia đình; vẫn lao động vất vả trong ngày Chúa Nhật, thiếu bổn phận thờ phượng Thiên Chúa và thiếu trách nhiệm duy trì mối tương quan với người thân, với cha mẹ, ông bà bằng sự thăm viếng, ủi an. Ngược lại, nhiều người khác lại xử dụng ngày nghỉ vào những việc làm vô bổ và quên đi việc thánh hóa ngày Chúa Nhật của người tín hữu.