2023
Đến mà xem
4.1Thánh Elizabeth Ann Seton
1 Ga 3:7-10; Tv 98:1,7-8,9; Ga 1:35-42
Đến mà xem
Mẹ Xêtông là một trong những rường cột của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tất cả những điều trên ngài thực hiện trong vòng 46 năm đồng thời vừa nuôi dưỡng năm người con.
Êlidabét An Bêlê Xêtông quả thực là người của thế hệ Cách Mạng Hoa Kỳ, ngài sinh ngày 28 tháng Tám 1774, chỉ hai năm trước khi có bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Bởi dòng dõi và hôn nhân, ngài có liên hệ đến các thế hệ đầu tiên sống ở Nữu Ước và vui hưởng kết quả của một xã hội tiến bộ. Được nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, ngài biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi ngủ. Cha của ngài, Bác Sĩ Risa Bêlê, không đóng góp nhiều cho nhà thờ nhưng ông là người rất nhân đạo, đã dạy được cho cô con gái bài học yêu thương và phục vụ tha nhân.
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 đã đem lại cho ngài 1 cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu. Thay vì ủ rũ chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự “hủy hoại khủng khiếp” với một hy vọng đầy phấn khởi.
Vào năm 19 tuổi, Êlidabét là hoa khôi của Nữu Ước và kết hôn với một thương gia đẹp trai, giầu có là ông Viliam Magi Xêtông. Họ được năm người con trước khi doanh nghiệp lụn bại và ông chết vì bệnh lao. Vào năm 30 tuổi, bà Elidabét đã là một góa phụ, không một đồng xu và phải nuôi nấng năm đứa con.
Trong khi sống ở Ý, bà được chứng kiến phong trào Tông Đồ Giáo Dân qua gia đình của những người bạn. Ba điểm căn bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Đức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội tông truyền do Đức Kitô thành lập. Nhiều người trong chính gia đình bà cũng như bạn hữu bà đã tẩy chay bà khi bà trở lại Công Giáo vào tháng Ba 1805.
Để nuôi con, bà mở trường học ở Bantimo. Ngay từ ban đầu, nhóm giáo chức của bà đã theo khuôn khổ của một tu hội, mà sau đó được chính thức thành lập vào năm 1809.
Hàng ngàn lá thư của Mẹ Xêtông để lại cho thấy sự phát triển đời sống tâm linh của ngài, từ những việc tốt lành bình thường cho đến sự thánh thiện cách anh hùng. Ngài chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm, cái chết của những người thân yêu (chồng và hai con gái), cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Ngài từ trần ngày 4 tháng Giêng 1821, và vào ngày 17-3-1963, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên xưng ngài là vị chân phước đầu tiên người Hoa Kỳ. Ngài được phong thánh ngày 24-9-1975.
Tin Mừng ghi lại câu chuyện Chúa Giêsu thâu nhận những môn đệ đầu tiên, được ghi lại trong Phúc âm theo thánh Gioan, thì mọi sự dường như đã bắt đầu từ các môn đệ. Các ông đến với Chúa trong những trường hợp khác nhau. Có người đang là môn đệ của Gioan tiền hô. Có người được anh rủ tới. Có người đến với Chúa sau lời giới thiệu: Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Cũng có người đến vơi Ngài sau lời xác quyết Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế. Tin Mừng còn nói là họ đã đến với Ngài và sau khi đã xem chổ Ngài ở, họ đã ở lại với Ngài.
Chỗ Ngài ở, hiển nhiên không phải là đền đài nguy nga lộng lẫy, bởi vì chính Ngài đã từng tuyên bố: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Họ đến với Ngài chỉ vì Ngài và chỉ vì được Ngài lôi cuốn. Chúa Giêsu đã lôi cuốn họ và sự lôi cuốn này có sức biến đổi hẳn con người của ho.
Chúa Giêsu không muón thực hiện sứ mạng của Ngài một cách đơn độc và lẻ loi, trái lại Ngài luôn mong muốn sứ mạng ấy phải được thực hiện bởi chính Ngài và được tiếp nối bởi những người đã từng chứng kiến những việc Ngài đã làm. Sứ mạng ấy là rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Chúng ta cũng đã đến với Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thánh Thể. Chúng ta cũng đã trở thành Kitô hữu bằng nhiều cách khác nhau: qua sự giới thiệu của một người bạn hay của một người thân, sau một biến cố đáng ghi nhớ trong đời hay sau khi đọc xong một cuốn sách. Và thông thường nhất đó là chúng ta được diễm phúc sinh ra trong một gia đình Kitô hữu. Vấn để thiết yếu của mỗi người chúng ta, đó là đi theo Chúa và ở lại với Ngài. Nghĩa là trở thành môn đệ của Ngài, trở thành người được Ngài mời gọi và sai đi, trở thành người loan báo Tin Mừng về tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người.
Sự gắn bó với Chúa cũng như với lời Ngài, sự lắng nghe để nhận ra ý nghĩa chương trình cứu độ của Chúa trong từng sự kiện, trong gừng biến cố của cuộc sống thường ngay phải là thái độ người môn đệ trung tín của Chúa Giêsu cần phải có.
Nếu Anrê không giới thiệu Phêrô với Đức Giêsu thì có lẽ chẳng bao giờ có tông đồ Pherô đá tảng của Hội thánh.
Nếu Anrê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, thì có lẽ chẳng có phép lạ đầy ngoạn mục hứng khởi nhất trong Thánh Kinh.
Vậy bài học của Anrê là hãy giới thiệu cho mọi người đến với Đức Giêsu. Đó là con đường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. Đức Giêsu rất cần những người giàu tình bạn chân thành, những bước chân mang dấu vết của thân thiện, những lời nói luôn chứa đầy nhiệt huyết, những chứng nhân ra đi kể câu chuyện: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia”.
2023
Hy sinh vì tha nhân
3.1 Thứ Tư trước Lễ Hiển Linh
1 Ga 2:293; Tv 98:1,3-4,5-6; Ga 1:29-34
Hy sinh vì tha nhân
Trang Tin Mừng hôm nay, Gioan làm chứng về Chúa Giêsu. Ta cũng có thể tóm tắt lời chứng của Gioan về Chúa Giêsu thành 2 điểm:
Chúa Giêsu là Con Chiên của Thiên Chúa: kiểu nói “Chiên của Thiên Chúa” có thể mang 3 nghĩa quy chiếu về 3 nơi trong Cựu Ước:
Con chiên trong Is 53, 7 ”như con chiên bị lôi đến lò sát sinh”: Chúa Giêsu chính là Người Tôi Tớ mà Is tiên báo bằng hình ảnh con chiên hiền lành chịu chết vì tội muôn dân.
Con chiên trong Khải huyền 5, 6 14, 10 17, 14 đã từng bị sát tế và được nâng lên: Chúa Giêsu đã chịu chết nhưng đã sống lại và chiến thắng tội lỗi.
Con chiên vượt qua trong Ga 19, 14 (Chúa Giêsu bị giết vào đúng lúc người ta giết chiên để ăn tiệc vượt qua): Chúa Giêsu chính là Con chiên vượt qua dùng cái chết của mình để thực hiện cuộc giải phóng nhân loại.
Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn: Kiểu nói “Đấng mà Thiên Chúa đã tuyển chọn” cũng mang âm hưởng Is 42, 1 nói về Người Tôi Tớ.
qua lời chứng của ông Gioan Tẩy Giả, toàn thể danh xưng Kitô học quan trọng của Đức Giêsu được giới thiệu. Thứ nhất, Đức Giêsu là “Con Chiên của Thiên Chúa”. Danh hiệu Kitô học này không được nói đến trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Danh hiệu này được giải thích bằng một danh hiệu khác: “Đấng cất đi tội lỗi của thế gian”.
Con Chiên của Thiên Chúa có thể được hiểu như là hình ảnh “Người Tôi Tớ đau khổ”, như con chiên hiền lành bị mang đi làm thịt, gánh lấy tội lỗi của trần gian; hay là hình ảnh một con chiên vẹn toàn được sát tế trong dịp Lễ Vượt Qua, và máu Người là máu Giao Ước mang lại ơn tha thứ cho nhân loại; hoặc là hình ảnh một con chiên khải huyền, một con chiên chiến thắng qua cuộc khổ nạn.
Ông Gioan cũng làm chứng rằng mình đã nhận được mặc khải của Đấng sai ông đến làm phép rửa trong nước, rằng Đức Giêsu chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Linh. Dấu hiệu để nhận ra Đấng làm phép rửa trong Thánh Linh là: “Thánh Linh đi xuống và ở lại trên người ấy”.
Dấu hiệu này gián tiếp nhắc đến sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa và được Thánh Linh xức dầu. Tác giả Gioan không tường thuật về chứng nhận của tiếng từ trời, rằng Đức Giêsu là con yêu dấu, nhưng cũng qua lời chứng của Gioan Tẩy Giả, độc giả hiểu rõ Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa”.
Vì Người là “Con Thiên Chúa”, nên dù xuất hiện trên trần gian trong thân phận con người, sau ông Gioan, chịu ông Gioan làm phép rửa, rồi khai mạc sứ vụ sau ông Gioan, Người đã trở nên trước ông vì Người hiện hữu trước ông. Sứ vụ của ông Gioan cũng chỉ để chuẩn bị cho sứ vụ của Người, và nhiệm vụ của ông Gioan là làm chứng cho mọi người biết rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Có thế tóm kết lời chứng của ông Gioan về Đức Giêsu trong đoạn văn này như sau: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Người tiền hữu, đã chịu phép rửa trong nước của ông Gioan, nhưng sẽ là Đấng làm phép rửa trong Thánh Linh, và trở nên Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng cất đi tội lỗi của thế gian qua cái chết của Người.
“Ðây là Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa bỏ tội trần gian”. “Tội trần gian” theo truyền thống thường hiểu là tội gốc, là tội nguyên tổ và những hậu quả di căn cho con người là tất cả những lỗi lầm, tội lỗi cá nhân.Không chỉ thế, “tội trần gian” được nhắc đến trong Tin Mừng là ý niệm về một quyền lực “bóng tối” (x. Ga 8, 12), chi phối và đè bẹp con người mất tự do. Thánh Gioan và thánh Giacôbê đã nhấn mạnh sự liên hệ giữa tội lỗi và thế gian (x. Ga 16, 8.17, 14; 1 Ga 2, 1; 2, 15-17; 4, 1.4.5; 5, 19; Gc 1, 27; 3, 15; 4, 4), chính thế lực tạo nên sự chống đối lại sự sáng – thánh ý của Thiên Chúa trong cuộc sống.
Trong đó, “tội trần gian” là sự thống trị của vật chất được hình tượng hóa bằng bò vàng mà dân Do Thái tôn thờ (x. Xh 32, 1-6). Hành vi tôn thờ bò vàng muốn nói lên là họ không cần đến Thiên Chúa, cắt mình ra khỏi sự gắn bó với Thiên Chúa, tự sức mình làm chủ cuộc đời và muốn thế giới theo ý mình. Chúng ta thấy rõ việc tôn thờ “bò vàng” qua cách sống thực dụng duy vật chất của người đời hôm nay. “Tội trần gian” còn là di căn của tội như đau khổ và phải chết do tội nguyên tổ, những hậu quả đi vào đời sống hàng ngày là những lo lắng ưu tư, những khốn khó, bệnh tật mà con người đang bị đè nặng từ khi bóng tối làm chủ thế gian…”Đây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa bỏ tội trần gian”.
Thánh Gioan Chrysostome và thánh Augustinô đã nhấn mạnh: “Chiên là biểu tượng của sự vô tội và của công chính. Người vô tội chết cho người có tội, người công chính chết cho nhân loại vốn mất ân sủng do tội, được trở nên công chính hóa”. Vì thế, Giáo hội tuyên tín từ xa xưa: “Khi Người tự hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con, Người hủy diệt tội lỗi xưa để đổi mới muôn loài sa ngã, và hoàn lại sự sống nguyên tuyền cho chúng con” (Kinh Tiền Tụng Phục Sinh IV).
Ðức Kitô – Chiên Thiên Chúa đã dùng giá máu mình để cứu chuộc nhân loại (x. 1Pr 1, 18; Kh 5, 9; Dt 9, 12-15) được loan báo trước bằng hình ảnh máu của con chiên cứu dân Do Thái. Gioan, người môn đệ đã thấy hình ảnh Chiên Thiên Chúa hiến tế đã nhấn mạnh: Ngài đã cứu họ khỏi “bụi trần” (Kh 14, 3); Phêrô xác tín thêm: Ngài đã cứu nhân loại khỏi cái thế giới buông theo gian tà phát sinh do đạo thờ ngẫu tượng (x. 1Pr 1, 14.18; 4, 2tt), nhờ đó từ nay họ có thể tránh tội (x. 1Pr 1, 15tt; Ga 1, 29; 1Ga 3, 5-9), hình thành nên vương quốc tư tế mới, nên dân tộc được thánh hiến cho Thiên Chúa (x. 1Pr 2, 9; Kh 5, 9tt; Xh 19, 6). Chính dân tộc thánh này sẽ dâng lên Thiên Chúa cuộc thờ phượng thiêng liêng bằng một đời sống không có gì chê trách được (x. 1Pr 2, 5; Dt 9, 14). Chính vì lẽ đó, Tông đồ Phaolô khuyên người tín hữu hãy sống “tinh tuyền và chân thật” như bánh không men vì “Ðức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5, 7).
Ước gì mỗi chúng ta đặt tất cả niềm tin và cuộc sống nơi Chiên Vượt Qua – Đức Kitô, trong Ngài chúng ta được chữa lành mọi vết thương, được giải phóng mọi tình trạng nô lệ ở đời này.
2023
SỐNG CHỨNG TÁ BẰNG ĐỜI SỐNG
2.1 Thánh Cả Basil và Grêgôriô Nazianzen, Gmtsht
1 Ga 2:22-28; Tv 98:1,2-3,3-4; Ga 1:19-28
SỐNG CHỨNG TÁ BẰNG ĐỜI SỐNG
Hôm nay Hội thánh cho chúng ta mừng chung hai thánh Basiliô Cả và Grêgoriô Nazianzênô trong một ngày. Sở dĩ Giáo Hội làm như vậy bởi vì cuộc sống của các ngài có những điểm chung thật thú vị.
Trước hết các ngài đã vào cuộc đời làm người ở cùng một nơi, tại Cappadocia và cha mẹ của các ngài đều là những người thuộc dòng giống quí phái, danh tiếng, có địa vị trong xã hội thời đó.
Các ngài đã được cha mẹ cho học cùng một trường tại kinh thành Athènes nổi tiếng của Hy Lạp rồi sau khi tốt nghiệp các ngài cùng về quê sống chung với nhau trong một tu viện.
Điểm chung cuối cùng rất đáng chúng ta cảm phục là các ngài đã cùng đứng chung trong một trận tuyến khi phải đối đầu với bè rối Ariô để bảo vệ niềm tin trong sáng đối với Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc toàn thể nhân loại chúng ta.
Dù rằng tính khí mỗi người khác nhau, nhưng các ngài đã sống hết sức nghĩa thiết đối với nhau theo gương vị mục tử nhân hậu hiền lành là Thầy Giêsu chí thánh.
Basiliô có tài lãnh đạo, có óc tổ chức, chỉ huy và điều khiển. Còn Grêgôriô Nazianzênô lại thích chiêm niêm, sống âm thầm và là một tu sĩ sáng ngời các nhân đức.
Cả hai vị thánh đều được chọn làm Giám mục cai quản Giáo Hội.
Thánh Basiliô được đặt làm Giám mục Caesarea Mazaca thuộc vùng Capadocia, Tiểu Á năm 370. Ngài là một mục tử can trường, đầy dũng khí và hiên ngang. Nhờ lòng dũng cảm, lời giảng dạy và nhờ sự tài khéo khéo khi giao tiếp với mọi người mà Ngài đã đem lại chỗ đứng vững chắc cho Giáo Hội thời đó. Dưới sự dẫn dắt của Ngài, thần quyến và thế quyền đã có chỗ đứng riêng tránh được những sự phiền toái làm ảnh hưởng đến tính trong sáng của Tin Mừng. Ngài hết sức lo cho những người nghèo để họ được sống đúng với phẩm giá của mình cũng như bảo vệ họ luôn được đứng vững trong niềm tin trong sáng của Chúa và Giáo Hội.
Ngài đã viết nhiều bài luận về Chúa Thánh Thần, phát triển nền thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cố gắng rất nhiều trong việc hàn gắn những chia rẽ trong Giáo hội.
Trong Giáo Hội Công giáo Rôma, Ngài được công nhận là Tiến sĩ Hội thánh năm 1568 do Đức Giáo hoàng Piô V.
Thánh Grêgôriô Nazianzênô được tấn phong Giám mục Sasime năm 371, và vào năm 380, thánh nhân được cử làm Giám mục Constantinople giữa lúc bè rối Ariô đang hoành hành gây nên nhiều khó khăn cho Giáo Hội. Nhờ tài hùng biện và sự thánh thiện của Ngài, mà Ngài đã chinh phục được mọi người, đem lại sự bình an cho Giáo Hội lúc đó. Người ta đã phong tặng cho thánh nhân một cái tên hết sức thân thương: “Cha của những kẻ khốn cùng”.
Thánh Basiliô qua đời ngày 01/1/379 và thánh Grêgôriô Nazianzênô tạ thế ngày 25/1/390.
“Ông là ai?” là lời chất vấn của một số tư tế và thầy Lêvi về con người và sứ mạng của Gioan Tiền Hô. Xem ra, dù là những người thông thạo lề luật và mong chờ lời hứa cứu độ, nhưng dường như, các vị thế giá Do Thái này vẫn để cho mình được lôi kéo, từ cách sống khắc khổ đến lời rao giảng kêu gọi hoán cải của Gioan, vốn đang thu hút bao người đến với ông để đón nhận phép rửa sám hối trong nước sông Giođan.
Nhưng sẽ chỉ là cuộc tìm kiếm nhằm thỏa mãn sự hiếu kỳ, nếu không để bản thân được dấn thân nhập cuộc, không đưa đến một sự hoán cải hay dọn đường cụ thể nào cho Đấng Messia ngự đến. Điều mà sau này, cũng chính các nhà lãnh đạo tôn giáo đã bày tỏ động cơ đón nhận một cách rõ ràng, khi bị Chúa Giêsu chất vấn về phép rửa của Gioan Tẩy Giả: “Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri” (Mt 21,25-26). Ngược lại, nhìn vào Gioan Tẩy Giả, đấng dọn đường và công khai giới thiệu tư cách Chiên Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, nhất là trong cảnh tù đày, ông đã tiếp tục để mình được chất vấn về con người và sứ vụ của Đấng mà ngài dọn đường: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác nữa?” (Mt 11,3). Lời đáp trả cho sự chất vấn này, đã chẳng giúp Gioan thêm xác quyết, can đảm đến cùng cho sứ mạng tiền hô, làm chứng cho sự thật bằng cả mạng sống mình.
“Giữa các ngươi, có Đấng mà các ngươi không biết” (Ga 1,26). Đó cũng là lời chất vấn cho các môn đệ của Chúa, khi chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu. Chất vấn để mỗi người có thể phản tỉnh, lượng giá, hầu học biết cách đụng chạm và cảm thấu sự hiện diện của Giêsu Hài Nhi ở giữa cuộc sống đời thường hôm nay. Mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa trong Hài Nhi Giêsu bé nhỏ, với đôi bàn tay luôn mở ra: một mặt, như chờ mong sự tự do để yêu thương, chở che từ mọi tâm hồn rộng mở của con người; mặt khác, chính đôi tay mở ra để có thể ôm lấy tất cả phận người, nhất là những anh chị em trong hoàn cảnh nghèo khó, bị bỏ quên bên lề xã hội, những người nguội lạnh hoặc chưa nhận biết đức tin. Ngôi Hai Thiên Chúa ở giữa chúng ta, thế mà biết bao lần chúng ta đã chưa nhận ra và đón rước Người!
Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong việc giới thiệu Đấng Cứu Độ là Chúa Giêsu sẽ đến. Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một chứng nhân can đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống theo nguyên tắc. Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong cung điện, nhưng sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của cá nhân ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống động cho điều mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài bước sang một bên để nhường lối cho Chúa Giêsu.
Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Chúa Giêsu đã trở nên một khuôn mặt rất mờ nhạt và xa cách cũng một phần do bởi lối sống của Kitô hữu chúng ta. Những lời trong bài Tin Mừng hôm nay đúng từng chữ một “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Chúa Giêsu vẫn còn cần đến những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho Chúa Giêsu hiện diện cách rõ nét bằng đời sống gương mẫu tốt lành của mình để người khác nhận ra Thiên Chúa một cách có hiệu quả.
Chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng, nếu chúng ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một đời sống gương mẫu tốt đẹp là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một lời loan báo Tin Mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống nữa, thì họ đã không còn là chứng nhân loan báo Tin Mừng. Nhưng khi việc thực hành đạo đưa dẫn đến những hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời chứng rất có hiệu quả. Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng thời của chúng ta một cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người thực hiện những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Thật thế, nếu không có lời chứng của các Kitô hữu, thì gương mặt của Chúa Giêsu, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế giới của chúng ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và không nhận ra, và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm tù trong cảnh tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.
Và rồi chúng ta thấy đây không phải là một trách nhiệm chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu nữa. Khi là thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho Chúa Giêsu sẽ dễ dàng hơn. Xin Chúa thêm ơn để mỗi người chúng ta sống làm chứng cho Chúa bằng đời sống chứng tá của mỗi chúng ta.
2023
Nữ Vương Hoà Bình
1.1 Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Ds 6:22-27; Gl 4:4-7; Tv 67:2-3,5,6,8; Lc 2:16-21
Nữ Vương Hoà Bình
Có thể nói, mùa Giáng Sinh cũng là mùa kính Đức Mẹ. Đặc biệt ngày đầu năm Dương lịch hôm nay, phụng vụ muốn tôn kính Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Thiên Chúa. Và từ năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI lại dành ngày 1 tháng Giêng nầy để cầu nguyện cho hoà bình thế giới.
Hoà bình là xây dựng bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc nữa. Phần tích cực có thể nói gồm nhiều mặt hơn phần tiêu cực. Vả lại, hết chiến tranh cũng chưa phải là đã hết những hậu quả của chiến tranh là những thương tích, những đổ vỡ về vật chất và tinh thần. Chúng ta phải cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới. Hoà bình hạnh phúc phải là hơi thở của mọi người trên thế giới. Vậy chúng ta đóng góp được gì?
Hãy suy nghĩ về hoà bình như Đức Maria hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Ngài suy nghĩ về danh “Giêsu”, có nghĩa là cứu thế. Danh đó phải được kêu cầu trên con cái loài người, để phúc lộc được đổ xuống trên các dân và phước lộc phong phú cụ thể là chính Thánh Thần mà Thiên Chúa muốn đổ xuống lòng mọi người, để khi chúng ta gọi Chúa là Cha thì chúng ta Thấy mình là anh em với nhau, để sống hòa thuận yêu thương nhau, sống vì hạnh phúc của anh em mình.
Yêu hòa bình thì phải xây dựng công bằng, bác ái, phải kiến tạo bình đẳng, ấm no, thịnh vượng, hạnh phúc. hòa bình đòi hỏi phải phấn đấu, phải đấu tranh, để tiêu diệt cái xấu và phát triển cái tốt. Rất nhiều công tác cụ thể đang ở tầm tay mỗi người chúng ta. Hết thảy chúng ta hãy tích cực, để không chỉ nói hoà bình, nhưng muốn xây dựng hoà bình. Trong ngày cấu nguyện cho Hoà Bình Thế Giới hôm nay và cũng là ngày lễ kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúng ta xin Đức Maria là Nữ Vương Hoà Bình ban cho bản thân chúng ta, cho gia đình chúng ta, cũng như cho cộng đoàn giáo xứ, nền hoà bình của Chúa Kitô – Hoà bình mà Đấng Cứu Thế, Con của Mẹ Maria đã đem xuống trần gian cho loài người trong đêm Giáng Sinh, để chúng ta biết sống hoà thuận yêu thương nhau, đoàn kết xây dựng hoà bình trên quê hương đất nước và trên toàn thế giới.
Hòa bình là một hồng ân của Thiên Chúa, chúng ta hãy hiệp ý cầu nguyện cho yêu thương được ngự trị, cho oán thù được tiêu tan, cho mọi người biết tha thứ và yêu thương nhau như chính bản thân mình. Tất cả những ý nguyện ấy như một âm vang của lời kinh hòa bình: Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
Lời kinh này là của thánh Phanxicô Assie, một người được cả thế giới chọn làm biểu tượng của hòa bình, bởi vì ngài là một người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa. Có lẽ ai trong chúng ta cũng còn nhớ cái giai thoại sau đây:
Vì đã đem hết gia tài phân phát cho kẻ nghèo đói, nên ngài đã bị người cha đem ra tòa, đòi phải từ bỏ mọi tài sản mà gia đình muốn để lại. Không một chút do dự, Phanxicô đã trút bỏ áo quần để trả lại cho người cha như một biểu tượng của tài sản cuối cùng mà ngài nhận được từ gia đình. Và cũng từ đó, Phanxicô đã trở thành người nghèo khó đích thực của Thiên Chúa.
Thế nhưng, ngài có tất cả mọi sự, bởi vì ngài có Thiên Chúa làm gia nghiệp. Một khi đã có Thiên Chúa thì ngài cũng có được niềm vui trọn vẹn. Cho nên, ngài không những có sự bình thản trong tâm hồn mà còn có sự hòa hợp với người khác và ngay cả với thiên nhiên. Hòa bình trong chính bản thân, hòa bình với tha nhân đó chính là cái lý tưởng mà ngài đã để lại cho thế giới.
Chúng ta cũng hãy chiêm ngưỡng Mẹ Maria, Nữ Vương Hòa Bình. Giáo hội có thói quen cử hành ngày hòa bình thế giới vào ngày đầu năm dương lịch kính Mẹ Thiên Chúa. Sở dĩ chúng ta gọi Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình, bởi vì Mẹ là người nữ tì khiêm hạ và khó nghèo của Thiên Chúa. Mẹ đã trút bỏ mọi sự để trở thành trống rỗng và rồi được chính Thiên Chúa lấp đầy.
Như thế, người xây dựng hòa bình là người được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn mình. Cũng như Mẹ Maria và thánh Phanxicô, chúng ta cũng được mời gọi trút bỏ mọi sự. Tinh thần nghèo khó đích thực cũng chính là một thể hiện của tinh thần hòa bình. Bởi vì, khi con người không còn màng đến bất cứ một thứ riêng tư nào, khi con người không còn muốn chiếm hữu bất cứ một thứ của cải nào, thì lúc đó con người có thể bình thản đến với Chúa và với anh em.
Ta hãy chiêm ngắm tấm gương của các mục đồng. Các mục đồng đã biết lắng nghe sứ điệp hòa bình dù giữa đêm hôm mùa đông đang say ngủ. Nghe biết sứ điệp hòa bình rồi, các mục đồng vội vã đi tìm Chúa Giêsu là nguồn mạch hòa bình, dù phải bỏ giấc ngủ, dù phải đi ngoài trời lạnh giá. Sau khi gặp Chúa, các mục đồng ra đi loan truyền sứ địêp hòa bình cho mọi người. Đó chính là những phấn đấu không ngừng cho hòa bình.
Chúng ta đặt năm mới này vào tay Đức Mẹ. Xưa Đức Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế mở đầu một nhân loại mới, nay xin Đức Mẹ cũng cho năm mới này được chúc phúc, được cứu độ và được hòa bình. Chúng ta cũng cầu nguyện cho mọi người biết noi gương mục đồng, luôn lắng nghe sứ điệp hòa bình, luôn phấn đấu đi tìm đến nguồn mạch hòa bình và luôn phấn khởi loan tin mừng hòa bình.