2023
Lòng tin mạnh mẽ
18.9 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
1 Tm 2:1-8; Tv 28:2,7,8-9; Lc 7:1-10
Lòng tin mạnh mẽ
Nếu thập giá là sự điên rồ đối với người Do Thái thì đau khổ quả là sự thất bại thảm hại. Nếu thánh giá là sự khôn ngoan vô lượng của Thiên Chúa thì đau khổ là cơ hội để luyện tập các nhân đức. Để tận diệt mọi đau khổ, Chúa Giêsu đã tự nguyện mang lấy gánh nặng và tội lỗi cho con người mà đưa lên cây thập giá. Trong tình yêu Thiên Chúa, đau khổ là một mầu nhiệm. Như con rắn đồng của Môsê trong sa mạc đã cứu dân khỏi chết, hãy nhìn lên thánh giá Đức Giêsu để tiếp nhận thêm sức mạnh và niềm tin. Thiên Chúa đã dùng những nỗi đau khổ giúp chúng ta cảm nhận sâu xa về sự yếu đuối của thân phận con người và để tôi luyện chúng ta trưởng thành hơn.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta chứng kiến một lòng tin mạnh mẽ của viên đại đội trưởng ngoại giáo. Biết Đức Giêsu là người đầy quyền năng, ông đại đội trưởng đã đến xin Người chữa cho người đầy tớ của ông bị chứng tê bại nặng. Trước thái độ tin tưởng của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu hết sức thán phục và khẳng định với đám đông dân chúng: “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israen, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế”. Theo nguyên tắc của Do Thái giáo, đại đội trưởng là một người ngoại đạo sẽ bị loại ra khỏi Vương quốc; và nếu một người Do Thái vào nhà một kẻ ngoại đạo sẽ bị coi là kẻ ô uế.
Khi chữa lành cho người bệnh, cả Đức Giêsu và viên đại đội trưởng đều vượt qua những ranh giới của luật Do Thái. Điều đó cho thấy Đức Giêsu đã làm tất cả vì lòng thương xót, còn viên đại đội trưởng thể hiện niềm tin mãnh liệt vào quyền năng và tình thương Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chữa bệnh từ xa, Ngài biểu hiện tình thương có khả vượt qua khoảng cách của địa lý, của không gian và thời gian. Vì thế ông đại đội trưởng chưa về đến nhà thì nghe tin báo người đầy tớ đã khỏi hẳn bệnh.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một lòng tin tuyệt đối của viên đại đội trưởng vào quyền năng Chúa. Ông đặt trọn niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa nên mới cầu xin rằng: “Xin Ngài cứ nói một lời thì đầy tớ tôi được khỏi bệnh”. Câu nói của đại đội trưởng ngày xưa đã được Hội Thánh đưa vào phần Phụng Vụ Thánh Thể, sau khi Cha chủ tế đọc lời truyền phép…, giáo dân thưa: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.”
Thái độ tin tưởng của ông đại đội trưởng khác hẳn với thái độ cứng tin của những người Do Thái. Phép lạ này là lời hứa cho tất cả chúng ta, những ai có lòng tin đều được Chúa chữa lành. Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc hết mọi người không phân biệt dân tộc, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Điều quan trọng là chúng ta phải thực sự khát khao được Chúa chữa lành.
Trên hành trình thiêng liêng chúng ta sẽ không tránh khỏi những lúc bị thử thách, không thể trốn chạy những đau đớn bệnh tật. Như Đức Giêsu luôn tỏ lòng thương cảm với những yếu đuối của con người, chúng ta cũng hãy mở lòng ra đón nhận tất cả trong sự tin tưởng phó thác. Đức Giêsu ôm lấy cuộc đời, mang vác lấy gánh nặng của con người mà giương cao lên thập giá. Tình yêu thương con người dạy chúng ta chấp nhận những phiền hà rắc rối của người bên cạnh, dám chịu thương tích vì người khác, dám chấp nhận thất bại để tôi luyện và trưởng thành trong đức tin.
Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 7, 1-10) đã tường thuật lại câu chuyện người nô lệ bệnh nặng gần chết được thân chủ yêu thương, vì anh ta sống đẹp lòng ông chủ nên anh đáng được yêu thương. Vì đáng được thương nên anh ta được ông chủ đi tìm Chúa Giêsu để được chữa lành.
Ông chủ chính là viên sĩ quan đại đội trưởng, ông ta đáng được thương trên hết vì ông ta có lòng thương người, có công đức cho đời, có lòng tin vững chắc, tin vào quyền năng của Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời thì đầy tớ của ông ta được khỏi bệnh, “⁷ Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh” (Lc 7, 7), và Chúa Giêsu đã khen ông ta: “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ítsraen, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế” (Lc 7, 9).
Đức tin có việc làm là đức tin được cứu độ, được chữa lành, được bình an, như thánh Giacobe tông đồ đã nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 17), thánh nhân còn nói: “Tôi sẽ lấy việc làm mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi” (Gc 2, 18). Việc làm của đức tin là từ bỏ chính mình và vác thập giá của mình mà theo Chúa (Mc 8, 34), Chúa dạy rằng: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35).
Đặc biệt, những ai có đức tin vững mạnh như viên đại đội trưởng, như lời Chúa Giêsu dạy: liều mất mạng sống vì Tôi và Tin Mừng, chắc chắn họ sẽ không thấy cô đơn nao núng vì Chúa ở bên họ; chắc chắn ho không run rẩy sợ hãi vì Chúa Giêsu đang đồng hành với họ; họ sẽ thất vọng trong giờ phút lâm chung vì có Chúa Giêsu đang chờ đón họ trên thiên đường.
2023
Xem quả biết cây
16.9 Thánh Cornelius, Ghtđ và Cyprian, Gmtđ
1 Tm 1:15-17; Tv 113:1-2,3-4,5,6-7; Lc 6:43-49
Xem quả biết cây
Thánh Giáo Hoàng Cornelius là vị Giáo Hoàng thứ 21 kế vị Thánh Phêrô nối ngôi Đức Thánh Giáo Hoàng Fabian qua đời năm 250.
Sau khi Thánh Fabian tử vì đạo thì Giáo Hội thời ấy không có giáo hoàng trong vòng 14 tháng, vì sự bách hại quá mãnh liệt. Trong thời gian ấy, Giáo Hội được điều hành bởi một tập thể linh mục. Thánh Cyprian, một người bạn của Cornelius, viết lại rằng Cornelius được chọn làm giáo hoàng “bởi quyết định của Thiên Chúa và của Ðức Kitô, bởi sự chứng thực của hầu hết mọi giáo sĩ, bởi lá phiếu của người dân, với sự đồng ý của các linh mục lớn tuổi và những người thiện chí.”
Vấn đề lớn nhất trong thời gian hai năm làm giáo hoàng của Thánh Cornelius có liên quan đến Bí Tích Hòa Giải và nhất là việc tái gia nhập của các Kitô Hữu đã chối đạo trong thời bị bách hại. Cả hai thái cực của vấn đề đều bị lên án. Cyprian, giám mục của Phi Châu, yêu cầu đức giáo hoàng xác nhận lập trường của ngài là người bội giáo chỉ có thể hoà giải bởi quyết định của vị giám mục.
Tuy nhiên, ở Rôma, Cornelius lại gặp một quan điểm đối nghịch khác. Sau khi bầu giáo hoàng, một linh mục tên Novatian (một trong những người điều hành Giáo Hội) tự tấn phong cho mình là Giám Mục Rôma—giáo hoàng đối lập đầu tiên. Vị này cho rằng Giáo Hội không có quyền hòa giải chẳng những người bội giáo, mà cả những người phạm tội sát nhân, tội ngoại tình, tội gian dâm hay ngay cả tái hôn! Ðức Cornelius được sự hỗ trợ của hầu hết mọi người trong Giáo Hội (nhất là Ðức Cyprian ở Phi Châu) để lên án chủ thuyết của Novatian, dù rằng giáo phái này kéo dài trong vài thế kỷ. Vào năm 251, Ðức Cornelius triệu tập thượng hội đồng ở Rôma và ra lệnh những người “sa ngã” được hòa giải với Giáo Hội qua “bí tích hoà giải” thông thường.
Một tài liệu từ thời Ðức Cornelius cho thấy sự phát triển của Giáo Hội Rôma trong giữa thế kỷ thứ ba: 46 linh mục, bảy phó tế, bảy phó trợ tế. Số Kitô Hữu được ước lượng khoảng 50,000 người.
Thánh Cornelius tử đạo năm 253 vì hậu quả của sự lưu đầy ở phần đất bây giờ là Civita Vecchia. Ngài được mai táng tại nghĩa trang Thánh Callitus ở Rome.
Ở đất Palestine, có hai loại cây vốn đã trở nên phổ biến và hết sức gần gũi với cuộc sống người Do thái, đó là cây nho và cây vả. Hai loại cây này gắn bó thân thiết với đời sống con người đến mức chúng được hình tượng hóa và chất chứa những ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Chắc chắn, khi nói đến cây vả, quả vả thì người Do thái nghĩ ngay đến niềm bình an, hạnh phúc và sự thịnh đạt. Nói cách khác cây vả, quả vả tượng trưng cho sự thịnh đạt và bình an cho cuộc sống con người. Còn cây nho và quả nho thì biểu trưng cho niềm vui trong cuộc sống của họ.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê su nhắc cho những người theo Ngài biết rằng chẳng bao giờ người ta có thể tìm được trái vả, trái nho nơi bụi gai cả. Người ta muốn có trái vả, trái nho ngon ngọt trong đời, thì phải chịu khó vun xới, chăm sóc cho cây vả, cây nho trong khu vườn nhà người ta. Nếu không chịu khó chăm sóc vườn nhà mình, thì chỉ có bụi gai mọc um tùm mà thôi. Mà ở bụi gai thì làm gì tìm được trái vả và trái nho!
Ý Chúa muốn nói rằng người ta chẳng có được hoa trái của niềm vui, bình an và hạnh phúc khi trong lòng người ta có những bụi gai của sự chua cay, gắt gỏng, đố kỵ, tị hiềm. Ngược lại, nếu người ta chấp nhận dọn dẹp khu vườn của tâm hồn mình và vun tưới, chăm sóc cho cây nho, cây vả của sự hy sinh, vị tha, quảng đại thì chắc chắn người ta sẽ gặt hái được trái nho của niềm vui hay trái vả của sự bình an, thịnh đạt.
Nhưng khổ nỗi, với con người tự nhiên của chúng ta, chúng ta không thích dọn dẹp những bụi gai của sự đố kỵ, tị hiềm mọc um tùm trong lòng mình! Cụ thể, khi ai đó có những lời nhận xét chân thành, nhưng hơi cứng rắn một chút về ta, hoặc ai đó có những lời nói hay hành động do vô ý mà đã vô tình làm ta cảm thấy bị tổn thương, hoặc thậm chí tự nhiên ta gặp một người mà ta chẳng có cảm tình gì cả, thế là ta tìm cách gièm pha, ta chẳng để người ta yên. Mà giả như ta không tìm cách “chơi” người ta, thì ta cũng tìm cách làm ngơ hoặc tránh né, xem họ như không hề tồn tại trong tâm trí mình. Tất cả những thái độ đó chỉ tổ làm cho bụi gai của sự tị hiềm, ganh ghét dần dần mọc lên và phát triển ùm tùm trong khu vườn của tâm hồn ta. Và Chúa bảo rằng chẳng có trái nho, trái vả của niềm vui, của bình an, hạnh phúc trong lòng ta được.
Đã có người từng nhận định rằng: “khoảng cách xa nhất không phait từ Trái Đất đến Sao Hỏa, mà là từ miệng đến tay, hay đúng hơn là từ lời nói đến hành động”. Quả đúng như vậy, dân gian có câu “Nói dễ hơn làm”, những lời nói “phóng đại”, khoe mẽ chưa bao giờ khó bằng việc đưa nó vào hành động thực tiễn.
Nếu chỉ đánh giá con người qua lời nói, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng bị “dắt mũi” bởi những dời dối trá hoa mĩ. Không có gì ngạc nhiên khi có nhiều cô gái bị lừa gạt bởi những gã nhân tình “sở khanh”, “quất mã truy phong”; hay có rất nhiều người bị lôi kéo, dụ dỗ bởi những nhân viên “bán hàng đa cấp”… Lỗi một phần là do họ nhẹ dạ cả tin, dễ tin tưởng vào những lời nói đường mật. Tuy nhiên, cũng có thể là do những người lừa gạt ấy có một khả năng thuyết phục tuyệt hảo, chúng ta có thể thấy nơi họ một sự lôi cuốn khó cưỡng, từ đó khiến ta dễ dàng nghe theo lời họ nói mà chẳng cần quan tâm liệu họ có khả năng thực hiện những việc đó hay không.
Có người đã từng nói rằng: “đừng nghe những gì ‘người ta’ nói, mà hãy nhìn những gì ‘họ’ đã làm”. Một khi đã nhận thấy được những hành động của họ khác xa với lời nói, chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thẳng vào tâm can chứa đầy sự dối trá, lừa phỉnh của những kẻ lừa gạt ấy. Từ đó, chúng ta có thể nhận ra rằng, chính việc nói được mà không là được đã đẩy con người vào đường tội lỗi, dối gạt lẫn nhau; và đương nhiên, đối với những người hết lòng tin tưởng vào chúng ta, hành động đó thật đáng lên án vì nó có thể gây ra những hậu quả khó lường.
Về cơ bản, những người thích nói hơn làm cũng tương tự những người có thói quen “phóng đại” (hay thường gọi là “nổ”). Mục đích của họ thường là tự đề cao bản thân hoặc “dắt mũi” những “linh hồn trong sáng”. Họ muốn người khác nhìn mình với đôi mắt kính trọng, nể phục nhưng khả năng của họ chưa đủ; họ muốn tạc một tượng đài kì vĩ trong lòng người khác nhưng chính bản thân họ không xứng đáng với điều đó; họ muốn dùng những lời nói hoa mĩ của mình để lôi kéo sự ủng hộ của người khác trong khi khả năng thực hiện điều đó không cao…Thế nhưng, dù là mục đích nào đi chăng nữa, ít nhiều họ cũng đã dối gạt tha nhân, đó vẫn là tội nói dối và tuyệt đối không nên cổ súy.
Chúa Giêsu đã chất vấn các môn đệ rằng: “Tại sao anh em gọi thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” mà anh em không làm điều thầy dạy?”. Ta có thể thấy rằng, nói được làm được là chuyện nhỏ, có một chuyện còn quan trọng hơn muôn phần, đó là phải biết lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm kim chỉ nam của cuộc đời mình. Người đề cao hành động thực tế hơn những lời sáo rỗng, Người muốn chúng ta phải thực thi thánh ý của Ngài. Có như vậy, chúng ta mới được ví như “Người xây nhà trên đá” những kẻ khôn ngoan biết thi hành Lời Người. “Xem quả thì biết cây”, nếu chúng ta sống như Người dạy, người khác sẽ đánh giá tốt những người mang danh Kitô hữu; và đương nhiên, một khi danh Chúa tràn ngập khắp cả địa cầu, nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành.
Xã hội chúng ta đang sống chứa đầy những lời xảo trá, bịp bợm, nếu không cẩn trọng, chúng ta sẽ là những con cừu non tội nghiệp bị mắc bẫy của những lão sói già ranh ma, xảo quyệt. Mỗi người chúng ta phải biết tỉnh táo, cảnh giác trước những lời nói đường mật, vì “mật ngọt chết ruồi”. Chỉ có một Lời có thể đem lại cho chúng ta sự sống đời đời, đó là Lời của chính Thiên Chúa được mặc khải qua Chúa Giêsu. Những lời Người đã nói ra, Người đều thực hiện, vì Chúa là Đấng Chân Thật và chính Người là Sự thật. Chúng ta phải biết học tập nơi Người, hãy để Chúa trở thành một “siêu người mẫu” – người mà tất cả chúng ta phải noi theo. Chúng ta hãy sống sao cho phải phép, để mai này Chúa sẽ không chất vấn chúng ta như đã chất vấn các môn đệ của Người, vì người không biết không có tội, còn kẻ “tri pháp phạm pháp” sẽ phải chịu phạt nặng hơn.
2023
Bi thương nhưng không mất đường hy vọng
15.9 Đức Mẹ Sầu Bi
1 Tm 1:1-2,12-14; Tv 16:1-2,5,7-8,11; Lc 6:39-42
Bi thương nhưng không mất đường hy vọng
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo hội mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Ngẫm nghĩ đến việc mừng lễ Đức Mẹ sầu bi, dường như ta cảm thấy có cái gì đó kỳ kỳ, không ổn thì phải! Đời thuở nhà ai lại đi ăn mừng lễ một người mẹ khi người mẹ đó gặp cảnh sâu thảm, bi thương vì phải chứng kiến cái chết của con mình bao giờ! Ở trong nỗi khổ đau, sầu bi thì làm sao có cái gì để mà ăn mừng?!
Giáo hội đặc biệt kính nhớ đến Đức Mẹ sầu bi, nhớ đến hình ảnh Mẹ đau khổ, âu sầu ôm xác Chúa Giêsu dưới chân thập tự giá. Không phải ngãu nhiên mà lễ nhớ đến Đức Mẹ sầu bi lại được cử hành ngay sau ngày suy tôn Thánh giá – tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn đầy đau thương của Con Thiên Chúa để cứu chuộc muôn người. Nỗi đau mà Người gánh chịu vô cùng to lớn, nhưng nỗi đau ấy nơi người Mẹ chứng kiến cảnh Con mình chịu đớn đau cũng không hề thua kém. Chính vì thế, khi tưởng nhớ đến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên nhớ đến người Mẹ cũng chịu nỗi đớn đau như ngàn mũi dao xuyên tim.
Hôm nay mừng lễ Đức Mẹ Sâu Bi, Giáo hội nhắc nhớ cho chúng ta biết về giá trị của hạnh phúc, giá trị của niềm hy vọng trong chính nỗi khổ đau và chết chóc. Ngay ở bài đọc 1 trích trong thư gửi tín hữu Do thái hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về niềm hy vọng trong đau thương, hoạn nạn. Tác giả thư Do thái viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính”. Suy gẫm đoạn lời Chúa này, bấy lâu nay ta không khỏi thắc mắc: Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà xin Cha Ngài khỏi phải chết và rõ ràng tác giả thư Do thái bảo rằng Ngài đã được nhậm lời! Nhưng thực tế, Đức Giêsu vẫn phải chết tức tưởi trên thập giá! Vậy nghĩa là sao?
Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.
Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị. Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững. Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá. Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi. Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh : Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói: Thưa Bà, đây là con của Bà. (c. 19, 26)
Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái. Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến. Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.
Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh. Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống: Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc. Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.
Dưới chân Thánh Giá, Mẹ Maria nhận lấy Giáo Hội của Chúa Giê-su, và Thánh Gioan, người môn đệ Chúa Giê-su quý mến, đã thay mặt anh em tông đồ, nhận Mẹ là Mẹ Giáo Hội, và đưa Mẹ về nhà mình, đón Mẹ về làm Mẹ Giáo Hội. Từ lời xin vâng đón nhận cưu mang Con Chúa, đến lời xin vâng đón nhận Giáo Hội của Chúa Giê-su, Mẹ Maria đã âm thầm tự hiến đời mình cho Thánh Ý Thiên Chúa được thành toàn để nhân loại được cứu rỗi. Đúng như lời tiên tri Simêon nói với Mẹ: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà.
Lễ Mẹ sầu bi là một dịp cho mỗi người chúng ta biết ý thức chấp nhận tất cả những nghịch cảnh trong cuộc sống, để thanh luyện bản thân, và để đồng công với Chúa Kitô. Đức Maria, Hiền Mẫu của chúng ta, đã dạy và làm gương cho chúng ta đó là: đừng than vãn giữa những đau khổ thử thách. Mẹ khuyến khích chúng ta hãy liên kết những đau khổ của chúng ta với lễ hy sinh của Con Mẹ, và hiến dâng những đau khổ ấy như hiến lễ để mưu ích cho bản thân, gia đình, Giáo Hội, và toàn thể nhân loại.
2023
Huyền nhiệm của Tình Yêu
14.9
Tôn Vinh Thánh Giá
Cl 3:12-17; Tv 150:1-2,3-4,5-6; Lc 6:27-38
Huyền nhiệm của Tình Yêu
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Đàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống.
Trước khi Đấng Cứu thế đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Đức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kitô giáo. Đó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Đức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).
Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Chúa Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Đức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Đức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Kitô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giêsu, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giêsu trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa: Đức Giêsu là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giêsu, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta:
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Kitô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: “Thập giá là quyển sách cao siêu nhất… Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái”. Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu”.
Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại…
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.