2024
QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA
Thứ Ba tuần I TN
1 Sm 1:9-20; 1 Sm 2:1,4-5,6-7,8; Mc 1:21-28
QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA
Người Do thái trưởng thành thường tới hội đường vào các ngày Sa-bát để cầu nguyện và học hỏi Kinh Thánh. Bởi đó, những người hiện diện trong hội đường hôm nay chắc chắn đã nhiều lần nghe các luật sĩ của họ cắt nghĩa lề luật. Thế nhưng, họ chưa bao giờ có cảm giác kinh ngạc cho đến khi lắng nghe những lời dạy từ miệng Chúa Giêsu. Thánh Máccô nói với chúng ta rằng họ đã kinh ngạc với lời dạy của Chúa Giêsu bởi vì lời dạy của Ngài có uy quyền.
Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị quỉ ám.
Sau khi Gioan Tẩy giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các tiên tri trong Cựu ước là những người được Thiên Chúa uỷ thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những luật lệ tỉ mỉ bên ngoải. Gíao huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một việc loan Tin mừng cứu rỗi, cách riêng, cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa giữa giáo lý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.
Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người quỷ ám. Phép lạ chứng minh Ngài làThiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. “ Oâng ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo”. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: “Oâng lấy quyền nào mà làm như vậy?” Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài:” Thưa đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe. Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Như chính anh em đã biết điều đó”.
Chúa Giêsu là hiện thân của một quyền bính dựa trên lòng người. Tin mừng hôm nay đã tóm tắt tất cả quyền bính của Ngài. Thánh Marcô đã nhận định: “Chúa Giêsu đã giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Ở đây có lẽ chúng ta chỉ hiểu được nhận định của thánh Marcô khi nhớ lại bài học Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ nhân một cuộc tranh luận giữa các ông về quyền bính: “Thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như con người không đến để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người “.
Chúa Giêsu không bao giờ nói suông, Ngài không bao giờ giảng dạy về điều gì mà chính Ngài không thực thi trước. Tự xưng mình là đầy tớ mọi người, Chúa Giêsu đã sống cho đến cùng lời cam kết ấy. Cái chết trên thập giá là một thể hiện trọn vẹn tư cách đầy tớ của Ngài. Như vậy, quyền bính đối với Chúa Giêsu chính là phục vụ và phục vụ cho đến cùng.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã giảng dạy như Đấng có thẩm quyền bởi vì Ngài thể hiện quyền năng của Ngài bằng sứ phục vụ . Việc Ngài trừ quỷ cho một người ở giữa hội đường đã được những người có mặt thốt lên : “Đây là một giáo lý mới đầy uy quyền “. HoÏ đã nhìn nhận rằng Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy bằng lời nói, mà còn bằng hành động cụ thể nhất là bằng cả cuộc sống của Ngài. Staline đã thách đố quyền bính của Giáo hội khi ông đặt câu hỏi: “Đi hỏi Đức Giáo Hoàng xem có bao nhiêu sư đoàn?”. Nhưng sức mạnh quyền bính cũng như sự khả tín của Giáo hội trước sau vẫn là sức mạnh và quyền bính của yêu thương và phục vụ.
Mỗi giây phút của cuộc sống qua đi, chúng ta đối diện với rất nhiều âm thanh khác nhau từ mọi phía. Thế nhưng chỉ có Lời Chúa mới là lời chân thật và mang lại cho chúng ta sự sống. Chỉ có lời Ngài mới có thẩm quyền trên cuộc đời chúng ta và chỉ những lời ấy mới mang lại cho cuộc đời chúng ta niềm vui và hy vọng. Hãy chăm chú đọc và khám phá những điều kỳ diệu từ Lời Chúa. Hãy để cho những lời của Ngài làm kinh ngạc và nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta.
Nguyện cho lời Chúa hôm nay củng cố trong niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Gíao Hội. Gíao Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hoá và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Gíao Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
2024
Sống phép rửa
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa
Sống phép rửa
Biến cố Chúa chịu phép rửa được cả ba sách Tin mừng nhất lãm kể lại. Sự kiện này đánh dấu việc khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Đức Giêsu. Trình thuật cũng tiên báo về bí tích rửa tội mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài.
Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa Tội trong Nhà thờ.
Chúng ta được rửa bởi tất cả mọi biến cố xảy ra trong đời:
Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn: đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta khỏi những gì là gian trá và vô dụng.
Chúng ta được rửa bởi những khổ đau, buồn rầu: đó là những dòng nước u ám nhưng có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.
Chúng ta được rửa bởi niềm vui: đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.
Chúng ta được rửa bởi tình yêu: đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa dưới ánh nắng mặt trời.
Phép rửa là một hạt giống, cần phải nẩy mầm trong suốt cả đời sống.
Thánh Luca xác định rằng Chúa Giêsu cũng chịu phép rửa “như toàn dân”. Người không hề phạm tội nhưng đã muốn liên đới với tất cả những người đến thú nhận tội lỗi và chịu phép rửa. Đấng vô tội đã hòa mình vào dòng người tội lỗi để lãnh nhận phép rửa. Đấng là Suối nguồn sự sống của thành đô Thiên Chúa nay đến chịu thanh tẩy trong dòng nước Gio-đan nhỏ bé. Đấng đến để xóa tội trần gian lại bước xuống xin rửa tội từ con người. Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần đến xin chịu phép rửa bằng nước của Gioan.
Chúa Giêsu chịu phép rửa không phải để được thánh hóa nhờ nước, nhưng chính Người thánh hóa dòng nước và để thanh tẩy những dòng nước mà Người chạm đến nhờ sự trong sạch tuyệt đối của Người.
Khi Đấng Cứu Độ chịu phép rửa chính là để thánh hóa cách trọn vẹn trước dòng nước cho phép rửa của Kitô hữu trong tương lai. Nhờ đó, ân sủng của phép rửa được ban tặng cho chúng ta cách tràn đầy và xóa bỏ mọi tội lỗi của chúng ta.
Chúa Kitô đã đón nhận phép rửa trước để rồi tất cả Kitô hữu tiếp tục lãnh nhận với lòng tin. Qua phép rửa bằng nước, Chúa Kitô chuẩn bị cho dân Người đón nhận phép rửa trong Thánh Thần do chính Người ban, như lời Gioan làm chứng “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần.”( Lc 3,16b)
Phép Rửa trong Thánh Thần được Gioan chứng nghiệm: Tầng trời đã mở ra, sự thông truyền được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân của Người. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu để chứng thực bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu đón nhận Thánh Thần không phải cho chính Người nhưng là cho tất cả chúng ta đang ở trong Người.Vì nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hóa mọi sự, chúng ta đạt đến sự thánh thiện và mọi điều tốt lành.
Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người giữ mối tương quan đặc biệt với Chúa Cha. Qua tiếng từ trời phán “Con là Con của Cha,ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,22b), Chúa Cha đã đón nhận tất cả chúng ta làm con của Người. Bởi vì tất cả nhân loại được ở trong Chúa Kitô với tư cách Người là con người. Trong ý nghĩa này, chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha và chúng ta cũng là con yêu dấu của Người. Vậy tầng trời đã mở ra cho Con Một và tương lai cũng sẽ mở ra cho chúng ta. Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Chúa Giê su, cũng sẽ ngự vào trong tâm hồn chúng ta và chắc chắn cả Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ ở cùng mỗi người Kitô hữu khi lãnh nhận phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Quang cảnh trong biến cố Ngài chịu phép rửa mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng có lẽ làm chúng ta thấy mình hổ thẹn biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình. Thật vậy, Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Ngài đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu. Là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
Ngài đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giàu sang. Trái lại, Ngài chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
Và hôm nay, khi bước xuống dòng sông để lãnh nhận phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy hết sự khiêm nhường của Thiên Chúa chúng ta. Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Ngài lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa như một người dân tầm thường và tội lỗi. Ngài khiêm hạ đến độ làm cho mình trở thành một kẻ vô danh bên cạnh một ông Gioan Tẩy Giả đang được mọi người ngưỡng mộ và kính phục để chia sẻ kiếp người với chúng ta, để nâng loài người chúng ta lên.
Phép Rửa nói với chúng ta rằng: Con cái do cha mẹ sinh ra nhưng không hoàn toàn thuộc về cha mẹ, bởi vì chúng ta còn là con cái của Thiên Chúa. Cha ông mình đã nói rất chí lý: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Không ai có thể tự nắm giữ vận mệnh của mình. Số phận của mỗi người đã được bàn tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa an bài. Chúng ta tin rằng, con người do Thiên Chúa tạo dựng, mỗi người được Thiên Chúa trao cho một số khả năng và một sứ mạng. Với ơn Chúa giúp con người có thể dùng khả năng của mình để chu toàn sứ mạng đã được giao phó cho mình.
Mỗi biến cố xảy tới là một lời mời gọi chúng ta nhớ đến thân phận của mình sau khi chịu phép Rửa, mời gọi chúng ta nhìn lại con người của mình và canh tân đời sống. Khi ý thức được mình là ai thì chúng ta mới biết sống sao cho phù hơp với ý muốn của Thiên Chúa.
2023
ĐẾN VÀ Ở LẠI VỚI CHÚA
6.1 Thứ Bảy trước Lễ Hiển Linh
Ga 1:43-51
ĐẾN VÀ Ở LẠI VỚI CHÚA
Ta thấy hành trình sống cũng như truyền giáo của Thầy Chí Thánh Giêsu không phải lúc nào cũng được suôn sẻ hay thuận buồm xuôi gió. Không ít lần Ngài phải đối diện với những con người không mấy thiện cảm với mình. Câu chuyện Đức Giêsu gặp gỡ Nathanael hôm nay chính là bài học cho chúng ta hôm nay trên hành trình theo Chúa.
Trang Tin mừng theo Thánh Gioan thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê su và philipphê và sau đó, qua Philiphê, là cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa Nathanaen và Đức Giêsu.
Nếu như cuộc diện kiến giữa Đức Giêsu và Philipphê có nhiều thuận lợi ,Thánh Gioan ghi lại: Ông Philipphê là người Betsaida cùng quê với các ông Anrê và Phêrô ( những người đầu tiên đã đi theo làm môn đệ Chúa), để rồi sau đó, Philiphê dễ dàng tin và đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu “ Anh hãy theo tôi”.
Trường hợp theo Chúa của Nathanaen thì không phải thế, Philipphê nói về Đức Giêsu Nadaret và trình bày cặn kẽ cho Nathanaen biết Ngài chính là Đấng mà kinh thánh đã nói đến, các tiên tri đã loan báo, muôn dân hằng mong đợi, chúng tôi đã gặp và chúng tôi đã đi theo Ngài. Dù vậy, xem ra , giữa sứ điệp được trình bày và người nghe sứ điệp cũng còn một khoảng cách khá lớn, “ từ Nadaret, làm sao có cái gì hay được ?”. Để thu hẹp khoảng cách đó, Philiphê đề nghị một cuộc gặp gỡ :” Cứ đến mà xem !”. Nathanaen đã đến và, không chỉ là để xem những “cái chi hay” mà là gặp được Đức Giêsu, tin và đi theo Người.
Ta thấy có thể lời giới thiệu của Philipphê chưa đủ sức mạnh lôi cuốn, nên ông phải nại đến ơn Chúa “Cứ đến mà xem”. Khi gặp được Chúa cũng như được đối thoại với Chúa, Nathanaen đã thay đổi cách nhìn và tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa “chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Israel”. Từ cái nhìn đức tin này, Nathanael đã dấn thân trọn vẹn và trở thành khí cụ để Chúa sử dụng cho sứ mạng của Ngài.
Thiên Chúa chọn gọi các ngôn sứ và nói với các ông qua thị kiến, giấc mơ. Nhưng khi Đấng Emmanuel – Lời đã làm người thì tiếng gọi của Thiên Chúa không còn qua giấc mơ hay thị kiến mà là qua con người. Người được Chúa gọi thì cảm nghiệm được niềm vui cứu độ nên đáp trả bằng cách lên đường, loan báo niềm vui cho người khác. Khi được Đức Giêsu mời gọi “anh hãy theo tôi”, Philiphê đã vui đến nỗi khi gặp Nathanael ông phải giới thiệu ngay về Đức Giêsu.
Nhưng Nathanael đã cứng lòng và nghi hoặc: “Từ Nazareth, làm chi có cái gì hay được?” (1, 46). Philiphê không bỏ cuộc, ông nói một cách xác tín: “Đến mà xem!”. Philiphê đã làm xong nhiệm vụ của mình là giới thiệu và đưa người khác đến gặp Đức Giêsu phần còn lại là việc của Chúa. Hẳn đó cũng chính là điều mà bất cứ ai khi loan báo Tin Mừng cũng trải nghiệm.
Nathanael đã cảm phục Chúa, đi theo Chúa vì thấy rằng Chúa biết về đời tư của ông, Chúa nói: “Ta đã thấy ngươi dưới bóng cây vả” (c. 48). Đấy là một sự hiểu biết của một vị Thiên Chúa dành riêng cho đời ông. Trước khi ông đến gặp Chúa, Chúa đã biết ông ngồi dưới gốc cây vả. Chúa biết ông là một người “Công chính ngay thật” (c. 47). Đó là hai cái biết, Nathanael ngạc nhiên hỏi lại Chúa: “Bởi đâu mà Ngài biết được vậy?” (c. 48) Chúa quả quyết thêm: “Trước khi Philiphê gọi ngươi, Ta đã thấy ngươi dưới gốc cây vả” (c. 48).
Trước thái độ hoài nghi của Nathanael Đức Giêsu đã tỏ ra ân cần, trìu mến: “đây đích thực là một người Israel lòng dạ không có gì gian dối”(1,47). Đức Giêsu tỏ ra cao thượng khi khen Nathanael là một người trung thực. Người luôn quan tâm tới ông: “trước khi Philiphê gọi anh, lúc anh ở dưới cây vả tôi đã thấy anh rồi”(1, 48). Cách cư xử của Đức Giêsu đã thay đổi hoàn toàn suy nghĩ của Nathanael khiến ông liên tục từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi Ngài nói: “các anh sẽ thấy trời rộng mở và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên con người”(1, 51)
Sự ngay thẳng của Nathanael mời gọi chúng ta hãy có một tấm lòng trung thực ngay chính như ông khi học hỏi lời Chúa. Cùng đích chóp đỉnh của Tin Mừng, của lời Chúa là chính Chúa. Ta được mời gọi đừng và không nên cắt nghĩa lời Chúa theo tư lợi ích kỷ hay dục vọng của lòng mình. Lời Chúa luôn là khuôn vàng thước ngọc, là đèn soi bước chân đi, là lời hằng sống (Ga 6, 68). Như vậy đừng bao giờ làm bể thước đo đó, cũng đừng làm mờ bóng đèn đó, và tệ hơn nữa là tắt đèn đi gây bóng tối cho mình và người khác đang cần tới ánh sáng đó… để về với Thiên Chúa hằng sống.
Nathanael đã cảm nhận được niềm vui cứu độ: “chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là vua Israel”(1, 49) và ông tiếp tục loan báo ơn cứu độ cho mọi người mà ông gặp gỡ. Hẳn ông sẽ loan báo cách xác tín hơn ai hết bởi chính ông từ chỗ từ chối đến chỗ mở lòng mình ra đón nhận Thiên Chúa với sự tự do, nên ông cũng sẽ chờ đợi người khác kiên nhẫn hơn, với niềm hy vọng Thiên Chúa sẽ có cách của Người.
Mỗi Kitô hữu chúng ta khi được mời gọi đến gặp gỡ Chúa qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, lòng chúng ta cũng trào tràn niềm vui và chúng ta sẽ mời gọi những người khác đến với Thiên Chúa. Thế nhưng, liệu chúng ta có cư xử cách cao thượng và có còn tỏ ra quan tâm đến người khác khi họ mãi cứng lòng, luôn hoài nghi về Tin Mừng mà chúng ta loan báo hay không?
Ơn gọi của người Kitô hữu cũng vậy. Hoặc là Chúa trực tiếp gọi chúng ta khi Chúa soi sáng lương tâm chúng ta; hoặc Chúa gọi chúng ta qua trung gian một người nào đó một linh mục, một người bạn, một người nghèo, đó là trường hợp những người ngoài Công Giáo xin trở lại… Hoặc là chúng ta xin đi theo Chúa, đó là trường hợp chúng ta sinh ra trong gia đình Công Giáo, xin Rửa Tội. Được gọi làm môn đệ của Chúa, người Kitô hữu được mời gọi sống theo gương Chúa Giêsu; nghĩa là không chỉ sống bằng cách giữ một ít việc đạo đức, nhưng đem Phúc Âm vào cuộc sống hằng ngày.
Là Kitô hữu chúng ta cũng mang trong mình sứ mạng loan báo Tin Mừng cho người khác nhưng rồi ta không thể giới thiệu Chúa cho người khác nếu trong ta không có Chúa, bởi “không ai có thể cho cái mà họ không có”. Các môn đệ có Chúa khi đến và ở lại với Ngài.
Qua việc cử hành Phụng vụ, các Bí tích và nhất là Thánh lễ chúng ta được đến và ở lại với Chúa. Thế nhưng ta đã ý thức và trân trọng những giây phút ấy chưa? Chúa Giêsu là nơi Thiên Chúa và con người gặp nhau. Vì thế, lời giới thiệu của ta phải quy hướng về Chúa chứ không phải chính mình. Lời giới thiệu sẽ có sức thuyết phục khi lời nói phải đi đôi với hành động. Đồng thời, ta không nên ỷ lại vào sức riêng của mình, nhưng phải nại đến ơn Chúa như Philipphê đã giới thiệu Nathanael với Chúa năm xưa.
Tin Mừng Nước Trời chính là kho báu, Hồng ân cứu độ là viên ngọc quí, nhưng tất cả có thể đang bị vùi chôn , đang bị che lấp bởi chính đời sống thụ động, đời sống cầu an của người tin Chúa. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy cùng Chúa mở rộng kho báu,và hãy cùng nhau trao ban viên ngọc Nước Trời.
2023
Giới thiệu Chúa cho anh em
5.1 Thánh Gioan Neumann, Gm
1 Ga 3:11-21; Tv 100:1-2,3,4,5; Ga 1:43-51
Giới thiệu Chúa cho anh em
Gioan Nepomucene Neumann sinh ngày 28 tháng 3 năm 1811 tại Prachititz, Bohemia (Czech Republic). Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bohemia dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín. Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Ðể theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ. Ở Nữu Ước, thầy John được thụ phong linh mục ngày 28 tháng 6 năm 1836. Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200,000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontario đến Pennsylvania. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.
Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế tại Pittsburgh, Pennsylvania năm 1840, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.
Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philadelphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.
Ðức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên sự lưu tâm đến dân chúng — đó là điều làm giới trưởng giả ở Philadelphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Ðức Gioan khôi hài, “Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!”
Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Ðức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Ðức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Gaelic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm, “Thật tuyệt là chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục người đồng hương!”
Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Ðức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời, “Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được.”
Đức Gioan Neumann qua đời ngày 05 tháng 1 năm 1860 vì tai biến mạch máu nảo tại nhà số 13th và Vine Streets, Philadephia, Pennsylvania, USA, khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học cũng như các trước tác tôn giáo và bài giảng.
Đức Giáo Hoàng Paul VI đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước ngày 13 tháng 10 năm 1963 rồi mười bốn năm sau chính Đức Thánh Cha đã nâng Đức Giám Mục John Neumann lên hàng hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1977. Ngài là Giám Mục người Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh.
Cuộc đối thoại giữa Philipphê và Nathanaen là cuộc trò chuyện giữa hai người bạn. Philipphê khoe với bạn của mình về tung tích của Đấng Cứu Thế là “con ông Giuse, người Nadaret”. Trước niềm vui mừng của Philipphê, Nathanaen lại tỏ ra không quan tâm, vì ông cho rằng, Nadaret là vùng quê nghèo và hẻo lánh thì làm gì có chuyện Đấng Mêsia lại xuất thân ở đó. Thế nhưng, Philipphê không hề tỏ vẻ tức giận hay cãi lại, mà rất bình tĩnh và trả lời: “Hãy đến mà xem”.
Tin Mừng hôm nay tường thuật ơn gọi của Philíp và Nathanael:
Philíp là người môn đệ thứ tư (3 ông trước là Gioan, Anrê và Phêrô). Ông “là người thành Bếtsaiđa, quê quán của Anrê và Phêrô”. Chúa Giêsu gọi ông trực tiếp.
Sau khi được Chúa gọi, Philíp đã đến gặp Nathanael và giới thiệu Chúa cho ông này. Nathanael là người thường “ở dưới cây vả”. Kiểu nói “ở dưới cây vả” có nghĩa là người thích tìm hiểu Thánh Kinh. Nathanael tìm hiểu Thánh Kinh, nhưng bị giam hãm trong những thành kiến cũ nên không tin rằng từ Nadarét có thể xuất hiện một thứ gì hay được. Nhưng rất may là Chúa Giêsu đã trực tiếp đến với ông, tỏ cho ông thấy Ngài đúng là một ngôn sứ, nên cuối cùng Nathanael cũng đi theo làm môn đệ Ngài.
“Philíp gặp Nathanael và nói với ông: ‘Đấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp’.”: Tường thuật của Gioan về ơn gọi những môn đệ đầu tiên cho thấy Chúa thường gọi qua trung gian: Gioan và Anrê được gọi qua trung gian của Gioan Tẩy Giả, Phêrô được gọi qua trung gian Anrê, và Nathanael qua trung gian của Philíp. Trung gian mà Chúa dùng có thể là một người mà cũng có thể là một sự việc, một biến cố nào đó.
Nathanael đáp: “Bởi Nadarét nào có cái chi hay?”: Mặc dù đã từng “ở dưới cây vả” mà nghiền ngẫm Sách Thánh nhưng Nathanael không tìm gặp được Đấng Cứu Thế, bởi ông mang nặng thành kiến, thành kiến về địa danh Nadarét tầm thường nhỏ bé.
Không thể dùng thành kiến mà đánh giá con người hay vấn đề được, bởi vì thành kiến chỉ là một nhận định cục bộ từ một vài trường hợp cá biệt. Không phải vì đã có một vài trường hợp đã xảy ra như thế rồi kết luận rằng tất cả mọi trường hợp đều sẽ phải xảy ra như thế.
Thế nhưng con người lại rất dễ nhiễm thành kiến và thường xét đoán theo thành kiến. Có lẽ tôi cũng thế khi có thành kiến với người khác.
Mỗi chúng ta, rất có thể đã từng là Nathanael của năm xưa. Cho dù là khi ta phải vất vả long đong với cơm áo gạo tiền, hay ngược xuôi trong trách nhiệm với tha nhân, kể cả khi phải dấn thân cho lý tưởng cộng đồng,… thì cái chất, cái cá tính Nathanael vẫn phảng phất ẩn hiện đâu đó trong nếp nghĩ, trong lối sống, trong khát vọng của ta. Liệu tôi, bạn và anh chị có gặp được Ngài, có cho Ngài cơ hội để gặp được chúng ta, có chấp nhận thiết lập mối tương giao yêu thương với Ngài ?
Bởi vì, dù muốn dù không, đức tin mách bảo và nhắc nhở mỗi chúng ta rằng: Chỉ với Chúa, trong Chúa, nhờ Chúa và vì Chúa, ta mới tìm được lời giải đáp cho mọi trăn trở vật vã phận người. Bởi vì, Ngài luôn thấy rõ, biết rõ từng ngõ ngách đời ta.
Ước gì từng khoảnh khắc đặt mình trước Lời Chúa và trong từng bước chân loan báo Tin Mừng, ta biết mở trí, mở tâm và mở tay ra đón Chúa. Nhớ đó Ngài có thể làm cho bừng sáng, cho mới mẻ, cho ý nghĩa, cho hồi sinh cuộc sống và sứ vụ của ta.