2020
Tin và đón nhận
Thứ Năm 2 tháng 4 2020
Ga 8, 51-59
TIN VÀ ĐÓN NHẬN
Sinh thời của Chúa Giêsu, dân chúng đã tìm cách giải thích dung mạo của Người, họ gán cho Người những hình ảnh quen thuộc: là Gioan Tẩy Giả, là ngôn sứ Êlia, hay một ngôn sứ nào đó (Mc 8, 28). Trong trình thuật Tin mừng của thánh Gioan hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định Người là Con Thiên Chúa (Ga 8, 54) và là Đấng Hằng Hữu (Ga 8, 58).
Thuật ngữ “Ta Hằng Hữu” cho thấy Chúa Giêsu luôn hiện diện cách siêu việt thời gian và không gian như lời Thánh sử Gioan đã viết “lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1, 1). Người không những hiện diện cách siêu hình mà còn hiện diện cụ thể trong lịch sử nhân loại “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14a).
Với biến cố Nhập Thể, Ngôi Lời là Thiên Chúa vô hình đã hiện diện cách hữu hình khi trở nên người phàm. Người nói với con người bằng ngôn ngữ nhân loại, mạc khải cho con người về Ơn Cứu Độ. Tất cả những gì con người phải làm để được Ơn Cứu Độ là tin vào Chúa Giêsu, xem những gì Người làm, lắng nghe và tuân giữ những gì Người nói.
Tuy vậy, không phải mọi người đều nhận ra sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu và tin vào Người. Nhiều người Do Thái trực tiếp được thấy và nghe Chúa Giêsu giảng dạy nhưng đã không tin Người và cho rằng Người bị quỷ ám. Hình ảnh những người Do Thái không tin Chúa Giêsu chính là hình ảnh của nhiều người hôm nay. Họ không nhận ra sự hiện diện của Người vì những lý do khác nhau: hoặc vì thượng tôn khoa học, hoặc vì bám víu nơi vật chất, hoặc vì theo các lý thuyết vô thần.
Người Do Thái đã bị vấp phạm khi nghe thấy Chúa Giêsu, một người chưa đầy năm mươi tuổi, tự cho mình là Con Thiên Chúa, là Đấng Hằng Hữu, đã được thấy tổ phụ Apraham. Lý trí bình thường của con người và sự khép kín cõi lòng đã trở thành rào cản khiến họ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ Thiên Chúa sai đến. Họ từ chối tin vào Ngài.
Trong một cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mặc khải thêm về thân thế của Ngài… Nhưng với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám… Sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ của tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ghanh tị tham lam.”
Thượng tế Caipha đang mưu toan đẩy Chúa Giêsu vào con đường chết nhằm loại trừ hậu họa theo cái nhìn của con người. Hơn nữa, mưu kế khôn ngoan của ông cũng che đậy một mưu mô thâm hiểm muốn giết người vô tội để thỏa lòng ghen tương, đố kỵ. Nhưng thật trớ trêu, âm mưu thâm độc của vị thượng tế lại trở thành lời tiên tri loan báo về Chúa Giêsu, Đấng sẽ chịu chết để trở thành nguồn ơn cứu độ cho muôn dân.
Sự mưu mô, tội ác, sự bất công vẫn đầy dẫy trong thế giới con người. Người ta dễ dàng bóp méo sự thật bằng những lời hoa mỹ. Người ta dùng những mưu kế thấp hèn để lừa dối lẫn nhau, lừa dối dân chúng nhằm phục vụ lợi ích cá nhân của mình. Những người công chính, ngay thẳng, và dám lên tiếng bênh vực cho sự thật, có thể bị loại trừ bằng những thủ đoạn thấp hèn.
Những ai muốn nhận ra chương trình của Thiên Chúa thì cũng phải tập nhìn mọi sự theo cách nhìn của Ngài. Những người Do Thái không muốn nhìn như thế, họ nhìn vào Chúa Giêsu và họ chỉ thấy đó là một con người tuổi chưa đầy năm mươi mà dám khoác lác nói rằng mình đã thấy tổ phụ Abraham, lại còn dám xưng mình ngang hàng với Thiên Chúa nữa. Họ không thể chấp nhận thái độ cao ngạo và phạm thượng ấy. Họ phải ném đá kẻ ngông cuồng này.
Quả đúng như lời mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người. Người đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 9-11)
Đức tin và đón nhận Ngôi Lời là ơn ban đến từ Thiên Chúa và vượt qua sự hiểu biết của lý trí con người. Đức tin giúp con người đi vào các mầu nhiệm của Thiên Chúa và dấn bước theo Người với tình yêu và lòng phó thác. Vì đức tin, tổ phụ Apraham đã từ bỏ quê cha đất tổ lên đường đến miền Đất hứa vô định, đã sẵn sàng hy sinh đứa con độc nhất theo lệnh Chúa dù đó là mầm mống duy nhất cho một dòng dõi đông đảo mà Chúa hứa với ông. Ông trở thành “cha của những kẻ tin”.
Và ta thấy Đức Maria đã hết lòng yêu mến và tín thác cuộc đời nơi Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ là đấng cao trọng nhất trong các loài thụ tạo. Trên hành trình về nhà Cha với biết bao trở ngại và thách đố, mỗi người cần tin tưởng và đặt trọn cuộc đời mình nơi bàn tay quan phòng của Chúa.
Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó cũng có những thành kiến do những kẻ có đạo tạo nên.
Trong tâm tình Mùa Chay, là những người Kitô hữu, chúng ta cùng nhau suy ngắm mầu nhiệm thương khó và vượt qua của Chúa Giêsu. Vì yêu mà Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống của mình để cứu độ muôn dân.
Vì thế, chúng ta cũng được mời gọi từ bỏ những mưu mô, những kiêu căng, đố kỵ, trù dập người khác để mang lại lợi ích cho bản thân. Mỗi khi chúng ta cư xử bất công với người anh em mình, thì chính chúng ta cũng đã tham gia vào bản án mà Đức Giêsu phải chịu. Ngoài ra, chúng ta cũng được thúc đẩy tìm kiếm và theo đuổi những phương thế phù hợp để thúc đẩy công lý và hòa bình.
2020
Lòng tin của người Do Thái – Lòng tin của ta
Thứ Tư Tuần V Mùa Chay
Đn 3, 14-20. 91-92. 95; Ga 8, 31-42
LÒNG TIN CỦA NGƯỜI DO THÁI – LÒNG TIN CỦA TA
Những dân tộc bị đô hộ nhiều năm mới hiểu được giá trị của giải phóng. Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do. Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng. Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới. Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình, và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.Tự do mãi mãi là khát vọng của con người. Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.
Trang Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những người Do Thái mới tin vào Ngài. Lòng tin của họ chưa được trọn vẹn và Ngài đề nghị những biện pháp để củng cố niềm tin đó, như sống theo Lời Chúa, chấp nhận được giải thoát khỏi tội lỗi, phát triển mối tương quan với Ngài. Tuy nhiên, các người Do Thái không đủ khiêm tốn để chấp nhận đề nghị của Chúa, họ tự phụ mình là con cái của Abraham và do đó không cần ai dạy thêm điều gì nữa, cũng chính vì thế họ không thể tiến xa hơn trên con đường đức tin.
Những người Do thái đang tranh luận gay gắt với Đức Giêsu. Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham, nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33). Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34). Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham. Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu. “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi… các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32). Tự do đến từ chính con người của Ngài: “Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).
Chúa Giêsu khẳng định với người Do Thái: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. Để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu thì cũng giống như mở lòng mình ra với Thiên Chúa. Lời Chúa Giêsu chính là lời của Thiên Chúa. Chúng thông tri sự thật, bởi vì chúng làm cho mọi việc được biết như chúng đang ở dưới mắt của Thiên Chúa và không phải như dưới mắt của người Biệt Phái. Sau đó, trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu sẽ dạy điều tương tự cho các môn đệ.
Người Do Thái phản ứng ngay lập tức: “Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói ‘Các ngươi sẽ được tự do’?” Chúa Giêsu lặp lại và xác nhận sự khác biệt giữa người con và người nô lệ mà nói rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự.”
Chúa Giêsu là người con và ở mãi trong nhà Chúa Cha. Kẻ nô lệ thì không ở trong nhà Chúa Cha. Sống ở ngoài nhà, ngoài nhà của Thiên Chúa có nghĩa là sống trong tội lỗi. Nếu họ chấp nhận lời của Chúa Giêsu thì họ có thể trở thành con cái và được tự do thực sự. Họ sẽ không còn là nô lệ nữa. Và Chúa Giêsu nói tiếp: “Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi.” Sự khác biệt thì rất rõ ràng ngay tức thì: “Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi”. Chúa Giêsu không cho họ quyền nói rằng họ là con cái của Abraham, bởi vì các hành động của họ khẳng định điều trái ngược.
Những người Do thái cố chấp, chỉ tìm cách giết Đức Giêsu (cc. 37, 40). Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40). Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân. Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự. Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp hòi mà tự sức mình không sao thoát ra được. Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như Ngài.
“Giả như các ông là con cái ông Abraham, hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39). Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42). Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên Chúa. Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.
Chúa Giêsu lặp đi lặp lại cùng một sự thật nhưng dùng nhiều chữ khác nhau: “Bất cứ ai đến từ Thiên Chúa thì lắng nghe lời của Thiên Chúa”. Nguồn gốc của lời khẳng định này là từ tiên tri Giêrêmia, người đã nói rằng: “Ở trong chúng, Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31:33-34). Nhưng họ sẽ không mở lòng mình ra để trải qua kinh nghiệm mới này về Thiên Chúa, và bởi vì điều này, họ sẽ không nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đã được Chúa Cha sai đến.
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng đã tuyên xưng từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng, để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận. Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta để chúng ta mãi luôn vững tin vào Chúa.
2020
Bức hoạ tình yêu
Bức hoạ tình yêu
Vậy mỗi chúng ta tự hỏi: Tôi đang đóng vai nào trong bức họa này: Cảm thương người phụ nữ ư? Giương cánh tay hầm hầm sát khí đả đảo cùng nhóm đòi kết án? Hay mặc lấy tâm tình của Vị Thẩm Phán đầy xót thương, tìm cách cứu người sắp bị ném đá khỏi bàn tay của những kẻ ác độc?
Thánh Âu-tinh một đời khắc khoải về chữ yêu đã mách nước rằng: Bạn cứ yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm. Quả thực, tình yêu sẽ giải mã tất cả, cho ta giải pháp, sáng kiến, gia vị chữa lành và tha thứ. Tình yêu cho thấy im lặng là vàng, khôn ngoan làm nên sức mạnh. Tình yêu sẽ làm cho cách xử lý tinh tế và hữu hiệu hơn…
Ở đây, sự khôn ngoan tinh tế đã làm cho câu chuyện trở nên thú vị, giàu kịch tính. Bên khởi tố cứ tưởng ngon ăn, chờ cho đối phương bị sập bẫy vào tròng, cùng lắm thì đợi đến phút bù giờ ‘90+1’ sẽ đồng loạt nổ pháo ăn mừng… Ai dè, ở bên kia sự đối kháng, vị Thẩm Phán lại cứ điềm đạm suy tư, tưởng là bị động bế tắc trong “ván cờ” quyết định, lại trở nên “diệu kế cao cờ”. Ngài cứ từ từ viết trên đất, rồi khi giờ vàng đã đến thì buông lời: “Ai trong các ông sạch tội, thì hãy nắm đá người này trước đi”. Thế là gậy ông đập lưng ông, chẳng ai bảo ai, từ già đến trẻ, từ lớn đến bé, cứ lẳng lặng bỏ đi. Chỉ còn Đức Giêsu và người phụ nữ kia vẫn cúi mình tái tê cõi lòng chờ chết, lại bừng sáng bởi lời tình yêu đã giải hóa tất cả:”Ta cũng không kết chị đâu…”
Đây chính là điểm sáng nhất, đẹp nhất, sống động nhất trong bức họa tình yêu này. Chị sẽ khắc cốt ghi tâm ánh mắt tha thứ xót thương; để rồi từ rầy trở đi, chị không ngừng biến đổi và họa lại bức tranh Tình Yêu ấy trong cuộc đời.
Đó là bức họa mà chúng ta cần nỗ lực chấm phá khi Mùa Chay đang gần khép lại. Nét chấm phá mang đậm gam màu tình yêu và sự sống, hòa quyện với đường nét thật sâu “tiếng gọi từ phía bên trong”, của lời vàng ngọc, ý khôn ngoan; lại có những nét chấm phá tan đi những định kiến, chụp mũ, đòi xét đoán “thay trời hành đạo”. Và ẩn tàng trong bức tranh ấy cho ta sự khiêm hạ cần có rằng: trước mặt Thiên Chúa, dù có thánh thiện đến đâu đi chăng nữa, tôi vẫn chỉ là tội nhân tròn trĩnh không hơn không kém. Trong cái nhìn của chiều sâu tâm linh, biết “mèo nào cắn mèo nào, biết ai hơn ai, ai biết tình ai có đậm đà?” Có như thế, tôi và bạn mới trở nên đẹp đẽ dễ thương trong cái nhìn của Thiên Chúa, để được ban tặng món quà vô giá cho những kẻ Chúa yêu.
Lm. Giuse Phạm Văn Quang
2020
Thập giá và chọn lựa của người Kitô hữu
Thứ Ba tuần V MC
Ga 8, 21-30
THẬP GIÁ VÀ SỰ CHỌN LỰA CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU
Trong sa mạc Dân Do thái đã nổi loạn chống lại Môsê và xúc phạm đến Thiên Chúa. Chẳng những họ đã vô ơn, không nhận biết ơn huệ Chúa cứu họ ra khỏi Ai cập mà còn phiền trách Người. Việc một số người phản loạn bị rắn độc cắn làm cho họ thức tỉnh về lỗi phạm của mình và nài xin lòng thương xót thứ tha của Chúa. Hình ảnh con rắn đồng được treo lên để cứu chữa những người phản loạn này tiên báo cái chết của Chúa trên thập giá mang lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Chúa Giêsu đã tự mạc khải Ngài là Đấng Hằng Hữu, nhưng Ngài chỉ được người ta nhận biết như thế trong cuộc tử nạn: “khi các ông giương cao Con Người lên.” Con rắn bằng đồng được Mô-sê giương cao lên trong sa mạc là dấu hiệu chữa lành cho những người bị rắn cắn (Ds 21,4-9). Chúa Giêsu nhận hình ảnh đó ứng nghiệm vào mình để nói lên rằng Ngài nhất thiết phải chịu tử nạn mới thi triển được hết mức quyền năng cứu độ của Thiên Chúa và mới có thể triệt tận căn nọc độc của tội lỗi. Nếu như chỉ trên cây thập giá Chúa Giêsu mới tỏ mình ra là Con Thiên Chúa, thì cũng chỉ khi nhìn lên Đấng chịu đóng đinh trên thập giá, con người mới được ơn cứu độ.
Chúa Giêsu là Đấng Hằng Hữu thật: không chỉ là ‘bất diệt’, là ‘muôn năm’, mà còn là ‘vô thủy vô chung’ và là nguồn tác sinh vạn vật. Nói tóm, Ngài thật là Thiên Chúa. Điều quan trọng là nguồn gốc thần linh của Ngài không chỉ liên hệ đến Ngài mà đến cả sự tồn vong của mọi người chúng ta: có nhìn nhận và tin điều đó, chúng ta mới được cứu độ. Hơn nữa, nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu chỉ tỏ hiện rõ ràng nhất nơi biến cố thập giá: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu”.
Tin Mừng hôm nay thánh Gioan nhắc lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái. Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết rằng: Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu đóng đinh và chết trên Thập Giá để giao hòa con người với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu nói việc ra đi của mình và nói rằng sẽ đi đến nơi mà người Biệt Phái không thể tới được. “Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông”. Họ sẽ đi tìm Chúa Giêsu, nhưng sẽ không tìm thấy Người, bởi vì họ không biết Người và sẽ đi tìm Người với các tiêu chuẩn sai lệch. Họ sống trong tội lỗi và sẽ chết trong tội lỗi. Sống trong tội lỗi là sống xa rời Thiên Chúa. Họ tưởng tượng Thiên Chúa theo một cách nào đó, nhưng Thiên Chúa thì khác với những gì họ tưởng tượng. Đây là lý do mà họ không thể nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Giêsu.
Người Biệt Phái đã không hiểu rằng Chúa Giêsu, trong mọi điều Người nói và làm, là sự biểu hiện của Chúa Cha. Họ sẽ hiểu được điều ấy chỉ sau khi Con Người bị đưa lên cao. “Khi ấy các ông sẽ biết TA là ai”. Từ ngữ ‘được đưa lên’ có nghĩa kép, bị treo lên trên Thập Giá và được nâng lên bên hữu Chúa Cha. Tin Mừng về cái chết và sự sống lại mặc khải Chúa Giêsu là ai, và họ sẽ biết rằng Chúa Giêsu là sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Nền tảng của điều chắc chắn này của đức tin chúng ta có hai mặt: một mặt, điều chắc chắn rằng Chúa Cha luôn ở với Chúa Giêsu và Người không bao giờ một mình, và mặt khác, sự vâng phục triệt để và hoàn toàn của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha, trở thành một sự cởi mở hoàn toàn và minh bạch toàn diện của Chúa Cha đối với chúng ta.
Như vậy, khi mạc khải chính mình cho con người, Chúa Giêsu Kitô cũng đồng thời mạc khải mối tương quan chặt chẽ giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Tin nhận Chúa Giêsu thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa Cha, Ðấng đã sai Con Một Mình là Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian làm người. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Ðây là một mầu nhiệm đáng được con người chiêm ngưỡng và dâng lời chúc tụng hơn là chối từ bắt bẻ
Trong kế hoạch yêu thương nhiệm mầu, Thiên Chúa đã chọn cứu độ con người bằng con đường đau khổ. Cái chết đau thương của Con Thiên Chúa trên Thập giá mang lại ơn chữa lành và tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Để đón nhận ơn cứu độ, mỗi người cần khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi của mình và thành tâm xin lòng thương xót Chúa.
Thập giá của Chúa Giêsu mãi mãi vẫn còn thách đố cách suy nghĩ và cách chọn lựa của chúng ta trong cuộc sống. Sắp cử hành cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi nhìn thấy Đấng bị treo trên thập giá ấy là Thiên Chúa, để xác tín hơn về con đường cứu độ mà Người đã chọn. Con đường thập giá ấy cũng phải là con đường của chúng ta. Sự chọn lựa này càng không dễ trong thế giới hưởng thụ, buông thả ngày nay. Liên kết với Đấng Thiên Chúa bị đóng đinh, những thập giá hằng ngày của chúng ta sẽ nở hoa sự sống bất diệt!