2020
Một Tình Yêu Còn Bị Bội Phản
Thứ Ba Tuần Thánh Mùa Coronavirus
Một Tình Yêu Còn Bị Bội Phản
Thật khó tưởng tượng một người như Đức Giêsu lại có những giờ phút xao xuyến như khi Người đứng trước mồ Ladaro (Ga 11,33), lời báo về kẻ phản bội trong bữa tiệc ly ở đây và lúc cầu nguyện trong vườn dầu (x.Lc 22,44)
Đức Giêsu xao xuyến vì đã thấy viễn cảnh Giuđa sẽ nộp Người, Phêrô sẽ chối Thầy và các môn đệ khác sẽ bỏ trốn (x. Mt 26, 56)
Xao xuyến là sự chao đảo của tâm hồn, là sự rung động mãnh liệt của những cảm xúc trước một điều gì quan trọng sắp xảy ra. Sự điềm tĩnh của Đức Giêsu trước mọi biến cố, nghịch cảnh, mọi nỗi đau của con người không phải vì Người vô cảm. Trái lại, Người cũng có một trái tim như chúng ta, cũng bồi hồi, thổn thức và xót thương, cũng lo lắng, âu sầu và xao xuyến (x.Mt 26,37b)
Mang trong mình một trái tim loài người, Đức Giêsu dùng trái tim ấy để yêu thương các môn đệ, với Giuđa, bằng một tình yêu cao cả diệu vợi của Thiên Chúa. Tâm hồn Đức Giêsu xao xuyến vì không thể làm được gì hơn để thay đổi lòng dạ của Giuđa, giữ ông lại trong tình thương của Người, chứ không phải vì thái độ giận dữ, cay đắng bởi Giuđa phản bội.
Giuđa có tự do và với sự tự do ấy, Giuđa quyết định chọn phản bội thày giữa bữa ăn cuối cùng thắm tình đậm nghĩa. Công bố điều kinh khủng, có một người trong nhóm sẽ nộp mình làm Đức Giêsu cảm thấy tâm thần bị chấn động, xao xuyến, các môn đệ khác ngỡ ngàng và bối rối, nhưng Giuđa thì hiểu.
Dù khéo léo che đậy dã tâm trong vở kịch hoàn hảo, Giuđa không thể dấu được sự nhạy bén tinh tế trong ánh mắt yêu thương của Thầy. Nhưng ông đã phớt lờ sự ưu ái ấy.
Sự bi thảm chính là đây, khi Đức Giêsu không tìm cách cứu mình, mà chỉ muốn cứu Giuđa khỏi việc bội phản ông sắp làm. Người thấy ông bình thản ăn hết miếng bánh Người trao như cạn tình tuyệt nghĩa, và Satan nhập vào ông. Ông đi ra, lúc đó trời đã tối.
Đức Giêsu thấy Giuđa lao mình vào trong cảnh tối tăm của đất trời như hòa trộn vào mầu nhiệm sự dữ cùng sự hả hê đắc thắng của Satan. Đó là sự bi thảm nhất của cuộc đời Đức Giêsu, lúc giờ của sự tội, của thế gian, của Satan chụp xuống trên Người, nhưng lạ thay, lúc Giuđa đã đi ra và khổ nạn chắc chắn sẽ đến, Đức Giêsu lại thấy đó là Giờ mà Người được tôn vinh, và Chúa Cha cũng được tôn vinh nơi Người.
Vì thế, Đức Giêsu bước vào cuộc thương khó trong tư thế chủ động của một Người Con hoàn toàn vâng lời và phó mình trong tay Chúa Cha. Các môn đệ sẽ thấy con đường Thầy đi, thấy điểm cuối con đường ấy, nhưng nơi Người đến, bây giờ họ không thể đến được.
Phêrô khẳng khái muốn đi theo Thầy dù phải bỏ mạng, nhưng Đức Giêsu trong tình thương mến, cho ông biết về con người thật của ông: ý chí thì mạnh mẽ nhưng hành vi lại yếu hèn. Dù vậy, Người vẫn quý mến bản chất trung thực và lòng mến của ông đối với Người.
Báo trước sự vấp ngã của Phêrô, Đức Giêsu không có ý làm tổn thương ông, nhưng cho thấy không những Người biết rõ về ông, mà còn biết rõ con người ông sẽ trở thành.
Chưa bao giờ người Kitô hữu có kinh nghiệm về sự bấp bênh của sự sống mình vào thời điểm đại dịch coronavirus này. Đây là thời điểm để chúng ta thấy những thứ an toàn giả tạo trước đây chúng ta đeo đuổi, tìm kiếm tan rã, ngay cả việc thờ phượng bàm víu vào hình thức, vụ luật và khoe khoang, cả sự ngoan cố cứng lòng chối từ thập giá bước theo Chúa Kitô.
Hôm nay, không có nhiều chọn lựa, mọi người đều “bình đẳng”, mọi sự đều “như nhau”, không thánh lễ, không các bí tích, chỉ còn kinh nguyện đượm thấm tình yêu mến chứng tỏ chúng ta là ai, tình yêu chúng ta dành cho ai? và Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn của Người là gì đối với mỗi người ?
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Ta là ai trong các nhân vật Tin Mừng hôm nay
6.4 Thứ hai
Ga 12, 1-11
TA LÀ AI TRONG CÁC NHÂN VẬT TRONG TIN MỪNG HÔM NAY
Chúng ta đã tiến vào Tuần Thánh, tuần lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu, về việc Người phải bỏ thế gian này mà về với Chúa Cha.
Phần Phụng Vụ hôm nay đặt trước chúng ta đoạn mở đầu chương 12 của Tin Mừng theo thánh Gioan, được dùng như là một nối kết giữa Sách các Dấu Lạ và Sách của sự Tôn Vinh. Tại cuối của “Sách các Dấu Lạ” thấy có xuất hiện, rất rõ ràng sự căng thẳng giữa Chúa Giêsu và các chức sắc tôn giáo đương thời (Ga 10, 19-21, 39) và sự nguy hiểm mà Chúa Giêsu đang phải đối mặt. Nhiều lần họ đã cố gắng giết Chúa đến nỗi mà hầu như Chúa Giêsu phải sống một cuộc sống bí mật, bởi vì Người có thể bị bắt bất cứ lúc nào.
Trong 3 ngày đầu Tuần Thánh, các bài đọc thứ nhất đều trích từ sách ngôn sứ Isaia, viết về người tôi tớ Thiên Chúa, chịu đau khổ một cách nhẫn nhục để chuộc tội loài người. Còn các bài Tin Mừng thì thuật lại những việc xảy ra trong những ngày cuối cùng trước khi Chúa Giêsu bước vào cuộc tử nạn.
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu được xức dầu tại Bêtania, “Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua,” tức là sáu ngày trước khi Ngài chết. Có 3 vai đáng chú ý:
Maria: Việc cô lấy một cân dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau biểu lộ lòng yêu mến (không tiếc tiền của), và sự kính trọng (lấy tóc lau chân) đối với Ngài. Phần Chúa Giêsu thì coi việc làm này có ý nghĩa cử hành trước nghi thức mai táng Ngài.
Đây là lần thứ hai Maria được tường thuật ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Một lần trong Tin Mừng Luca, cô được Chúa Giêsu khen, vì đã ngồi dưới dân Chúa để nghe lời Người trong khi cô chị Mácta bận rộn để phục vụ (Lc 10, 38-42). Lần này, cô tỏ bày tình yêu với Chúa Giêsu bằng cách lấy dầu thơm xức chân Chúa Giêsu. Cô xoã mái tóc mình ra mà lau, đây là điều cấm kỵ, không một phụ nữ Do Thái nào dám làm ở nơi đông người. Maria không bận tâm người ta nghĩ gì, nói gì. Cô chỉ chú tâm vào Đức Giêsu, chỉ muốn diễn tả lòng quý mến với Ngài. Maria đổ nguyên cả bình dầu thơm mà không tính toán, cũng chẳng tiếc nuối, vì cô muốn dành cho Đức Giêsu những gì quý giá nhất của mình. Sự hào phóng, cho đi mà không tính toán, so đo, đó chính là dấu hiệu của tình yêu thật sự.
Ta thấy hành động của cô Maria lấy dầu thơm xức chân Chúa Giêsu, được chính Ngài công nhận là một hành động mang tính ngôn sứ: “Dầu thơm này có ý dành cho ngày mai táng Thầy.” Dù trước mặt mọi người, hành động của Maria có vẻ khó hiểu, nhưng đối với cô điều đó không quan trọng, bởi vì cô đã hành động theo sự thúc đẩy của tình yêu dành cho Đức Kitô. Chính tình yêu giúp cô đồng cảm sâu xa với Ngài; và ngay từ lúc này, cô đã cùng Đức Kitô đi vào cuộc khổ nạn với Ngài.
Có lẽ, Maria đã làm với một tấm lòng yêu mến, đáp trả lại tình yêu thương của Chúa “Tình yêu, đáp đền tình yêu”. Bởi gia đình cô thật diễm phúc được Chúa viếng thăm, em cô vừa được Ngài cho sống lại từ cõi chết (Ga 11, 1-44) và chính cô được Chúa đưa ra khỏi cái quá khứ đen tối, đầy tội lỗi. Chứ Maria cũng không hiểu thấu tâm trạng Chúa lúc này, Ngài đang xao xuyến trong tâm hồn biết chừng nào?
Trái ngược với Maria là một Giuđa Iscariot luôn tính toán và phê bình: Thấy hành động của cô, ông liền nói: “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?”. Ông để lộ chân tướng hẹp hòi, ích kỷ của mình. Ông bực tức, phản đối hành động của cô Maria. Ông che đậy lòng tham của mình, viện cớ để số tiền ấy giúp người nghèo nhưng thực chất là để thỏa lòng ham tiền, hám lợi của chính mình. Ông theo Chúa nhưng lòng trí ở xa Chúa.
Thánh Sử chú giải rằng Giuđa không hề lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà hắn ta là một tên trộm cắp. Họ có một cái quỹ chung và hắn ta đã bớt xén tiền ở trong đó. Một lời lên án mạnh mẽ về Giuđa. Lời lên án không phải vì y không quan tâm đến người nghèo khó, mà là sự đạo đức giả lợi dụng người nghèo khó để tự quảng cáo và làm giàu cho chính mình. Giuđa, trong lợi ích vị kỷ của hắn ta, chỉ nghĩ về tiền bạc. Đây là lý do tại sao hắn ta đã không nhận thức được những gì bà Maria đang nghĩ ở trong lòng. Chúa Giêsu đọc được điều này và bênh vực bà Maria.
Giuđa người môn đệ cùng ở với Chúa. Hàng ngày đồng bàn với Ngài. Nhưng không đồng lòng với Ngài, không đón nhận lời yêu thương từ nơi Ngài. nên chẳng những ông không nhìn thấy nỗi lo lắng thẳm sâu trong lòng Chúa để đồng cảm, yêu thương. Trái lại, ông chỉ thấy tiếc xót bình dầu và trách cứ Maria đã phung phí (Ga 12, 5). Tiền bạc đã làm ông mù quáng, đã dẫn ông đến chỗ phản bội Thầy sau này (Ga 12, 4)
Và nhìn lại Giuđa, lời ông chỉ trích Maria phí của biểu lộ lòng tham tiền của ông. Đối với Giuđa lúc này, tiền của còn quý hơn tình nghĩa đối với Chúa Giêsu. Chính vì thế thánh Gioan là người vốn tế nhị mà hôm nay còn nói: “Y nói thế không phải vì lo cho người nghèo mà vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những thứ gì người ta bỏ vào quỹ chung.”
Các Thượng tế: Họ “quyết định giết luôn cả Ladarô nữa, vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ họ và tin vào Chúa Giêsu.” Rõ ràng họ đang bị tính ghen ghét xui khiến. Nếu họ có nói lý do giết Chúa Giêsu là gì đi nữa thì việc họ muốn giết Ladarô rõ ràng là vì uy tín của Chúa Giêsu vượt hơn uy tín của họ.
“Người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh, còn Thầy thì anh em chẳng có mãi đâu.” Phục vụ Chúa và phục vụ tha nhân đều là hai việc tốt. Tuy nhiên Chúa dạy ta hai điều: Phải biết cân nhắc khi nào thì ưu tiên cho việc nào; Đừng viện cớ phục vụ tha nhân mà bỏ bổn phận phục vụ Chúa.
Đám đông và chính quyền. Là bạn của Chúa Giêsu có thể bị nguy hại. Ông Lagiarô có nguy cơ bị tử vong vì đời sống mới nhận được từ Chúa Giêsu. Người Do Thái đã quyết định ra tay giết ông. Lagiarô còn sống là một bằng chứng sống động rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Đây là lý do tại sao đám đông đang lùng kiếm ông, bởi vì người ta muốn thử nghiệm chặt chẽ bằng chứng sống động về quyền năng của Chúa Giêsu. Một cộng đoàn sống động có nguy cơ bị tiêu diệt bởi vì nó là bằng chứng sống của Tin Mừng Thiên Chúa!
Dành những phút thinh lặng, đặt mình vào vị trí của Mácta, Maria, Ladarô, Giuđa… để chiêm ngắm Chúa Giêsu những ngày trước lúc Ngài chịu khổ hình… và xin ơn được đồng cảm với Chúa để biết hành động sao cho đẹp lòng Chúa.
2020
Chết thay cho người mình yêu
CHẾT THAY CHO NGƯỜI MÌNH YÊU
Ga 11, 45-56
Trang Tin Mừng hôm nay cho thấy các Thượng hội đồng Do Thái đã “quyết định giết Chúa Giêsu” thể theo lời khuyến cáo mang tính tiên tri của thượng tế Caipha: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.” Đối với họ, đó là cách giải quyết gọn nhất, ít hao tổn xương máu nhất. Thế nhưng, trong cái nhìn của Thánh Gioan, thì cái chết của Đức Giêsu là một đảm bảo ơn cứu độ cho toàn dân Israen và cũng “để quy tụ con cái của Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.”
Lời tiên tri của Thượng tế Caipha đã được ứng nghiệm: “Đức Giêsu sắp phải chết thay cho dân và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,51-52). Chúa Giêsu chết thay cho tất cả chúng ta: cho người nam cũng như cho người nữ, người già lẫn người trẻ, người giàu cũng như kẻ nghèo, người công chính cũng như kẻ tội lỗi. Người chết thay cho tôi và cho bạn.
Chính nhờ cây thập giá, Chúa Giêsu tẩy rửa sạch mọi tội lỗi của chúng ta. “Tội lỗi của chúng ta chính Người mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi chết với tội, chúng ta được nên công chính. Vì Người phải mang thương tích mà anh em đã được chữa lành” (1Pr 2, 24). Qua thập giá, Chúa Giêsu quy tụ nhân loại về tôn thờ Thiên Chúa duy nhất.
Những người Do Thái không tin đã nhìn nhận những hành động của Chúa Giêsu trong một lăng kính phàm trần, đầy màu sắc chính trị. Họ đã thắc mắc: Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì Người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta cứ để Người như thế này thì mọi người sẽ tin theo và quân đội Rôma sẽ kéo đến phá hủy nơi này và dân tộc ta”. Chúng ta lưu ý lối lý luận lộn xộn của người Do Thái không tin rằng: “Nếu dân chúng tin Thiên Chúa thì quân đội Rôma sẽ kéo đến phá hủy thành Giêrusalem và dân tộc Do Thái”.
Dân chúng tin theo Chúa là việc thuộc lãnh vực tôn giáo, còn quân đội Rôma đến phá hủy là việc chính trị. Vậy làm sao việc tôn giáo có thể kéo theo hậu quả của việc chính trị như vậy được? Nhà cầm quyền Rôma thời đó cho người Do Thái được tự do hành đạo, mà quan Philatô đâu có muốn kết án tử hình Chúa Giêsu vì lý do tôn giáo, vì những tranh tụng tôn giáo giữa Chúa và những vị lãnh đạo của dân chúng đối chất. Trước mặt quan Philatô, họ phải tố cáo Chúa Giêsu về một tội chính trị, đó là xúi dân làm loạn, không nộp thuế cho Xêsarê.
Với tình yêu Chúa, người Kitô hữu có thể hiến mạng sống mình cho anh chị em. Ðó là một hành động của tình thương và nó sẽ khơi dậy những chuỗi tình thương tiếp nối. Chúa Giêsu Kitô đã trải qua kinh nghiệm này. Những người Do Thái không tin vào Chúa Giêsu, muốn bắt Chúa phải chết thay để người Roma không đến hủy diệt dân tộc Do Thái.
Thế nhưng rồi ta thấy trong chương trình cứu rỗi nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu chấp nhận tự hiến, chịu chết thay để mọi người được sống và được sống đời đời. Tin Mừng hôm nay nhắc lại cảnh đời trớ trêu của Chúa như sau: “Quí vị không nghĩ rằng, thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt”.
Chúa đã sống trọn kiếp người ba chìm bảy nổi và đầy sóng gió nguy nan. Chúa đã trải qua những năm tháng hồn nhiên của tuổi thơ. Chúa âm thầm sống theo từng lứa tuổi để yêu thương và cảm thông với chúng con. Cuộc đời Chúa không thiếu những lời khen và cũng không ít những lời chê. Chúa đã từng làm ơn để rồi bị mắc oán. Chúa cũng cảm nghiệm nỗi đau của sự vong ân bội nghĩa của tha nhân. Nhưng Chúa đã vượt qua tất cả nhờ sự vâng phục thánh ý Chúa Cha.
Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người tín hữu chết thay cho anh em mình khi hi sinh thời gian, sức khỏe, tiền bạc để giúp đỡ những con người đau khổ, bệnh tật. Trong mỗi gia đình, mỗi người sống là hiện thân của Chúa Giêsu. Chồng chết thay cho vợ khi biết khước từ những lời mời gọi xấu xa: nhậu nhẹt, cờ bạc… Vợ chết thay cho chồng khi từ bỏ một tật xấu, tập tính dịu dàng, nết na, nhân hậu… Bố mẹ chết thay cho con cái khi biết yêu thương, dạy dỗ và lắng nghe trong sự chân thành và cởi mở… Con cái chết thay cho bố mẹ khi cố gắng học hành chăm chỉ, vâng lời và hiếu kính với những bậc sinh thành… trong đời sống cá nhân, mỗi người cố từ bỏ những tính hư tật xấu: kiêu ngạo, ganh ghét, lười biếng, tham lam, nói hành nói xấu… Có như thế, thập giá của Chúa Giêsu mới trở nên hữu ích là đem lại nguồn ơn cứu độ cho chúng ta.
2020
Mở lòng đón Chúa
Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay
Gr 20, 10-13; Ga 10, 31-42
MỞ LÒNG ĐÓN CHÚA
Trước thảm họa là khổ đau và tội lỗi, Chúa Giêsu đã được Đức Chúa Cha sai đến trên trần gian làm người cứu chữa và đem lại sự sống mới cho nhân loại. Chúa Giêsu ý thức rất rõ sứ mệnh với tất cả những gì mà Ngài phải gánh chịu Ngài đón nhận với tất cả tâm tình yêu mến, phó thác toàn thân cho Chúa Cha, hoàn toàn để cho Chúa Cha hành động và hoàn tất kế hoạch cứu rỗi của Ngài.
Ðây là lần thứ hai những người Do Thái muốn ném đá Chúa Giêsu vì Người xưng mình là Con Thiên Chúa. Sự xung khắc giữa hai bên, một bên vì sự thật, bên kia vì mê muội, càng ngày càng gia tăng. Chúa Giêsu cương quyết thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Người bất chấp mọi nguy hiểm, kể cả nguy cơ bị giết chết. Người Do Thái cũng nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu vì họ cho Người phạm thượng. Cuộc đối kháng sẽ đi đến cao trào vào ngày lễ Lá khi Chúa Giêsu công khai vào thành Giêrusalem với tư cách là Ðấng Mêsia. Về phía các đối thủ của Chúa Giêsu, họ cũng lập một kế hoạch để trừ khử Người.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa độc nhất vô nhị. Ngài là Con Một hằng ở nơi cung lòng Cha (Ga 1, 18), đầy tràn ân sủng và sự thật (Ga 1, 14). Người Con Một ấy đã trở thành người phàm mang tên Giêsu (c. 33), trở thành quà tặng cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại. Đức Giêsu gắn bó với Chúa Cha đến nỗi Ngài có thể nói : “Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (c. 38). Hơn nữa, Ngài còn dám nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (c. 30). Con và Cha hiệp nhất làm một với nhau, Người được sai kết hiệp làm một với Đấng sai mình. Con không tự mình làm điều gì, không làm theo cách của mình, Con luôn sống như người được Cha sai. Đây không phải chỉ là sự hiệp nhất trong công việc, mà còn là sự hiệp nhất sâu thẳm giữa hai ngôi vị thần linh.
Chúa Giêsu đã làm nhiều việc tốt đẹp (c. 32). Các việc này không phải là việc của Ngài, mà là việc của Cha Ngài (c. 37). Suốt đời Đức Giêsu chỉ tận tụy với việc của Cha. Trên thập giá, trước khi lìa đời, Ngài nói: “Thế là đã hoàn tất” (Ga 19,30). Ngài đã vuông tròn mọi việc Cha giao. Những việc tốt đẹp này là một lời chứng hùng hồn cho con người của Ngài: “Nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó” (c. 38). Tin vào việc làm dẫn đến tin vào con người.
“Tôi là người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian” (c. 36). Thiên Chúa Cha đã thánh hiến Chúa Con để Ngài thi hành sứ mạng. Chúng ta cũng là những người được thánh hiến qua bí tích Thánh Tẩy, được sai vào thế giới này để chia sẻ sứ mạng còn dang dở của Chúa Giêsu. Chúng ta còn nhiều điều tốt đẹp phải làm cho cuộc đời này trước khi có thể nói như Chúa: “Thế là đã hoàn tất”.
Trang Tin Mừng hôm nay, người Do Thái khăng khăng buộc tội Chúa Giêsu, họ cho rằng Người đã nói phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa. Họ không thèm đếm xỉa đến những việc tốt lành Chúa Giêsu đã thực hiện, cũng không thèm nghe những lời người khác làm chứng về Chúa Giêsu để xét xem Người có phải là Ðấng Mêsia hay không? Càng đối chất với Chúa Giêsu, họ càng trở nên ương ngạnh, ngoan cố.
Vì tự cao tự đại cũng như tự ái và để bảo vệ tư lợi, họ không còn quan tâm đến tính cách khách quan của sự kiện, đầu óc họ bây giờ chỉ còn một ý nghĩ duy nhất chiếm ngự đó là phải khử trừ Chúa Giêsu bằng bất cứ giá nào. Sự giận dữ nung đốt lòng họ, biến họ thành những kẻ gian ác, như hình ảnh những tá điền hung dữ mà Chúa Giêsu đã mô tả trong các dụ ngôn Người giảng dạy trước đây.
Người xưa có nói: “Giận mất khôn”, người Do Thái vì giận Chúa nên không còn kể gì sự khôn ngoan hay rồ dại nữa. Ðã biết bao lần Chúa Giêsu nhắc đến Chúa Cha. Người cố tình nhắc đi nhắc lại nhiều lần để mong họ thức tỉnh mà suy xét lại. Biết họ giận dữ, Người vẫn tiếp tục nói, không phải Chúa muốn chọc giận họ mà là muốn họ ăn năn sám hối và được cứu rỗi. Sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho Người, Người phải thi hành đến cùng. Chúa Giêsu càng thiết tha giảng dạy cho họ, họ càng tức điên lên, Chúa Giêsu càng nói họ càng tức giận và cuối cùng, không dằn được cơn giận họ đành tóm lấy Chúa Giêsu để trừng trị cho hả dạ. May thay, Chúa Giêsu đã lánh ra khỏi chỗ họ mà đi sang bên kia sông Giordan.
Khung cảnh bên kia sông Giordan lắng dịu và khách quan hơn, ở đó có nhiều người đến với Chúa Giêsu, những người này là những người thành tâm thiện chí, họ muốn tìm ra sự thật về vị Thầy Giêsu mà dân chúng xôn xao bàn tán bấy lâu. Dư luận nói tốt về Người cũng có, mà dư luận nói xấu về Người cũng chẳng thiếu, họ bình tâm đứng giữa hai luồng dư luận và để tìm hiểu những lời ông Gioan đã nói về Chúa Giêsu, họ tin vào sự chân thật của ông Gioan, bởi ông được mọi người công nhận là một ngôn sứ đích thực.
Thánh Gioan đã nói nhiều điều về Chúa Giêsu, và những điều đó đã xảy ra đúng như lời ông nói. Lời chứng của một người chân thật thì phải là một sự thật, thế thì chắc chắn Chúa Giêsu phải là Ðấng Mêsia mà Kinh Thánh đã từng tiên báo. Dù có nhiều điều họ chưa hiểu tường tận, nhưng dựa vào lời chứng của Gioan, họ đã tin vào lời Chúa Giêsu và họ đã tìm đến với Người. Tấm lòng rộng mở của họ đã dẫn họ đến với sự thật.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết mở rộng để đón Chúa vào trong tâm hồn của mình, đón sự thật của Chúa bởi lẽ sự thật sẽ giải thoát anh em.