2020
Câu hỏi của Chúa – Đáp án của ta
CÂU HỎI CỦA CHÚA – ĐÁP ÁN CỦA TA
“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” phải chăng là mấu chốt, là đỉnh cao của Lời Chúa ngày hôm nay với chúng ta.
Đọc và suy niệm Tin Mừng, ta thấy truyền thống Tin Mừng rõ ràng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt cho phép lạ hóa bánh ra nhiều, bởi vì đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đàng khác, bài tường thuật về biến cố này chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong mỗi Tin Mừng: có thể nói bài này là một đỉnh cao trong chương trình của Chúa Giêsu nhằm bày tỏ quyền năng thiên sai của Người và cũng là khoảnh khắc các thính giả phải quyết định tin vào Người. Riêng trong Tin mừng thứ 4, chương 6 là một tổng hợp sứ vụ của Chúa Giêsu tại Galilê, là một trong những mạc khải sâu sắc nhất về Chúa Giêsu và cho thấy cách rõ nét nhất chọn lựa đức tin mà con người phải thực hiện là như thế nào.
Thế nhưng rồi khi nhìn vào chi tiết, ta thấy bản văn của Thánh Gioan khác với các bản văn Nhất Lãm ở nhiều điểm.
Trong các Tin mừng Nhất Lãm, ta thấy các tông đồ lưu ý Chúa Giêsu rằng đám đông không có gì ăn cả. Còn ở đây sáng kiến lại phát xuất từ Chúa Giêsu: “Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (c. 6).
Trong các Tin mừng Nhất Lãm, các tông đồ chỉ được nhắc đến như một nhóm; ở đây, ta có Philípphê, rồi Anrê. Chúa Giêsu hỏi Philípphê một câu đơn giản: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5).
Rồi trong một lời bình luận riêng (c. 6), Thánh Gioan giải thích rằng Chúa Giêsu hỏi vậy không phải là ngẫu nhiên. Câu hỏi được nêu ra là để thử Philípphê về đức tin của ông, còn Người thì Người biết Người sắp làm gì. Động từ này khiến ta nhớ tới biến cố Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa “thử” dân Ngài: Rõ ràng tác giả giải thích truyền thống Chúa Giêsu nuôi đám đông dưới ánh sáng của truyền thống Kinh Thánh nói về Đức Chúa ban man-na cho dân Ngài ăn trong thời Xuất Hành (Ga 6, 25-40).
Mẩu đối thoại với Philípphê cho thấy thật rõ là con người không có khả năng hiểu được và giải quyết được vấn đề. Riêng Chúa Giêsu thì đang làm chủ tình thế (như ở các dịp khác: 10,18; 11,6-15; 13,1; 18,4; 19,28). Nếu câu hỏi được đặt ra cho Philípphê thì chắc là vì các sự việc đã xảy ra như thế. Còn nếu Philípphê và Anrê được nhắc tới đích danh ở đây hẳn là vì các ông là người Bétxaiđa, tức thuộc vùng Biển Hồ, nơi Chúa Giêsu đang hiện diện, nên các ông biết rõ là vào lúc này, khó mong tìm được lương thực ở vùng này.
Sự can thiệp của Anrê cũng cho ta thấy rằng hoàn cảnh này không có lối thoát về phương diện con người; như vậy, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngoài ra, có nhiều chi tiết nhắc lại Cựu Ước: từ ngữ “em bé” và cụm từ “năm chiếc bánh lúa mạch” đưa ta trở về với 2 V 4,42-44: Êlisa hóa bánh ra nhiều; “cá nhỏ”nhắc đến Ds 11,22: nêu bật sự yếu đuối của loài người và quyền năng của Thiên Chúa.
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, các môn đệ phân phát bánh và cá; ở đây, chính Chúa Giêsu phân phát (c. 11).
Có nhiều chi tiết khiến bài tường thuật có một màu sắc Thánh Thể. Trước tiên, cử chỉ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và phân phát (c. 11) dường như gợi nhắc đến bữa tối cuối cùng.
Dừng lại một chút, ở đây ta thấy Thánh Gioan muốn gợi lại phép lạ man-na trong sa mạc cho đoàn dân bước đi dưới sự lãnh đạo của Môsê. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ là Môsê tái hiện, Người là Môsê chân chính cao trọng hơn Môsê ngày xưa. Trong sa mạc, người ta chỉ có thể lượm được lượng man-na cần thiết (Xh 16,4.16-18). Ở đây, lượng bánh được ban dồi dào: thu lại được mười hai thúng cũng dồi dào như lượng rượu tại Cana, nhằm chứng tỏ Chúa Giêsu là đích điểm của nỗi niềm chờ mong của Israel. Mười hai là con số hoàn hảo: phép lạ bánh nuôi no nê đám đông, có thể làm no thỏa các thế hệ sẽ đến.
Phép lạ bánh này còn nhắc nhớ đến việc Êlisa cho một đám đông ăn no, vì ở hai nơi đều có các bánh lúa mạch, em bé trai, vấn nạn về số lương thực quá ít so với nhu cầu, sự no nê lạ lùng. Như thế là sự nối tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Êlisa sang Chúa Giêsu, như từ hành trình đến đích điểm.
Lượt qua một số điểm then chốt của trang Tin Mừng, ta thấy rõ được 2 cung cách giữa 2 bên là Thiên Chúa và con người. Chúa Giêsu như thử hỏi khả năng của con người khi nói “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” nhưng Chúa biết việc Chúa sẽ làm. Còn phần ông Philípphê đáp : “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Phải chăng lời Philipphê nói khả năng thật của con người.
Ngày hôm qua cũng thế mà ngày hôm nay cũng vậy, khi nhìn vào thế giới, nhìn vào con người, có khi ta cảm thấy buông xuôi vì khả năng con người hạn hẹp. Không chỉ hạn hẹp mà thôi mà con người lại gặp một số người vô cảm.
Trước nạn dịch, mạnh người nào vun vén được thì người đó vun vén, người nào chia sẻ thì chia sẻ.
Hình ảnh những bao gạo và những thùng mì gói chở đến cây ATM gạo và ATM mì đối lập với băng nhóm người trục lợi dụng cụ y khoa vừa bị bắt. Còn đó chưa nói đến những người làm khẩu trang giả, nước giả và thuốc giả.
Những hình ảnh đó làm cho chúng ta nao lòng vì lẽ chúng ta cũng là con người, chúng ta bị giằng co trước lối hành xử của những con người như thế trong cuộc đời. Thế nhưng rồi, chúng ta được mời gọi có niềm tin và sống niềm tin vào Chúa nhất là sống chia sẻ với anh chị em đồng loại.
Mỗi người chúng ta, hãy như là em nhỏ kia, hãy chia sẻ một chút bánh và một chút cá của chúng ta cho anh chị em đồng loại.
Bây giờ phải chăng là lúc thật cần và rất cần tấm lòng của chúng ta. Câu hỏi của Chúa dường như vẫn vang vọng bên tai của mỗi người chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta đáp trả như thế nào đó lại là phần của chúng ta.
2020
Sẻ chia cho người khác
SẺ CHIA CHO NGƯỜI KHÁC
Giống như Môsê xưa đã được Đức Chúa ban man-na nuôi dân Ít-ra-en trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc 40 năm về miền Đất Hứa, Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy Chúa Giêsu nhân bánh ra nhiều, ám chỉ việc Người sẽ Manna Mới là bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng đức tin của Israel Mới là Hội Thánh trên bước đường vượt qua sa mạc trần gian để về Đất Hứa Nước Trời đời sau.
Chắc chắn rằng, phép lạ “hóa bánh ra nhiều” là một sự kiện lịch sử. Bởi vì đây là sự kiện không chỉ được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm ghi lại, mà Tin Mừng thứ IV cũng đã tường thuật một cách rất chi tiết về địa danh, thời gian và những nhân vật cụ thể trong phép lạ này. Câu chuyện được xảy ra trên núi, gần bờ biển hồ Galilêa, nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng và chọn gọi bốn môn đệ đầu tiên.
Thời gian của sự kiện là gần dịp lễ vượt qua của người Do Thái, và đối tượng là dân chúng đi theo người rất đông chừng hơn năm ngàn người đàn ông. Hai môn đệ được nhắc đến trong sự kiện này là Philípphê và Anrê: một vị được Chúa Giêsu hỏi thử về việc lấy đâu đủ bánh cho dân ăn, một vị phát hiện ra một em bé mang mấy cái bánh và báo cáo với Chúa Giêsu.
Hành động của Chúa Giêsu trong sự kiện hóa bánh ra nhiều hôm nay, bao gồm cùng lúc hai công việc của Đấng Cứu Thế, là chữa lành và nuôi dưỡng dân Người. Cả hai đều nói lên lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa đối với con người, nhất là những người đau khổ, vì họ vừa mang lấy bệnh tật thể lý vừa mang nặng bệnh tật tâm linh, vừa đói khát của ăn vật chất vừa đói khát của nuôi linh hồn. Hành động yêu thương của Chúa được cụ thể qua việc ra tay chữa lành các bệnh tật cho dân, và đặc biệt chạnh lòng thương hoá bánh ra nhiều để nuôi dưỡng họ.
Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đông đảo dân chúng đến với mình… Chúa Giêsu chạnh lòng thương (cái đói vật chất cũng như tinh thần của con người). Chúng ta cũng được mời gọi “ngước mắt lên” để nhìn thấy hoàn cảnh của mọi người mà cảm thông với họ, chứ không phải ru rú cho mình mà bất biết với mọi người xung quanh đang cần đến chúng ta.
Chúa Giêsu không dùng quyền năng để hô biến đem của ăn từ đâu tới, nhưng Người muốn con người cộng tác dâng lên của ăn từ bàn tay lao động của con người (nghề trồng trọt – bánh; nghề đánh lưới – cá). Phép lạ xảy ra khi biết đem chia sẻ cho nhau và cùng ngồi xuống ăn chung với nhau, chứ phép lạ không thể xảy ra khi chúng ta giữ khư khư năm chiếc bánh và hai con cá để ăn một mình.
Mỗi khi chúng ta tham dự Thánh Lễ, tất cả cùng chia nhau một Tấm Bánh là Mình Chúa Kitô để chúng ta trở nên một thân thể với Người. Tất cả cùng tuyên xưng chung một niềm tin vào Thiên Chúa là Cha, bởi chúng ta cùng chịu một Phép Rửa bằng nước và Thánh Thần. Tất cả cùng là con Thiên Chúa, cùng được đón nhận một Tình Yêu Thương, cùng được hướng dẫn bằng Lời Chúa và cùng được chung hưởng niềm vui, hạnh phúc từ một Giao ước vĩnh cửu mà Thiên Chúa là Cha đã hứa ban cho tất cả chúng ta. Muốn có được sự hiệp nhất trong Giáo xứ – Cộng đoàn, mỗi người phải ra sức chu toàn trách nhiệm mà Thiên Chúa đã trao phó: ra sức củng cố Đức Tin cho nhau.
Đó là, chúng ta phải biết khuyến khích nhau học hỏi Lời Chúa, tìm hiểu về Chúa, để nhận ra Tình Thương của Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng phải khuyên nhủ nhau làm theo Lời Chúa dạy: làm lành lánh dữ ; biết bảo ban nhau siêng năng lãnh nhận Ơn Chúa ban qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, vì đó là Bí tích Tình Yêu, Bí tích qui tụ tất cả chúng ta trong Tình Yêu của Chúa, Bí tích củng cố Đức Tin cho mỗi chúng ta. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng làm như vậy, chắc chắn Đức Tin của Giáo xứ-Cộng đoàn sẽ được củng cố, sẽ vững mạnh hơn.
Ngày nay, chúng ta được chia sẻ từ một tấm bánh là Chúa Giêsu qua Bí tích Thánh Thể ; Chúa Giêsu nuôi dưỡng chúng ta không chỉ bằng Mình Người mà con bằng Lời Người, mỗi khi chúng ta tham dự Thánh Lễ. Đức Tin của chúng ta được củng cố nhờ của ăn mà Thiên Chúa ban cho là chính Con Một Ngài, để chúng ta sống xứng đáng là Con Thiên Chúa hơn. Điều này có nghĩa, chúng ta phải thể hiện Niềm Tin của mình bằng chính đời sống luôn hết sức làm theo Lời Chúa dạy, cố gắng chia sẻ, chăm lo cho những người khác.
Phép lạ vẫn đang diễn ra hằng ngày, nhưng để phép lạ có thể xảy ra, Chúa cần chúng ta đóng góp vào đó tấm lòng quảng đại, sẵn sàng sẻ chia một miếng bánh nhỏ dù mình đang túng đói, hay một lời nói thứ tha dù cơn giận đang bùng lên. Bạn hãy sẻ chia một chút vật chất cho một người nghèo túng hơn bạn, vì “một miếng khi đói bằng một gói khi no.” Hãy chia sẻ một chút tha thứ, thì gia đình, cộng đoàn sẽ được hiệp nhất yêu thương bền lâu. Hãy sẻ chia tấm bánh cuộc đời bạn để muôn người được ấm no và đầy tình người.
Nếu chúng ta làm như vậy, chúng ta cũng đang trở nên tấm bánh cho người khác. Vì chúng ta đã được chia sẻ từ một tấm bánh; vì chúng ta đã được chia sẻ từ một Đức Tin. Chính khi chúng ta biết chia sẻ cho nhau niềm Tin, chính khi chúng ta đến đón nhận sự chia sẻ từ một Tấm Bánh, Đức Tin của chúng ta lại càng vững mạnh, lòng yêu mến của chúng ta lại càng được mạnh mẽ hơn và chúng ta cũng được trở nên một với nhau.
2020
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta
Thiên Chúa và con người hoàn toàn khác nhau. Đơn giản nhất ta biết được đó là Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và con người là vật được tạo thành. Và rồi ta thấy Lời của Thiên Chúa chắc chắn khác lời của con người. Để chứng minh cho Lời khác nhau này, ta dễ tìm thấy nơi Is 55,9 : Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.
Đã từ lâu lắm rồi, từ tạo thiên lập địa, sau khi con người đánh mất tình nghĩa với Thiên Chúa thì Thiên Chúa vẫn giữ giao ước tình yêu với con người. Giao Ước Tình Yêu của Thiên Chúa được thực hiện nơi chính người Con chí ái của Cha.
Thiên Chúa đã nói với cha ông tự ngàn xưa về tình yêu của Ngài dành cho con người. Cụ thể nhất tình yêu ấy được diễn tả : nhưng trong ngày sau hết, Thiên Chúa nói với nhân loại qua Người Con.
Thật vậy, Người Con chính là dấu chỉ, là Lời mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Chúa Giêsu đến thế gian cũng chỉ là muốn nói, muốn bày tỏ cho con người rằng Thiên Chúa mãi mãi yêu thế gian và cứu thế gian. Điều quan trọng nhất và cốt lõi nhất đó là con người phải nghe và giữ lời Thiên Chúa.
Và điều này, ta lại thấy, lại khám phá nơi Đức Giêsu cách trọn hảo. Chúa Giêsu khi đến thế gian Ngài cũng làm theo những gì Cha nói chứ Ngài không làm theo ý của Ngài : “Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta”.
Vâng lời Thiên Chúa phải chăng đó là điều quan trọng nhất của cuộc đời những người tin vào Thiên Chúa. Ai nói mình tin Chúa mà không nghe lời Chúa phải chăng là người nói dối ? Nghiệt một nỗi là con người dễ chiều theo xu hướng nghe lời của người phàm hơn là nghe lời của Thiên Chúa. Đơn giản và dễ hiểu rằng lời Thiên Chúa thì đắng đót, lời Thiên Chúa sắc bén tựa gươm đao và như dao xuyên thấu lòng người.
Các tông đồ ngày xưa, ta nhìn vào cuộc đời của các ngài, ta thấy hơn một lần các ngài vấp ngã. Tông đồ trưởng Phêrô còn vấp ngã vì Thấy huống hồ chi là những con người nhỏ bé như chúng ta.
Ta thấy sau khi tin vào Thầy phục sinh, các tông đồ mạnh mẽ : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cv 5, 32).
Để nói lời này trước các quan chức thời đó không phải là điều đơn giản. Nói như vậy đồng nghĩa với chuyện rơi đầu là chẳng chơi. Thế nhưng vì tin vào Đức Kitô Phục Sinh nên các tông đồ đã mạnh dạn nói và sống.
Thật vật, để mạnh dạn nói lời Chúa trước quan quyền, trước công chúng không phải là chuyện đơn giản. Đơn giản nhất là chuyện làm dấu Thánh Giá của người Kitô hữu làm hàng ngày. Có khi quên nhưng có khi lại ngại và có khi lại sợ. Có người không dám nhận mình là Kitô hữu để rồi không dám làm dấu.
Ngày nay, ta thấy xã hội phát triển và rồi trên các trang mạng xã hội, ta thấy nhiều người nói mà không biết họ nói cái gì. Nhiều lần nhiều lúc ta thấy các phát ngôn viên, xướng ngôn viên nói những điều chả đâu ra đâu nhưng người ta lại hùa theo. Người ta thường thích cũng như tò mò những lời của người này người kia nói và hơn nữa là đi chia sẻ, phân phát cho nhiều người.
Mỗi ngày trên các trang mạng, những lời nói chả đâu vào đâu thì người ta thích và người ta chia sẻ cho người khác nhanh như chớp. Trong khi đó, điều cần thiết nhất của người Kitô hữu đó chính là Lời Chúa nhưng rồi người ta không chịu đọc, không nghe và cũng không chia.
Xét về chuyện này cũng không khó hiểu lắm vì lời Chúa thì đắng đót chứ không ngọt ngào như lời của con người. Lời của con người ngày hôm nay ta thấy đủ ngôn từ hoa mỹ và có cánh. Những lời này nghe bùi tai và đầy những ước hẹn. Thế nhưng sau những ngôn từ hoa mỹ của con người ta sẽ nhận được gì ?
Lời của Chúa mãi mãi là Lời Hằng Sống, Lời của Chúa mãi mãi là lương thực nuôi sống đời người Kitô hữu. Ai nào đó hấp thụ Lời của Chúa thì đời của người đó được Lời Chúa sinh hoa kết quả và trước hết là dinh dưỡng cho con người đó. Ngược lại, ai nào đó sống theo lời của con người thì cứ quanh quẩn trong kiếp người.
Chuyện quan trọng nhất trong đời sống Kitô hữu đó chính là lắng nghe để sau khi nghe là sống Lời Chúa. Để nghe được Lời Chúa, con người cần phải lắng đọng trong tâm hồn. Giữa cuộc sống ồn ào và náo nhiệt, người Kitô hữu cần phải có cõi lặng để dừng lại và trầm lắng thì mới nghe được Lời Chúa.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta giữa bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời và những ồn ào náo nhiệt luôn biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi khung cảnh của đời sống. Và hơn nữa, ta xin Chúa cho ta biết vâng nghe và sống theo Lời mời gọi của Chúa chứ đừng nghe và sống theo tiếng người đời.
2020
Tin vào Đức Kitô
21.4
TIN VÀO ĐỨC KITÔ
Ga 3, 7-15
Ông Nicôđêmô, trong trình thuật Tin mừng hôm nay, đã tìm đến với Chúa Giêsu với một tâm hồn đơn sơ, khiêm nhượng và khao khát chân lý. Chúa Giêsu đã không phụ tấm lòng chân thành của ông khi Ngài hé mở cho ông thấy một phần những thực tại Nước Trời. Có đặt mình vào vị trí của Nicôđêmô, ta mới thấy rõ tâm hồn ông đẹp như thế nào! Đường đường là một bậc thầy trong dân, ông lén lút đến gặp Chúa Giêsu – một người thua kém ông xa về địa vị xã hội – để được “thụ giáo”.
Đã vậy, Người này trong khi giảng giải lại hay thêm vào những câu khó nghe đại loại như: “Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao?” (Ga 3,10) Đó là chưa kể những hệ luỵ tồi tệ sẽ xảy đến nếu như cuộc gặp gỡ này bị phanh phui.
Ngày xưa, dân Israel trong sa mạc khi bị rắn độc cắn họ chẳng thể tìm ra phương cách nào để chữa trị. Chính Đức Chúa đã cứu chữa họ, Ngài truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng và treo lên để ai bị rắn cắn nhìn lên con rắn đồng ấy sẽ được cứu sống. Ngày nay, mỗi người sau khi sa ngã phạm tội, chẳng thể nào tự mình đứng lên được nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Thiên Chúa giàu lòng xót thương, luôn mời gọi chúng ta nhìn lên Thánh Giá để cảm nhận được tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, từ đó, Ngài kêu gọi những ai đang sống trong tội lỗi, hãy ăn năn sám hối trở về để được hưởng ơn cứu độ.
Qua cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc (Ds 21, 4-9), để mạc khải Người là Đấng Cứu Độ trần gian cũng phải được gương cao trên cây thập giá, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
Quả thế, sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, con người bị cắt đứt sự hiệp thông với Thiên Chúa và phải chết. Nhưng vì yêu thương con người, Thiên Chúa Cha đã sai Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người chịu khổ nạn, chịu chết trên thập giá và phục sinh để đưa con người trở lại hiệp thông với Thiên Chúa và được sống hạnh phúc muôn đời.
Chúa Giêsu nhắc nhớ ta về sự sống trên cao và đòi buộc ta phải được tái sinh vào đời sống ấy. Một trong dấu chỉ cho thấy ta thuộc về cộng đoàn những con người được tái sinh vào đời sống mới đó là ta biết quảng đại chia sẻ vật chất với những người nghèo và tâm hồn không quá nặng nề về vật chất mà phải biết để mọi sự làm của chung như cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi đã làm, chứ không giành giật tất cả vào lòng mình (Cv 4, 32-37).
Sự chân thành của Nicôđêmô làm ta nhớ lại trình thuật truyền tin cho Đức Maria. Đứng trước một tin động trời là mình sẽ có thai, Đức Maria đã đơn sơ hỏi sứ thần Gabriel rằng: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1, 34) Và với tâm hồn chân thành đó, sứ thần đã giảng giải cho Đức Maria biết mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa. Cũng vậy, nếu lòng ta thực sự khát khao chân lý, Chúa sẽ chẳng để ta phải thất vọng bao giờ.
Đức Kitô phục sinh là nền tảng của niềm tin Kitô giáo, là nguyên lý sống còncủa Giáo hội Chúa Kitô. Phủ nhận sự kiện Đức Kitô phục sinh không những sẽ làm cho tòa nhà Giáo hội lung lay, mà còn phá hủy tận gốc đức tin và niềm hy vọng được sống đời đời của người Công giáo và Kitô giáo. Nếu Đức Kitô không sống lại thì toàn bộ giáo lý của Ngài, những lời Ngài nói, những việc Ngài làm, những phép lạ Ngài thực hiện, nói chung tất cả cuộc đời của Ngài, công cuộc nhập thể và cứu chuộc của Ngài đều trở thành vô nghĩa và dối trá!
Trong thư thứ nhất của ngài, thánh Phêrô viết : “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hại, không thể vẩn đục và tàn phai” (1 Pr 1, 3-4).
Tin vào Chúa Giêsu là gì nếu không phải là thực hành những điều Ngài truyền dạy trong cuộc sống yêu thương vô vị lợi, chấp nhận hy hiến bản thân mình vì tình yêu, nhờ Thần Khí hướng dẫn. Bởi vì không có tình yêu đích thực nếu không có hy sinh. Ai mong muốn hưởng hoa thơm trái ngọt của tình yêu mà không chấp nhận hy sinh, thì đó chỉ là sự mong muốn ảo tưởng và hão huyền của lòng ích kỷ. Và Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã dạy: “Không có tình yêu nào cao quí bằng tình yêu của kẻ hiến mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15, 13)
Vâng, để được tái sinh con người cần phải tin vào Đức Kitô, chấp nhận hy hiến bản thân, từ bỏ chính mình, chết đi cho tội lỗi và những thói hư tật xấu; như hạt giống gieo vào lòng đất, chấp nhận sự mục nát , thối rữa để làm phát sinh mầm sống mới, sống một cuộc đời mới, đơm hoa thơm, kết trái ngọt làm phong phú đất trời đem lại sự sống cho cuộc đời. (Ga 12, 24)
“Tin vào Đức Giêsu”, không đơn giản chỉ là một lời khuyên, nhưng là một sự cần thiết để có được “sự sống đời đời”. Thế nên, chúng ta có thể hiểu được tại sao điệp khúc: “Ai tin vào người Con thì được sống” cứ được lặp đi lặp lại nhiều lần trong Tin Mừng theo thánh Gioan, nhất là từ chương III trở đi. Vì quả thật, đó là điều quan trọng nhất của Tin Mừng, như lời ngài viết: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
Hành trình đức tin chúng ta luôn là như vậy. Chúng ta cũng vượt qua bóng tối của sự chết đến ánh sáng. Nhưng khi đã có ánh sáng rồi, liệu chúng ta có đức tin không? Thánh Bernard de Clairvaux nói rằng “đó vẫn là một cái bóng nhưng nó có lợi”. Đối với con mắt chúng ta, một ánh sáng quá chói sẽ làm chúng ta có thể bị mù như thể chúng ta đột ngột đi từ một nơi rất tối đến một nơi khác quá sáng.
Như Đức Kitô đã chết và đã sống lại, Thiên Chúa mời gọi chúng ta cùng chết với Đức Kitô để được cùng sống lại với Người. Xin Thần Khí tình yêu và sự bình an của Đức Kitô Phục sinh ở cùng mỗi người chúng ta, dẫn dắt chúng ta trong cuộc sống mới của người con cái Chúa.