2020
Lương thực trường sinh
29.4
Ga 6, 35-40
LƯƠNG THỰC TRƯỜNG SINH
Dân Do Thái thường hoài niệm, thường suy nghĩ và nhớ tới manna ngày xưa. Họ chỉ nghĩ rằng đó là thứ bánh vật chất nhưng ngon hơn thứ bánh ngày thường, cho nên họ cầu xin với Chúa Giêsu cho họ thứ lương thực vật chất đó để giúp họ no lâu hơn. Nhiều khi chúng ta đến với Chúa cũng chỉ để xin những nhu cầu thoả mãn cho cuộc sống vật chất như thế.
Lời Chúa hôm nay là một phần trong diễn từ về “bánh hằng sống”. Trong hội đường Caphácnaum, cùng với lời mạc khải “Ta là bánh trường sinh”, Chúa Giêsu cũng mời gọi dân Do Thái đến và tin vào Người để không phải đói, phải khát (Ga 6, 35). Chúa Giêsu Kitô là sự sống mà Thiên Chúa ban cho nhân loại, là tình yêu mà Thiên Chúa ban cho thế gian. Niềm tin vào Chúa Giêsu chính là điều kiện trước tiên và cần thiết nhất để được cứu độ. Phần thưởng cho niềm tin vào Chúa chính là sự sống đời đời, là việc được sống lại trong ngày sau hết.
Bánh Chúa nói không đến từ đồ ăn và thức uống tự nhiên, nhưng đến từ Ngài: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ.” Ngài nói điều này với người Do Thái sau khi đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng. Chỉ có 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, Ngài đã cho 5 ngàn người đàn ông không kể đàn bà và con trẻ ăn uống no nê, và người ta thu lại được 12 thúng bánh vụn.
Thật ra, phép lạ này là dấu chỉ của phép lạ lớn hơn là phép lạ Thánh Thể, thứ bánh được ban trào tràn cho những ai đặt niềm tin vào Ngài.
“Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói ; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” Trải qua hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã là lương thực nuôi dưỡng nhân loại qua Lời hằng sống của Người. Lời của người ảnh hưởng trực tiếp trên những kẻ tin yêu và lắng nghe, đồng thời dán tiếp ảnh hưởng đến tất cả mọi môi trường có chứng nhân của Lời hiện diện. Lời của người là Lời tình yêu Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại; là Lời có khả năng thỏa mãn cơn đói khát tình yêu của con người; một cơn đói khát quyết định sự sống còn của nhân loại.
Chối bỏ Lời, con người ngày nay đắm chìm trong một nền văn hóa chết chóc, có xu hướng đề cao chủ nghĩa cá nhân, hưởng thụ ích kỷ, chạy theo vật chất, bành trướng cái tôi… là một lối sống làm sói mòn tâm linh và ý nghĩa thiêng liêng cao cả của cuộc sống con người. Chỉ khi nghe và thực hành Lời người – như ‘ăn’ và ‘tiêu hóa’ – thì cuộc sống thế giới mới trở nên phong phú, cuộc đời con người mới có hạnh phúc thật.
“Chính tôi là bánh trường sinh.” Yêu ai thì khát khao muốn nên một với người mình yêu. Tình yêu làm phát sinh sáng kiến – Chúa Giêsu vì quá yêu thương con người nên đã tự nguyện trở nên bánh để ở với con người, nên máu thịt của con người, dưỡng nuôi tâm linh và ban cho họ sự sống bất diệt: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống đời đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. Vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống” (Ga 6, 54-55). Bởi chính thế mà Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể để ở lại với con người, dưỡng nuôi và đồng hành với con người trên đường tiến về quê hương đích thật trên trời.
Ngày hôm nay, như những người Do Thái năm xưa, chúng ta cũng được mời gọi xác tín Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là ơn cứu độ của mỗi người. Tin vào Chúa Giêsu chính là niềm tin căn bản và cần thiết của cuộc đời mỗi người. Từng ngày, niềm tin ấy được mỗi người hình thành, nuôi dưỡng và phát triển trong tương quan tình yêu với Chúa Giêsu. Tương quan với Chúa được ta xây nên từ những lời cầu nguyện thiết tha và chân thành. Mỗi ngày, nhờ tham dự Thánh lễ, viếng Chúa, đọc kinh, ta được thêm cảm nghiệm, tin tưởng và xác tín vào Chúa Giêsu, Đấng là hạnh phúc và sự sống của cuộc đời mỗi người.
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiến mình cho nhân loại qua thánh lễ mà Giáo hội cử hành mỗi ngày khắp nơi trên thế giới. Cảm nhận hồng ân cao cả Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, Giáo hội trung thành, hân hoan thiết đãi và mời gọi con cái mình đến dự bàn tiệc Lời Hằng sống và Thánh Thể Chúa Giêsu qua thánh lễ hằng ngày.
Vì thế Kitô hữu chúng ta cần ý thức và siêng năng tham dự thánh lễ với lòng vui mừng và biết ơn Chúa, biết ơn Giáo hội. Chúng ta cần tham dự hy lễ tạ ơn này cách sinh động với lòng thành, không câu nệ, không máy móc. Đừng làm người khờ dại chỉ đi dự tiệc cho có mặt mà không ăn tiệc (không chú tâm nghe Lời Chúa, không lãnh nhận Thánh Thể Chúa), chúng ta cần biết lắng nghe Lời hằng sống của Chúa Giêsu và đón rước mình Thánh của người làm của ăn nuôi dưỡng tâm hồn; để đời sống của Chúa Giêsu, tinh thần của Người thấm nhập vào trong con người và cuộc đời của mỗi người chúng ta, hầu chúng ta trở nên cánh tay nối dài của Người trong công cuộc dựng xây vương quốc nước trời nơi trần gian và được sống hạnh phúc muôn đời bên Chúa.
Nói về bánh trường sinh cho người Do Thái năm xưa hay nói về bánh hằng sống cho người thì nay đều khó cả bởi thực tế cuộc sống cho thấy chẳng ai sống mãi trong cuộc đời này. Dù có ăn uống điều độ, chọn thức ăn và đồ uống sạch, dùng đủ thứ thuốc, sự sống tự nhiên vẫn phải qua đi ở một thời điểm nào đó.
Vì thế, để tin vào bánh hằng sống và mở lòng ra đón nhận thứ bánh ấy, con người cần phải có ơn Chúa và lòng khao khát. Chính Chúa soi sáng, mở lòng, và đi vào tâm hồn mỗi người; còn con người thì khao khát tìm kiếm và khi gặp thì khiêm tốn đón nhận.
Lời nói của Chúa Giêsu không phải người Do Thái nào cũng đón nhận. Chỉ những ai được Chúa Cha trao cho Ngài mới đến với Ngài, mới tin vào Ngài, và mới can đảm bước đi theo Ngài. Những người này sẽ không phải chết đời đời, sẽ được Ngài cho sống lại vào ngày tận thế bởi Ngài đến trần gian để thực thi thánh ý của Chúa Cha: “Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.”
Chúa Giêsu là Bánh Bởi Trời được ban xuống để lôi kéo con người lên với Chúa Cha. Người tín hữu Kitô tiếp nhận Thánh Thể để được lãnh nhận tình yêu Chúa và từ đó mới trào sang cho tha nhân, đưa mọi người về với Thiên Chúa. Chia sẻ bàn tiệc với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, người tín hữu cũng chia sẻ cơm bánh cho tha nhân hằng ngày. Thật kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ tình yêu cho tha nhân, họ lãnh nhận được sự sống trường sinh của Chúa Kitô tràn ngập tâm hồn.
Chúa Giêsu đã ví Người là ‘Bánh’ – Bánh trường sinh – Bánh ban sự sống đời đời – cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của Ngài trong cuộc sống chúng ta. Cũng như sự sống thể lý con người cần cơm bánh, thì trong lãnh vực đời sống tâm linh chỉ Chúa Giêsu mới thỏa mãn được cơn đói khát của con người; và chính đời sống tâm linh là yếu tố chi phối toàn bộ đời sống con người – nếu đời sống tâm linh sung mãn thì cuộc sống con người mới thực sung mãn.
2020
Lương thực trường tồn
LƯƠNG THỰC TRƯỜNG TỒN
Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc dân Người. Hành trình dân Israel tiến về Đất Hứa là thời gian đầy thử thách nhưng cũng là chuỗi ngày ân phúc. Nơi hoang mạc khắc nghiệt và thiếu thốn, Thiên Chúa quan phòng ban cho dân thức ăn là manna và chim cút; nuôi dân bằng nước từ tảng đá chảy ra (Xh 16-17); cho cột mây dẫn đường ban ngày và cột lửa soi sáng ban đêm (Xh 13, 21).
Tình thương của Thiên Chúa với Dân Ngài đạt đến đỉnh cao nơi Chúa Giêsu – Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu chạnh thương đoàn dân đang kiệt sức, đói lả vì đi theo Người. Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê (Ga 6, 1-15). Chúa Giêsu thêm sức cho họ không chỉ về thể xác mà còn tinh thần, khi Ngài khẳng định: Ngài là Bánh Hằng Sống và đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6, 33). Hôm nay, Đức Kitô cũng đang yêu thương, săn sóc từng người chúng ta khi trao ban chính Mình Máu Ngài cho nhân loại.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy qua những nhu cầu vật chất đời thường, Chúa Giêsu mời gọi con người tin và đón nhận Ngài như thần lương nuôi sống linh hồn để đạt được sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu không bao giờ hư mất.
Trên thế giới, hàng triệu người vẫn đang sống trong cảnh nghèo khổ. Người ta không chỉ túng thiếu cơm bánh mà còn thiếu thốn tình thương, chân lý. Những đói khát tinh thần nhiều khi còn khắc khoải hơn cơn đói thể lý. Do đó, lời xác quyết của Đức Giêsu: “chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35) mang lại cho chúng ta niềm an ủi và sự bảo đảm vững chắc. Thánh Thể – Bánh Hằng Sống là món quà vô giá Thiên Chúa ban tặng cho con người.
Chúa Giê-su cho người Do Thái biết không phải ông Môsê cho họ bánh bởi trời mà chính Thiên Chúa ban cho họ; Bánh manna thực sự chỉ là một tiên báo về Chúa Giêsu – bánh đích thực Thiên Chúa sẽ ban cho con người. Con người nhắm vào vật chất, nhưng Chúa Giêsu muốn đưa người ta lên cao hơn, đó là đời sống đức tin. Thánh Phaolô thường khẳng định: “Nhờ tin mà anh em được cứu độ” (Ep 2, 8). Từ lương thực chóng hư, Chúa Giêsu hứa ban lương thực không bao giờ hư nát là chính mình Người (c.35).
Tuy nhiên với đầu óc u mê, cặp mắt thiển cận, người ta chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà không nhìn thấy cái lợi trăm vạn lần hơn, đó là được chính Thiên Chúa. Người ta chỉ quan tâm đến nhu cầu của thân xác hay chết mà ít quan tâm đến nhu cầu tinh thần, nhu cầu đem đến sự sống muôn đời cho con người.
Chúa Giêsu chính là bánh hằng sống từ trời xuống, ai tin và đón nhận Ngài sẽ không hề phải đói khát bao giờ (c.35). Đến với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có lương thực nuôi sống linh hồn; Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta Lời của Ngài, như kim chỉ nam dẫn lối và thân thể Ngài như của ăn để chúng ta tiến bước về quê hương đích thật. Có Ngài cùng đồng hành trong cuộc sống chúng ta chẳng còn phải lo lạc lối hay đói khát tinh thần.
Trong cuộc sống lắm khi những nỗi vất vả và lo toan làm chúng ta quên Chúa; nhưng Chúa Giêsu, Ngài đã nói: “Hỡi những ai vất vả gồng gánh nặng nề, hãy đến với ta, ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi”. Con người đói khát thể lý đã bi thảm, nhưng con người đói khát tinh thần càng vạn lần bi thảm hơn. Hầu hết những đau khổ của con người từ vật chất đến tinh thần đều có nguyên nhân từ việc đói khát tinh thần mà ra. Thế giới ‘vắng bóng’ Thiên Chúa, thì trở thành tranh dành, hận thù, ích kỷ, huynh đệ tương tàn, con người không có Thiên Chúa, trống vắng tâm linh thì dầu cho có lắm của cải vật chất, địa vị, danh vọng… cũng không bao giờ thỏa mãn được.
Chúa Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”. Đôi khi nhóm bạn chúng tôi cảm thấy chán nản vì cuộc sống tẻ nhạt, nhịp điệu đời sống cứ đều đều quay vòng: Học, ăn, ngủ, lo cho túi tiền có đủ xài đến cuối tháng…Sinh viên xa nhà thiếu thốn đủ thứ, thiếu vật chất, thiếu tinh thần, thèm xem phim, đói truyện báo, khát những buổi ca nhạc…tai hại hơn, những bạn là Kitô hữu phần lớn là đói Tin Mừng, khát Lời Chúa vì những lý do không tên, để rồi đức tin mờ nhạt mà không hay biết.
Tưởng nghĩ nếu chúng ta chỉ chăm lo đến cuộc sống tạm bợ, nay còn mai mất mà không quan tâm đến cuộc sống vĩnh cửu thì còn gì ngu dại bằng. Xin Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh cuộc sống chúng ta biết chạy đến với Ngài, cậy dựa vào Ngài. Xin cho chúng ta biết quí trọng, yêu mến, và năng lãnh nhận Thánh Thể Chúa, để chúng ta có thêm sức mạnh vượt qua những cam go thử thách trong hành trình tiến về quê hương đích thật là nước trời.
Quả thế nhờ Thánh Thể, những khát vọng sâu thẳm nhất, thiêng liêng nhất của con người sẽ được thỏa mãn, bởi Đức Kitô là suối nguồn bình an và hạnh phúc. Nơi Thánh Thể, con người học được bài học yêu thương, phục vụ và sẻ chia. Lúc này, Chúa Giêsu cũng đang mời gọi ta chia sẻ bánh tình yêu Giêsu cho anh chị em kém may mắn hơn; nhờ đó cuộc sống này sẽ ngày một tươi đẹp hơn.
2020
Đừng vì của ăn tạm bợ
Thứ Hai tuần III PS
Ga 6, 22-29
ĐỪNG VÌ CỦA ĂN TẠM BỢ
Trang Tin Mừng về bánh hằng sống trong hội đường Ca-phác-na-um sau ngày phép lạ bánh hóa nhiều có lẽ là một tổng hợp các bài giảng ở nhiều nơi. Dân chúng ngạc nhiên khi thấy các môn đệ và Chúa Giêsu ở Ca-phác-na-um vì họ không thấy Người xuống thuyền đi sang Ca-phác-na-um với các môn đệ, mà bây giờ lại thấy Người ở đây. Còn “Đức Giêsu khi thấy họ sắp bắt mình đem đi tôn làm vua, thì Người lánh mặt, đi lên núi một mình”, mãi tới đêm, biển động vì gió thổi mạnh, các ông thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển hồ đến gần thuyền … Ngay lúc đó thuyền đã tới bờ của miền Ca-phác-na-um.
Vì tình thương nên ta thấy Chúa Giêsu đã làm phép hóa bánh ra nhiều chứ không phải vì muốn nổi danh! Nhưng đối với người Dothái, họ có lối suy nghĩ khác! Thay vì họ tạ ơn Chúa vì lòng thương xót của Ngài, thì ngược lại, họ chỉ nghĩ đến cái bụng và khao khát được thỏa cơm đói. Vì thế, dân chúng nghĩ rằng: có Chúa Giêsu hiện diện ở giữa họ thì có lẽ sẽ không phải đói khát và có khi chẳng cần làm lụng vất vả cũng có ăn! Thế nên, họ tìm cách để tôn vinh Ngài lên làm vua. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã lánh đi để sang bờ bên kia trước họ.
Và ta thấy như thói quen, thánh Gio-an sắp nối kết sự kiện phép lạ cụ thể này với ý nghĩa thần học: Họ tìm … họ ngạc nhiên vì không biết Người đến đây bằng cách nào? Người đã đến đây bằng cách lạ lùng là đi trên mặt biển giữa đêm khuya gió to sóng lớn. Cũng thế, Chúa Giêsu đã đến với họ không phải từ làng Na-gia-rét, như người ta biết, nhưng là từ trời mà người ta không biết, cũng như Người từ bờ hồ phía đông nơi bánh hóa nhiều, đi qua biển tới bờ hồ phía tây nơi miền Ca-phác-na-um.
Với cái nhìn thiển cận hay còn gọi là óc ngắn nên người Do Thái cố gắng tìm Chúa Giêsu vì của nuôi xác chứ không tìm đến vì của ăn đời đời.
Khi gặp Ngài, họ cất tiếng hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?”, Chúa Giêsu thừa biết mục đích của họ, vì thế Ngài nói ngay: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26 ). Khi nói như thế, Chúa Giêsu mời gọi họ hướng tới một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn, đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh (Ga 6, 27 ).
Ta thấy dân chúng vẫn tiếp tục đòi của vật chất, họ chú trọng đến man-na nuôi sống cha ông họ hằng ngày trong sa-mạc và so sánh với phép lạ hóa bánh ra nhiều để cầu mong Chúa Giêsu cho họ được ăn như vậy. Còn Chúa Giêsu, Người nhấn mạnh đến sự đói khát tinh thần, đến của ăn hằng sống cho linh hồn. Đó mới chính là sứ mệnh quan trọng của Người. Người đã hết sức nhẫn nại như đã nhẫn nại giải thích cho ông Ni-cô-đê-mô về sự tái sinh, cho bà ở Sa-ma-ri về nước trường sinh.
Chúa Giêsu không đến thế gian để mang lại một cây đũa thần cho những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của con người. Ngài đến để cho con người được sống và hạnh phúc thực sự. Sự sống và hạnh phúc ấy chính là nhận biết và yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Chỉ có Thiên Chúa mới thoả mãn mọi khát vọng trong tâm hồn con người, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người hạnh phúc trọn hảo.
Ta thấy rằng vì mưu cầu cuộc sống tạm bợ nhưng người tín hữu luôn hướng về trời cao: bôn ba về của cải vật chất, nhưng không quên gắn bó với những giá trị Nước Trời như công lý, hoà bình, tình huynh đệ, lòng bác ái. Trong mọi sự, họ phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời.”
Sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian đó là chỗ đứng của người tín hữu trong trần thế này. Mưu cầu cuộc sống tạm bợ nhưng người tín hữu luôn hướng về trời cao; bôn ba về của cải vật chất, nhưng không quên gắn bó với những giá trị Nước Trời như công lý, hoà bình, tình huynh đệ, lòng bác ái. Trong mọi sự, họ phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời”. Một cách cụ thể, người tín hữu tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa những thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình anh cao quí của Thiên Chúa nơi bản thân, không cha đạp nhân phẩm của người anh em. Trong mọi sự họ tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất của cuộc đời.
Một cách cụ thể, người tín hữu tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa những thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình ảnh cao quí của Thiên Chúa nơi bản thân, không chà đạp nhân phẩm của người anh em. Trong mọi sự họ tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất của cuộc đời.
Tìm đến bên Chúa, tin vào Chúa, Chúa không bảo người tin là biếng nhác làm việc, là ngồi chờ sung rụng, là chi trông chờ phép lạ… Ngài mời gọi người tin, làm việc không ngừng, làm việc hết mình để có thể tìm kiếm sự bền vững trong đời: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6, 27).
Thật thế, khi tìm Chúa và tin theo Lời Chúa là dẫn bước đi tìm nước Trời, không chỉ được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau mà còn được lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa cưu mang ngay ở đời này như Ngài đã nói: “Các ngươi hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời, rồi mọi sự đó sẽ được cho thêm” (Lc 12,31).
Ngày nay, trong đời sống đạo, nhiều người vẫn còn thói quen tin Chúa như những người Dothái. Tức là tin Chúa khi vui, lúc thành công, nhất là tin khi được lợi. Vì thế, chúng ta vẫn thấy có chuyện như: thích thì đi lễ, đi chầu, đọc kinh… không thích thì thôi! Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta đừng tìm Chúa vì của ăn hay hư nát mà tìm Chúa vì là Bánh hằng sống và sự sống trường tồn.
2020
Khiêm nhường và dũng cảm như Thánh Maccô
25.4 Lễ Thánh Marcô
KHIÊM NHƯỜNG VÀ DŨNG CẢM NHƯ THÁNH MÁCCÔ
Chúa Giêsu khi muốn chọn ai, Ngài đã cầu nguyện lâu giờ vì việc tuyển chọn con người là một công việc hết sức quan trọng. Chúa chọn ai là do quyết địnnh hoàn toàn tự do của Ngài. Ơn gọi của một con người nói lên tình thương và sự nhưng không của Chúa Giêsu. Vì yêu con người, Chúa đến trần gian và cũng vì yêu con người, Ngài tuyển chọn, cất nhắc con người với tất cả sự tự do của Ngài. Thánh Máccô là người Do Thái, thuộc dòng họ Lêvi. Sau khi Chúa lên trời, thámh nhân theo thánh Phêrô, vị tông đồ trưởng sang La mã.
Thánh nhân được thánh Phêrô trìu mến và yêu thương, nâng đỡ cách đặc biệt. Thánh Máccô hăng say giảng đạo và nhờ lòng nhiệt thành, hăng say loan báo Tin Mừng cho Chúa Giêsu, nhiều người đã quay trở về với Chúa và Giáo Hội. Số người trở lại càng ngày càng đông, nhưng không có một tài liệu nào để giúp giáo dân học hỏi và tham khảo. Nhiều người ao ước có một bản viết về cuộc đời của Chúa Cứu Thế.
Dựa vào bút pháp của Máccô, chúng ta cố gắng tìm hiểu tính khí của ngài. Tính chất sống động của Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng tích mục kiến của Phêrô, chứ không phải của Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu vì các nhà chú giải đồng hóa ngài với người thanh niên vô danh bỏ chạy mình trần (Mc 14,50-52). Dầu vậy, thánh Máccô không phải là một máy ghi âm diễn lại lời của Phêrô, ngài là tác giả ghi lại ký ức của Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu) và có giọng văn không chải chuốt.
Với những yêu cầu và khao khát của nhiều người. Thánh Máccô đã viết lại cuộc đời của Chúa Giêsu một cách mạch lạc và rõ ràng theo chương mục dựa theo lời giảng dạy của thánh Phêrô. Thánh Phêrô đã cho phép phổ biến và dùng trong giáo đoàn. Thánh Mác-cô sau đó đã được thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi sai đi truyền giáo ở Ai Cập. Với lòng nhiệt thành, đạo đức, tài hùng biện và lợi khẩu, thánh nhân đã đưa rất nhiều linh hồn về với Chúa. Thánh Máccô là vị sáng lập và là Giám Mục đầu tiên của giáo đoàn Alexandria.
Được Chúa mời gọi, thánh Máccô đã đáp trả lại lời gọi mời yêu thương của Chúa. Với lòng đạo đức, trí thông minh, sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, thánh Mác-cô đã đem muôn vàn người trở về với Chúa. Vì ghen tức, ích kỷ, những lương dân đã quyết tâm hãm hại Người. Họ đã bắt thánh nhân với mục đích lăng mạ, bêu xấu Ngài và lôi kéo Ngài trên đường đá ghồ ghề, lởm chởm cho tới khi Ngài trút hơi thở cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 67.
Với những công đức to lớn, với cuốn Tin Mừng thánh Máccô để lại, danh của thánh nhân mãi mãi ngời sáng trong Giáo Hội và triều thiên vinh hiển Thiên Chúa trao cho Ngài muôn đời sẽ rực sáng trên nước trời. Mãi mãi nhân loại và đặc biệt Giáo Hội sẽ tôn vinh thánh nhân vì lòng nhiệt thành, sự thánh thiện và gương sáng thánh nhân để lại cho dân Chúa.
Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.
Hôm nay, chúng ta đọc những lời này trong Ca Nhập Lễ. Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Máccô đã ghi lại. Về sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng lệnh truyền ấy đã được thực hiện khi ngài chép Tin Mừng: Các tông đồ ra đi và rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng những phép lạ kèm theo. Đó là những lời thánh Máccô kết thúc Tin Mừng của ngài.
Thánh Máccô đã trung thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh Phêrô : Hãy đi khắp thế gian. Chính thánh Máccô và Tin Mừng của Ngài đã là một thứ men hiệu quả cho thời đại ngài. Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho thời đại chúng ta. Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và dũng cảm làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và việc làm của Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ ngài, chắc cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.
Sứ mạng của thánh Máccô – cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của các tín hữu tốt lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình – chắc chắn không phải là một sứ mạng dễ dàng. Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo. Ắt hẳn thánh nhân đã trải qua kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong việc theo bước Chúa.
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và niềm vui Chúa Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta. Mọi thế hệ Kitô hữu, mọi cá nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ lại cho người khác. Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Cánh tay Chúa không bị thu ngắn. Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện các phép lạ từ nhiều thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện. Với ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn thân nhân, bạn bè, và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp với Chúa Kitô qua lời cầu nguyện.
Giáo Hội hôm nay nêu lên mẫu gương thánh Máccô. Thật là một hy vọng và ủi an khi chiêm ngưỡng đời sống vị sử gia thánh thiện này. Mặc dù có những yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn có thể như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ Giáo Hội. Những thất bại và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ, phải làm chúng ta khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa Giêsu, và kín múc từ nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.
Tin Mừng là của Thánh Máccô, một Tin Mừng có một có một sức mạnh rất cụ thể sống động chống lại sức mạnh của quỉ dữ muốn làm hại Chúa Giêsu. Ngày nay người ta khá coi thường một thứ Tin Mừng có nhiều phép lạ, nó lôi kéo chú ý về những kỳ lạ hơn về sứ điệp thứ tha và giải tháot của Tin Mừng; may thay bản văn vẫn ưu tiên dành cho lời Chúa. Hãy suy nghĩ đến sức mạnh tâm hồn của các vị truyền giáo, đến những ân huệ các Ngài đã mang đến cho một thế giới trong lầm than được nghe loan báo về Đấng Cứu Thế đã toàn thắng, đã đoạt được vinh quang của ngai tòa Thiên Chúa. Như Máccô, khiêm tốn nhưng hăng say, chính Ngài đã tiếp tục theo chân những người nghèo khó nói những lời định mệnh cho đến tận thế để nối đất của chúng ta với trời.
Và ta thấy Thánh Máccô thực hiện mệnh lệnh ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa bằng cách đi truyền giáo với Thánh Phaolô. Ngài đi truyền giáo với Banaba. Ngài đi theo và làm phụ tá cho Thánh Phêrô. Ngài làm giám mục phục vụ cộng đoàn Alexadre. Cuối cùng, Ngài đã viết và lưu truyền cho hậu thế cuốn Tin Mừng mang tên Ngài, Tin mừng theo Thánh Máccô.
Mỗi người chúng ta mừng lễ Thánh Máccô hôm nay, hãy noi gương bắt chước Ngài, bằng cách đóng góp phần mình cho việc loan báo Tin mừng. Bởi vì, loan báo Tin mừng là lệnh truyền của Chúa, là bổn phận của Giáo hội và của mỗi người kitô hữu chúng ta.