2020
Ơn bình an
12.5.2020
Thứ Ba tuần V PS
Ga 14, 27-31
ƠN BÌNH AN
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (c. 27). Sự bình an mà Chúa Giêsu ban không có nghĩa là không có những trắc trở gian nan như mặt hồ lặng sóng nhưng là sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn khi phải đối mặt với phong ba bão táp. Người luôn tin tưởng phó thác vào Chúa Cha nên đã có được bình an trong tâm hồn mặc dù những thử thách đang bủa vây.
Khi Chúa Giêsu biết mình sắp bị giới lãnh đạo Do Thái bắt nộp, bị môn đệ Giuđa phản bội và giờ Chúa Cha tôn vinh đã cận kề, Người đã trăn trối lại cho các môn đệ những lời tâm huyết sau cùng. Các môn đệ cảm thấy hoang mang sợ hãi, tâm hồn đầy xao xuyến, Thầy đi rồi còn tương lai của các ông sẽ về đâu? Một câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp. Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu hứa ban bình an và niềm vui của Người cho các ông.
Các môn đệ lo lắng sợ hãi vì không biết phải đi con đường nào giữa trăm ngàn ngã rẽ, không biết tin cậy vào đâu trước những thế lực xấu đang bủa vây. Chúa Giêsu đã động viên các ông và khẳng định “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Ai đi theo con đường của Chúa chắn chắn sẽ tới đích. Ai tin vào Chúa sẽ không phải thất vọng bao giờ. Ngược lại ai cậy dựa vào sức riêng mình và sự bảo đảm của cải vật chất trần gian sẽ phải gánh chịu nỗi bất an ê chề.
Người ta có thể có được sự bình an khi cuộc sống không có chiến tranh hận thù ghen ghét. Sự bình an của thế gian ban có thể được bảo đảm bằng của cải vật chất, bằng những tiện nghi khoa học tối tân đáp ứng mọi nhu cầu của con người. Sự bảo đảm này có giá trị nhất định, nhưng Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta tiến xa hơn trong niềm tin Kitô giáo, đó là sự bình an đích thực nơi Thiên Chúa. Như Chúa Giêsu đã đón nhận mọi đau khổ, đã uống trọn chén đắng Cha trao để nên một trong thánh ý Cha, Người đã đánh đổi cả mạng sống để cho nhân loại được bình an.
Bình an mà Chúa Giêsu ban cho các môn đệ là bình an đích thực, nghĩa là đặt niềm tin vào Chúa quan phòng, không lo sợ bất cứ điều gì từ bên ngoài tác động vì luôn có Chúa trong mình. Cũng như Chúa Giêsu luôn bình an, dù đứng trước mọi khó khăn chống đối, trước cuồng phong bão táp hay trước sự bách hại của vua chúa quan quyền; thì đây Chúa Giêsu cũng ban cho những ai bước theo Người được sự bình an đích thực trong tâm hồn, khi luôn đặt niềm tin vào Thiên Chúa.
Trong Thánh Kinh, từ thời Cựu Ước, người ta dùng từ “bình an” để chào hỏi nhau lúc gặp gỡ. Còn ngôn sứ Isaia thì tiên báo Đấng Messia sẽ là “Hoàng Tử Bình An”. Khi Chúa Giêsu sinh hạ nơi hang đá Bêlem, các thiên thần cũng đã ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình An dưới thế cho người Chúa thương”. Như thế, Chúa Giêsu chính là sự Bình An đích thực của Thiên Chúa, và sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giêsu đem xuống từ trời chính là ban bình an cho nhân loại.
Sứ điệp đầu tiên mà Chúa Giêsu đem xuống trần gian qua lời thiên sứ hát mừng là “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”, thì nay khi sắp lìa bỏ những người Chúa thương mà trở về với Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng để lại ơn bình an ấy. Ơn bình an mà từ đây, những người theo Chúa thì không còn sợ hãi tội lỗi, ma quỷ và sự chết nữa. Thật vậy, khi có Chúa, Kitô hữu không chỉ được hưởng bình an ngay tự bây giờ, mà còn hi vọng được về “quê Bình An” vĩnh cửu trên trời.
Bình an là điều tốt lành ai ai cũng trông mong. Người sống trong chiến tranh mong hòa bình mau trở lại. Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, lòng người vẫn khắc khoải trước bao thách đố xảy ra hằng ngày. Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ, cũng như cho cả chúng ta, sự bình an quý giá vô vàn so với thứ bình an không có chiến tranh.
Bình an của Chúa Giêsu mang đến không phải là thứ bình an mà thế gian ban tặng. Bình an của thế gian thường chỉ là đồng nghĩa với an phận, với trốn tránh, với thoả hiệp. Bình an của Chúa mang đến chỉ có thể có được bằng một giá đắt đỏ: Nó đòi hỏi sự chiến đấu, chấp nhận mất mát, có khi cả hy sinh mạng sống mình nữa. Bình an ấy chỉ có khi con người có thể thốt lên như Thánh Phaolô “Lương tâm tôi không trách tôi điều gì.” Còn gì quý hơn một cuộc sống mà tâm hồn luôn an bình thư thái. Bởi thế chúng ta có thể đề ra cho mình cả một chương trình sống mà mục tiêu là tạo dựng và gìn giữ bình an trong tâm hồn.
Bình an Chúa Giêsu trao ban là ân huệ phục sinh của Người. Hay nói cách khác: “Chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2, 14). Ai có được Người thì chẳng còn thiết gì hơn nữa. Chỉ cần một lần được ẵm Chúa trên tay, cụ Simêon đã cảm thấy toại nguyện, nên bộc phát cầu nguyện: “Xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ” (Lc 2, 29).
Ngày hôm nay, có biết bao người đang sống trong bất an vì chiến tranh, bạo lực, ghen ghét, đố kỵ… Trong số đó, có người tìm kiếm hoặc cậy dựa vào thứ bình an giả tạo chóng qua, được xây dựng trên nền tảng của sự hưởng thụ vật chất và hào quang của địa vị, danh vọng trần thế. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết tìm đến với Chúa để đón nhận được nguồn bình an đích thực ngang qua việc biết tìm nương ẩn bên Chúa, sống trong sự hiện diện của Chúa và tín thác nơi sự quan phòng yêu thư ơng của Người.
Lạy Chúa, có nhiều lần con tự trấn an mình bằng những gì mình có, con chiếm hữu và lo giữ lấy. Trước bạn bè, con giả vờ như rất an tâm giữa những tiếng ồn ào, huyên náo; nhưng thật sâu bên trong lại chẳng an tâm. Xin ban cho con bình an của Chúa, thứ bình an mà không đau khổ nào có thể chạm tới, bình an của một tâm hồn luôn sống trong sự thật.
2020
Yêu và giữ Lời
11.5.2020
Thứ hai tuần V PS
Ga 14, 21-26
YÊU VÀ GIỮ LỜI
Lời Chúa Giêsu trong trang Tin Mừng hôm nay là một soi sáng cho chúng ta về căn bản của tình yêu mà mỗi người chúng ta cần phải có đối với Thiên Chúa: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Chúa Giêsu không đòi hỏi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc về tình cảm. Nếu có được những rung cảm ấy thật quí, chúng là các dấu chỉ cho phép tin tưởng rằng: chúng ta đang yêu mến Ngài.
Yêu và giữ lời người mình yêu, đó là một kinh nghiệm mà ai đó đang yêu hay đã trải qua tình yêu đều thấu hiểu. Khi yêu, ta muốn cho người mình yêu được hạnh phúc.
Một khi yêu thương một người cách đích thực, ta rất dễ dàng tự ý từ bỏ quan điểm riêng, sở thích riêng của mình để sống hòa hợp với ý muốn và ước vọng của người mình yêu. Nghĩa là, ta không còn chỉ sống cho riêng mình, nhưng sống cho và sống vì người mình yêu mến. “Yêu mến và giữ lời” đây cũng là điều mà Chúa Giêsu đòi buộc nơi mỗi người. Nếu ai đó hỏi tôi, hay hỏi bạn rằng “bạn có yêu mến Chúa Giêsu không?” Thì chắc hẳn câu trả lời sẽ là “có, tôi yêu mến Người”. Tiếp đến, bạn có thể sẽ được hỏi “dấu chỉ nào chứng thực bạn yêu mến Chúa Giêsu”. Với câu hỏi này, chúng ta sẽ có rất nhiều những câu trả lời khác nhau. Tuy nhiên, câu trả lời đúng và đẹp lòng Chúa nhất có thể là “Tôi giữ lời Người truyền dạy cho tôi”.
Bằng chứng lòng mến Chúa là tuân giữ Lời Chúa. Tình yêu có tính cách hỗ tương, nên người yêu mến Chúa sẽ được Chúa yêu mến và tỏ mình ra cho. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14, 21). Điều này cho thấy Thiên Chúa mà chúng ta yêu mến, không phải là một Thiên Chúa xa vời, nhưng Người ở rất gần, thậm chí là ở trong và ở với chúng ta “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Chúa tỏ mình ra cho những ai đón nhận Lời Chúa, những ai tự do chấp nhận Chúa. Người không đến cứu giúp cách lạ thường, không làm những điều kỳ diệu, ngoạn mục để áp lực con người tin theo Chúa. Chúa chỉ đến cư ngụ nơi nhà những ai vì tình yêu mở cửa đón Chúa trong thân tình. Những ai càng cặn kẽ giữ Lời Chúa, thì chứng tỏ lòng yêu mến Chúa đích thực, vì vậy, càng xứng đáng được Thiên Chúa ngự vào lòng kẻ ấy. Điều này làm chúng ta xác tín về diễm phúc được Thiên Chúa ngự trong ta, vì “Thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần” (1Cr 6,19).
Như vậy, khi chúng ta để cho Lời Chúa làm chủ và để Thánh Thể Chúa nuôi dưỡng đời mình thì thân xác ta nên đền thờ, là nơi Chúa ngự và ở lại. Chỉ có đức tin được thúc đẩy bởi lòng mến mới có thể cảm nghiệm được diễm phúc có Chúa ở cùng, nhất là khi lãnh nhận Thánh Thể.
Chúa Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản “Ai nghe và giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy”. Chúa Giêsu không đòi hỏi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính…Tuy nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình yêu, sẵn sàng cho đi tất cả vì người mình yêu, chứ không dừng lại ở những rung động ở thân xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình.
“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại nơi người ấy”. Mỗi lần, bạn ấy xin cha mẹ đi chơi, chúng tôi đều cười nhạo: “Lớn rồi mà còn xin với xỏ. Mình trưởng thành rồi, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì làm tuỳ ý”. Bạn ấy đã giải thích một cách đơn sơ nhưng hợp lý hợp tình: “Hẳn ba má không cần tôi xin, nhưng chắc chắn ba má tôi rất vui khi tôi xin phép như vậy. Tôi làm thế để được làm con và làm con thảo của ba mẹ tôi”.
Cũng là điều dễ hiểu khi yêu mến ai thì cũng sẵn lòng nghe lời người ấy. Thế nhưng, yêu mến Chúa Giêsu và làm theo lời Ngài để rồi được Thiên Chúa đến ngự trong tâm hồn thì quả là một phần thưởng quá lớn lao không ai dám mơ tưởng, thậm chí không thể biến thành hiện thực được. Dù thế, chính Chúa Giêsu đã thực hiện điều Ngài đã nói khi Ngài là Người Con Chí Ái sẵn lòng vâng phục Chúa Cha cho đến chết. Và khi sống lại từ cõi chết, Ngài còn khiến điều đó trở thành khả thi cho chúng ta: làm theo lời Chúa Kitô là vác thánh giá, chịu đóng đinh với Ngài, mà ai cùng chịu chết với Ngài thì sẽ cùng Ngài sống lại.
Tuy nhiên, nếu chưa có cũng chẳng nên bận tâm, vì chúng chỉ là những phản ứng trong cơ thể chứ không phải là điều kiện của tình yêu. Một tình yêu đúng nghĩa đòi buộc phải tìm đủ mọi cách để làm đẹp lòng người mình yêu, sẵn sàng cho đi tất cả vì người yêu. Dừng lại tất cả nơi rung cảm phần nào nói lên tâm trạng vị kỷ nơi con người muốn cho đi nhưng đồng thời lại bù đắp, cái tôi vẫn là tâm điểm của tình yêu.
Khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu trở nên khuôn mẫu của tình yêu. Cuộc đời của Ngài là một thể hiện trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Ðối diện với Thập Giá và cái chết, Chúa Giêsu run sợ chẳng muốn nhận lấy, nhưng xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha. Sau cùng, Ngài đã uống cạn chén đắng để chu toàn trọn vẹn thánh ý Cha.
Chúa Giêsu đã tặng cho chúng ta bí quyết để đạt được cuộc sống hạnh phúc đời đời với Ngài: yêu mến Chúa và làm theo lời Ngài. Thích hay không thích thì thập giá cũng đã cắm đầy dẫy trong cuộc đời của chúng ta. Vấn đề là chúng ta có biết đón nhận những thập giá đó một cách mau mắn và với trọn niềm yêu mến hay không.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn môn đệ của Ngài đi lại con đường Ngài đã đi qua: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Giữ lời Chúa Giêsu cũng là yêu mến Thiên Chúa Cha. Vì lời Ngài là của Cha, Ðấng đã sai Ngài đến trần gian. Lời dạy của Chúa Giêsu là gì, nếu không phải là gì khác là biết quên mình vì Chúa và vì anh em, quên đi bản thân bằng cách dành cho Thiên Chúa và tha nhân một chỗ đứng ưu tiên trong tư tưởng và hành động.
2020
Tìm kiếm Thiên Chúa
9.5 Thứ Bảy
Ga 14, 7-14
TÌM KIẾM THIÊN CHÚA
Khi nghe Chúa Giêsu mạc khải về Chúa Cha, các môn đệ đã nêu ra một ước muốn không chỉ của các ông, nhưng còn là điều mơ ước của biết bao người: được tận mắt chiêm ngưỡng tôn nhan Chúa Cha. Các ông vẫn chưa biết rằng “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” vì “chính Cha ở trong Thầy”. Chúa Giêsu chính là Lời, là Mạc Khải trọn vẹn của Chúa Cha. Như thế, muốn được thấy Chúa Cha thì phải đến với Chúa Giêsu. Ai không biết và yêu mến Chúa Giêsu thì không thể nhận ra dung mạo của Chúa Cha; ngược lại, ai càng gắn bó và thân thiết với Chúa Giêsu thì sẽ dàng nhìn thấy và yêu mến Chúa Cha.
Thánh Gioan lặp đi lặp lai từ “ở trong” để nói lên sự hiệp nhất ấy. Sứ vụ của Chúa Giêsu là: Ngài được Cha sai đến trần gian để thực hiện nhiệm cục cứu độ theo ý Cha và Ngài đã thực hiện điều đó không chỉ trong ý muốn, trong tình yêu mà cả trong hành động nữa bằng chính cái chết đau thương của Ngài. Vì yêu Cha nên ý Cha và ý Ngài trở thành một: “……nhưng xin đừng theo ý con, một theo ý Cha”.
Tin mừng hôm nay ta thấy Philipphê, một trong nhóm mười hai đã xin Chúa Giêsu tỏ cho thấy Thiên Chúa Cha. Chắc hẳn khi nói điều đó Philipphê đã liên tưởng đến hình ảnh một Thiên Chúa quyền năng đã tỏ vinh quang Ngài trên núi Sinai, một Thiên Chúa mà Môsê chỉ được thấy phía sau lưng Ngài. Tâm trạng của Philipphê cũng là tâm trạng của rất nhiều người trong chúng ta, đó là một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế, không ít người sẵn sàng hao tốn tiền bạc và thời giờ để để tìm đến những nơi xẩy ra sự lạ, đối với họ, một lần hành hương có ý nghĩa và giá trị cho cả cuộc đời.
Đáp lại yêu cầu Philipphê, Chúa Giêsu đã đưa ra một khẳng định và một câu hỏi : trước hết Ngài nêu lên một chân lý : “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”, đó là một thực tại đã quá hiển nhiên : câu hỏi tiếp sau đó như một nhắc nhở cho Philipphê : Hãy nhìn lại cuộc sống thân tình giữa Thầy và các môn đệ. Những lời Thầy nói, những việc Thầy làm, không phải là của Thầy, mà là của Thiên Chúa Cha ở trong Thầy. Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ không nhận ra Ngài là Thiên Chúa.
Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với Philipphê cũng là lời nhắc nhở chúng ta : đừng để những nét quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước mặt Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm dấu lạ, nhưng dấu lạ xẩy ra trước mắt mà chẳng nhìn thấy : hằng ngày qua lời truyền phép, Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ, nhưng đã thấy khi chúng ta tỏ thái độ cung kính tin nhận Ngài ? Trong cuộc sống biết bao lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa nhưng đã mấy lần chúng ta phản tỉnh để nhận ra ơn lành Ngài ban.
Chúa Giêsu luôn là biểu lộ về Cha và Ngài luôn tìm mọi cách để hiệp nhất với Cha trong ý chí cũng như trong hành động. Đó cũng là lý tưởng sống của mọi Kitô hữu chúng ta: cuộc sống của ta phải là một biểu lộ không ngừng về Thiên Chúa trong thế giới hôm nay. Các Thánh đã sống cách sống ấy: một nông dân đã khai trước tòa án phong thánh về nhận định của ông đối với Cha Sở xứ Ars: “Tôi đã thấy Thiên Chúa hiện diện trong một con người”.
Thật thế, để sống được như vậy thì ta phải mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu là mọi suy nghĩ, hành động và ý chí đều phải quy về Cha: danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời… (Kinh Lạy Cha). Sống như thế không phải là “vong thân” như lời kết án của Nietzsche, Triết gia người Đức: “Kitô giáo là vong thân. Con người càng tin tưởng nơi Thiên Chúa, con người càng đánh mất chính mình…vì thế, cần phải loại trừ Thiên Chúa ra khỏi con người”.
Thật thế, không ai dám kết án Chúa Giêsu là vong thân khi cả cuộc đời của Ngài luôn sống và làm theo ý Chúa Cha, bởi Ngài sống và làm vì tình yêu Cha. Cũng như không ai dám kết án các linh mục, tu sĩ nam nữ đã đánh mất chính mình khi các ngài khấn giữ vâng lời, trinh khiết và khó nghèo, bởi các ngài khấn vì yêu.
Và không ai dám kết án một người chồng sẵn sàng hy sinh từ bỏ những tật xấu của mình như cờ bạc, rượu chè….là một người không sống đúng với bản tính thực của mình, một kẻ “sợ vợ”, bởi anh đã hy sinh vì yêu vợ. Có chăng chỉ có các bạn bài và bạn nhậu. Và càng không có ai dám kết án cuộc đời của một Kitô hữu là vô ích, là uổng phí, khi cả đời anh đã sống vì và cho Chúa; vì và cho tha nhân.
Được biết Thiên Chúa và được thấy Ngài, đó là ước muốn rất chính đáng và rất sâu xa của mọi tín hữu. Chúa Giêsu đáp ứng ước vọng đó: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy”. Nhìn Chúa Giêsu ta có thể biết Chúa Cha như thế nào: Nhân từ, hiền hậu, gần gũi với những người đau khổ, khoan dung với những kẽ tội lỗi…Thiên Chúa mà chúng ta thờ là như thế đó.
Nhiều lúc chúng ta tự hỏi “tại sao tôi đã cố gắng rao giảng về Thiên Chúa, phục vụ tha nhân, nhưng tâm hồn vẫn chưa tìm được niềm vui và hạnh phúc?” Đó là vì chúng ta vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn chúng ta. Lời Chúa vẫn chưa thấm vào trong tâm hồn chúng ta. Thánh Thể Chúa chưa là của ăn nuôi dưỡng thực sự của chúng ta. Kinh Thánh chưa trở thành Lời yêu thương của Ngài dành cho chúng ta.
Nói cách khác, Thiên Chúa chưa phải là trung tâm của đời sống chúng ta. Chúng ta vẫn chưa tin và yêu mến Thiên Chúa đủ.
Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với tông đồ Philipphê cũng là lời Ngài muốn nhắc nhở chúng ta hôm nay. Ðừng cho các quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là một điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm kiếm dấu lạ, nhưng rồi dấu lạ xảy ra trước mắt mà lại chẳng nhìn thấy. Hằng ngày qua lời truyền phép của linh mục, Chúa Giêsu hiện diện thực sự trên bàn thờ mà đã mấy lúc chúng ta tỏ ra thái độ cung kính tin nhận Ngài. Và rồi trong cuộc sống, biết bao lời cầu khẩn, xin ơn được dâng lên Thiên Chúa, nhưng đã có lần nào chúng ta biết dừng lại để khám phá ra ơn lành của Ngài đã bị mất giữa chuỗi dài những quen thuộc thường xảy ra.
Ước gì chúng ta giữ mãi thái độ tìm kiếm, một sự tìm kiếm không ở đâu xa, nhưng trong chính cuộc sống quen thuộc hàng ngày. Đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách ngạc nhiên đặt câu hỏi, chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.
2020
Phục vụ tha nhân
7.5 Thứ Năm
Ga 13, 16-20
PHỤC VỤ THA NHÂN
Trong khung cảnh Bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy các ông bài học yêu thương và phục vụ. Chúa Giêsu dạy tiếp một bài học rất cần cho các Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai đến là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy.”
Qua việc rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu dạy các ông về bài học phục vụ. Phục vụ không đơn thuần là làm việc này việc kia, nhưng trên hết là để nên giống Chúa Giêsu. Sự phục vụ không chỉ diễn ra trong vài ngày nhưng là cả cuộc đời. Để sống theo gương phục vụ của Chúa Giêsu, các môn đệ đã trải qua nhiều gian nan vất vả, nhiều hy sinh, thậm chí đến mức hiến dâng mạng sống của mình. Các ngài đã được hưởng hạnh phúc Nước Trời mà Chúa hứa ban. Hạnh phúc đích thực đã đến với các môn đệ khi họ tiếp nối sứ mạng phục vụ của Chúa Giêsu, hạnh phúc đó cũng sẽ đến với những Kitô hữu biết đáp lại lời mời gọi của Ngài: “Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc” (Ga 13, 17).
Ngày nay, hai chữ “phục vụ” không có gì xa lạ với mọi người. Trên các bảng hiệu, các trang web, chúng ta nhìn thấy rất nhiều lần chữ “phục vụ”. Đi kèm với những mức độ phục vụ sang trọng là chi phí càng cao. Trong khi đó, Chúa Giêsu muốn mỗi người Kitô hữu có tinh thần phục vụ vô vị lợi, phục vụ vì danh Chúa. Giữa những bận rộn của bổn phận và công việc, làm sao có cơ hội phục vụ mọi người như Chúa mời gọi?
Chúng ta biết rằng Thiên Chúa không đòi hỏi điều gì quá khả năng của chúng ta. Với tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn có thể chu toàn việc bổn phận với một thái độ mới mẻ: làm mọi việc cách chu đáo, hết mình không chỉ vì tiền lương nhưng để người khác được sử dụng những thành quả tốt nhất từ công việc của chúng ta. Chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc với người khác không chỉ vì công việc mà còn vì biết rằng họ là hình ảnh của Chúa. Qua những cử chỉ yêu thương, thái độ thân thiện, cách làm việc tận tụy, chăm chỉ, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô.
Bên các môn đệ thân tín, Chúa Giêsu đã trải lòng với các ông về những tâm tư của mình ; về những điều mà chính Ngài và các ông sẽ phải đối diện: Chúa Giêsu loan báo về sự phản bội của một môn đệ dù người này đã được tuyển chọn vào hàng những người thân tín. Thế nhưng chính ông lại phản bội Thầy mình: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”.
Trong khung cảnh của một giờ cùng chia sẻ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, Người đã nhắn nhủ các ông những lời lẽ chan chứa yêu thương. Các môn đệ cũng lắng nghe Chúa với cả con tim của mình. Hình ảnh này nhắc nhớ mỗi người chúng ta khi đến với Chúa Giêsu qua Thánh lễ, qua các giờ kinh hàng ngày, hàng tuần hay những phút giây ngắn ngủi bên Chúa Giêsu Thánh Thể, đó là những giây phút thân tình bên Chúa.
Cuộc gặp gỡ đó nhiều lúc chỉ hời hợt, thờ ơ trước Chúa. Có những lúc, ta chỉ mong sao Thánh Lễ cho nhanh, đọc kinh cho lẹ. Giây phút đó thoảng qua, không để lại một chút suy tư lắng đọng trong tâm hồn, nó phản ánh cái trống rỗng trong tâm hồn, một tâm hồn thiếu vắng Giêsu. Nhưng cũng nhiều lúc ta cảm thấy ấm áp, thân tình với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa dạy bảo.
Cuộc gặp gỡ này mang lại cho ta sự bình an trong tâm hồn, giúp ta nếm cảm được tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Những trải nghiệm của những phút giây gần gũi bên Chúa giúp ta biến đổi con người của mình nên con người mới. Cuộc gặp gỡ đó giúp ta sống thân tình hơn với tha nhân, nhìn tha nhân bằng cái nhìn cảm thông, yêu thương và dễ tha thứ.
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ đón tiếp những người được Chúa sai đến: “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Chúa Giêsu dạy các môn đệ hành động thật rõ ràng; để đón tiếp Chúa Cha, Đấng đã sai Chúa Giêsu đến với nhân loại, ta phải đón tiếp những người được Chúa Giêsu sai đến. Trong cuộc sống hàng ngày, đã nhiều lần ta gặp gỡ những người được Chúa sai đến.
Đó là những người ẩn trong hình dáng của tha nhân chung quanh ta: một người hành khất, một người hàng xóm nghèo khổ đang sống cạnh ta; một người vô gia cư, một người đang phải đối diện với căn bệnh hiểm nghèo… Ta có vui vẻ, trân trọng đón nhận tất cả những người Chúa gửi đến cho ta, cho ta được tiếp xúc, gặp gỡ hàng ngày. Ta cũng thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc với những người ta không thích, những người luôn gây cho ta những phiền toái, những người ta luôn đố kỵ, ghen ghét, những người ta luôn muốn tránh mặt. Trong sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa, Ngài đã không loại trừ ai ra khỏi quỹ đạo yêu thương của Ngài. Chúa luôn mời gọi ta mở lòng đón tiếp mọi người, những người được Chúa sai đến, để nên giống Chúa trong mọi sự.
Trong hoàn cảnh nào Chúa cũng luôn mời gọi ta nên giống Chúa, nên giống Chúa qua việc yêu thương tha nhân, nhất là những người Chúa gửi đến cho ta. Chúa muốn ta đón tiếp Chúa qua họ. Để có thể đọc được thông điệp đó của Chúa, có thể nhận ra Chúa nơi tha nhân, chúng ta hãy ở lại bên Chúa trong thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe những Lời Chúa dạy bảo, lắng nghe những chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống hàng ngày của ta.