2021
KHIÊM TỐN VÀ PHỤC VỤ
03Thứ Tư Tuần II Mùa Chay
– Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giu-se.
– Các bài đọc Lời Chúa: Gr 18,18-20; Mt 20,17-28.
KHIÊM TỐN VÀ PHỤC VỤ
Trên đường lên Giêrusalem (vì sắp tới lễ Vượt Qua là lễ mà mọi người Do Thái đến tuổi thành niên về Giêrusalem để tham dự), Chúa Giêsu tách riêng những môn đệ thân tín đi với Ngài. Ngài nói với các ông như lời tiên báo và cũng là lời tâm sự : “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án tử hình Người… bị nhạo báng, đánh đòn, đóng đinh…. và sẽ chỗi dậy” (c.18-19).
Đứng trước một tin động trời như vậy thế mà chẳng có môn đệ nào phản ứng, ngay cả Phêrô, Gioan… là những người đứng đầu bảng tuyên xưng niềm tin và được Chúa Giêsu thương mến. Hình như các ông chẳng quan tâm và cho rằng đó là chuyện của người nào đấy… và không dính dáng đến mình. Thánh sử còn nói rõ : đây là việc tiên báo về cuộc thương khó lần thứ ba của Chúa Giêsu. Thật vô tình quá ! Bài học này đã không được các môn đệ tiếp nhận.
Chúa Giêsu đang buồn rầu vì các môn đệ không hiểu bài học Ngài vừa truyền đạt, thì Ngài lại phải giải quyết một vấn đề khá quan trọng xảy ra với hai môn đệ thân tín của Ngài: Mẹ của Gioan và Giacôbê đến gặp Chúa Giêsu. Một bà mẹ như đoán trước thời cuộc. Thời lên ngôi của Chúa Giêsu nên bà vội vã đến quì lạy xin giành “chỗ nhất” cho hai đứa con yêu quí của bà được ngồi bên tả, bên hữu Chúa. (x. c.20-21)
Rất tiếc bà đã đi lệch hướng. Chúa Giêsu liền kéo bà và mọi người quay trở về đường lối của Thiên Chúa: “Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không ?” chẳng biết có hiểu “chén của Chúa” là cuộc tế hiến trên đồi Canvê của Ngài hay không, họ cũng đáp liều : Thưa uống nổi. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định rõ với họ: Môn đệ theo Thầy là phải giống như Thầy là uống chén đắng, nhưng còn việc ngồi ở đâu là do quyền Chúa Cha định đoạt. Ý nói : chúng ta được cứu độ không phải là do công trạng mình lập ra, nhưng là do lòng thương xót của Chúa.
Có lẽ mười môn đệ kia tức tối với hai anh em Giacôbê và Gioan là vì : mình không chạy nhanh, không tính toán bằng. Đó có thể là sự ganh tị… và Chúa Giêsu, nhân cơ hội này đã giảng một bài về phục vụ cho những người muốn làm thủ lãnh, làm đầu, làm nhất, làm lớn trong thiên hạ. Chúa trưng dẫn lối lãnh đạo theo Người đời : Lấy quyền thống trị, dùng uy cai quản (c. 25). Ngài khẳng định : Giữa anh em không được như vậy : làm lớn để phục vụ (c. 26). Làm đầu phải là đầy tớ (c. 27). Một lối sống đối nghịch với những gì người đời mong đợi.
Vào thời ấy, những ai nắm giữ quyền lực thì không kể gì đến người dân. Họ làm theo ý họ (xem Mc 6:27-28). Đế quốc La Mã kiểm soát thế giới và duy trì sự thuần phục của nó bằng sức mạnh khí giới, và trong cách này, nhờ vào việc cống nạp, sưu thuế, đã thành công trong việc tập trung của cải của dân chúng ở trong tay một số ít người tại Rôma. Xã hội được biểu thị bởi những đàn áp và lạm dụng quyền lực. Chúa Giêsu đã có một đề nghị hoàn toàn khác nhau. Người nói: “Giữa các con thì không được thế. Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con!” Chúa Giêsu truyền dạy tương phản lại đặc quyền và sự cạnh tranh. Người muốn thay đổi guồng máy và khẳng định sự thực rằng phục vụ là phương thuốc chống lại tham vọng cá nhân.
Đứng trước thái độ của các tông đồ, Chúa Giêsu đã lật đổ những mơ ước hão huyền của các môn đệ, làm cho giấc mộng công hầu khanh tướng mà các ông đang theo đuổi tan thành mây khói khi loan báo cái chết sẽ đến với Ngài. Đồng thời Chúa Giêsu cũng dạy cho các ông bài học về người làm đầu, làm lớn. Theo lẽ thông thường của thế gian, người làm vua quan, người làm lớn, làm đầu là người được người khác phục vụ, người có thể sai bảo người khác. Nhưng đối với Chúa Giêsu, người làm lớn, làm đầu phải là người phục vụ. Phục vụ đích thực chính là sống tron vẹn cho tha nhân, vì tha nhân, chứ không vì một tính toán lợi lộc trần gian nào. Phục vụ như thế là quên mình vì người khác theo gương Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu xác định sứ vụ và cuộc sống của mình: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ!” Người đã đến để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người. Người là Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, được loan báo bởi Tiên Tri Isaia (Is 42:1-2; 49:1-6; 50:4-9; 52:13 – 53:12). Người đã học được từ Mẹ của mình là người đã nói: “Vâng, đây là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38). Một điều đề nghị hoàn toàn mới mẻ cho xã hội thời đó.
Lời Chúa hôm nay thúc bách chúng ta xem xét lại động cơ theo Chúa để biết sống khiêm nhường hơn nữa. Nhiều khi điều chúng ta lớn tiếng hôm nay lại là điều ta làm không nổi sau này. Hơn nữa, dù đã đoan hứa với Chúa một lần thay cho tất cả, chúng ta vẫn phải lặp lại mỗi ngày quyết tâm theo Chúa trên con đường khổ nạn. Sống tinh thần của mùa Chay, ta cố gắng làm trọn điều phải làm hôm nay, dù khó khăn, ví dụ: không phàn nàn trong công việc bổn phận, xây dựng bầu khí vui tươi, tin tưởng nơi gia đình, cộng đoàn, xứ đạo…
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn biết đặt Chúa làm trọng tâm đời mình, để biết sống yêu thương, phục vụ Chúa và tha nhân trong vai trò và bậc sống của mình. Xin Người cũng giúp chúng ta ý thức được sự yếu đuối của mình để biết luôn cậy dựa vào Chúa trong một thế giới đầy rẫy những cám dỗ hưởng thụ này. Amen!
2021
ĐỪNG GIẢ HÌNH
ĐỪNG GIẢ HÌNH
Với cái nhìn của Chúa Giêsu, các luật sĩ và những người Pha-ri-sêu là những người chỉ sống theo vẻ bề ngoài: bề ngoài trên môi miệng, bề ngoài với việc làm, và bề ngoài trong tương quan với người khác. Ngang qua việc vạch rõ lối sống cụ thể của một nhóm người, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại chính bản thân mình, để nhận ra rằng, sống theo vẻ bề ngoài ở trong mọi lãnh vực, ở mọi nơi và ở mọi cấp độ, là một căn bệnh phổ biến và nan y của mọi người, trong đó có chính bản thân chúng ta.
Chúa Giêsu rất “nhạy cảm” với căn bệnh sống theo vẻ bề ngoài và đã nhiều lần nhắc nhở các môn đệ; và hôm nay trong bài Tin Mừng, Ngài lại tiếp tục cảnh báo “các môn đệ” và cả đám đông nữa về căn bệnh này ngang qua những con người cụ thể là luật sĩ và Pha-ri-sêu.
Thay vì phô trương, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực hành các việc đạo đức một cách kín đáo. Không phải để thi thố sự khiêm nhường, nhưng để trở nên giống Cha của mình là Thiên Chúa, Đấng hiện diện nơi kín đáo và hành động một cách kín đáo. Trong những lời chúng ta vừa trích dẫn, Chúa Giêsu dùng tới sáu lần từ “kín đáo”, trong đó năm lần được dùng để nói về Thiên Chúa Cha: Cha của anh hiện diện nơi kín đáo; Cha của anh thấy trong kín đáo. Như thế, Thiên Chúa, Cha của Chúa Giêsu, là “Đấng kín đáo” và Ngài mời gọi chúng ta cũng trở nên “những người con kín đáo” như Cha của mình.
Và chúng ta cứ nghiệm lại mà xem: Thiên Chúa hiện diện và hành động kín đáo biết bao trong sáng tạo, trong lịch sử loài người, nơi cuộc đời chúng ta và nhất là nơi Thập Giá của Chúa Giêsu. Chúng ta phải có ngũ quan biết chiêm ngắm, mới có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện, lên tiếng và hành động.
Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh vẻ bề ngoài của loài người chúng ta bằng lời nói, nhưng bằng chính cách sống nữa; như Ngài nói về mình: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng sự sống của mình”. Và phương thuốc tận cùng của Ngài là Thập Giá, nơi đó, vẻ bề ngoài của Ngài không còn là gì nữa: thân xác, danh dự, sự nghiệp, sự sống… Nhưng chính lúc đó Căn Tính đích thật của Ngài lại rạng ngời nhất. Như con rắn đồng xưa, ai nhìn lên Đấng bị đâm thâu, thì sẽ được chữa lành (Ds 21, 4-9; Ga 3, 14-15).
Ta thấy, Lời Chúa Giêsu không phải chỉ lên án những thái độ, hành động, cử chỉ, tâm tính của người Pha-ri-sêu, mà còn là “Lời Hằng Sống” , bởi vì Lời Chúa không bị giới hạn theo không gian và thời gian, mà là Lời Chân Lý.
Tâm tính “pharisieu” không chỉ ở những người Biệt Phái, mà là ở con người nhân thế mọi thời đại. Kể cả người nghèo và người giàu, người lao động bình dân hay tri thức. Trong cá tính con người đều có tính “Biệt phái”, dù là Quốc Gia nào, dân tộc nào, chúng ta đừng tường chỉ có dân tộc Do Thái. Ngay cả người Kitô Hữu ngày nay vẫn có “tâm tính Pha-ri-sêu”.
Ta thấy rằng căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa và Giáo Hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình?
Ví vậy, người bước theo Đức Kitô- Giêsu là người phải tự hạ, nghĩa là “loai bỏ” tâm tính Pha-ri-sêu”ra khỏi tính cánh của chúng ta. Như thế, chúng ta mời bước theo Đức Kitô trên mọi nẻo đường đời.
Phần thứ hai : Khiêm tốn tự hạ Thánh Martin de Poress, là vị thánh khiêm nhường, bởi vì câu Lời Chúa (Mt 23, 12) là câu Lời Cháu, mà thánh nhân đã sống triệt để. “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên. Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống “.
Thánh Vịnh 130 là đoạn Thánh Vịnh ngắn nhất, nhưng nói về sự khiêm nhường cách đầy đủ nhất.
Vâng, tất cả mọi hình thức đều qua đi, nghĩa là đều giả trá, chỉ duy có một mình Thiên Chúa mới tựa “núi đá” vững bền cho chúng ta tựa nương.
Tin Mừng hôm nay, (Mt 23, 1 -12) Chúa Giêsu cho chúng ta chân lý đó.
Theo đó, Lời Chúa hôm nay có thể có hai ý chính:
Thứ nhất : Chúa Giêsu lên án những người biệt phái Pha-ri-sêu (câu 2 – 7)
Thứ hai : Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng theo cách giả hình của họ. ( câu 8 -12)
Chúng ta thấy, phần thứ nhất và phần thứ hai “tương phản” nhau rõ rệt, phần thứ nhất, Chúa Giêsu chỉ rõ những hành vi “tự đắc” của những “ráp-bi” Do Thái, họ thích khoe khoang, và mang tính cao ngạo, đức tính nầy hình như không chỉ riêng những” ráp -bi” Do Thái, mà dường như là nhân tính phàm nhân khi hấp thụ một “dạo đức” xã hội. Từ đó, chúng ta thấy con người nhân thế khi có của, có tiền, có địa vị xã hội, hoặc học thức thường xem thường đồng loại của mình.
Tin Mừng hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong Giáo Hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả những ai mang danh Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ như thế? Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người Kitô hữu.
2021
YÊU THƯƠNG DẬP TAN HẬN THÙ
27/2 Thứ Bảy trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
St 26:16-19; Tv 119:1-2,4-5,7-8; Mt 5:43-48
YÊU THƯƠNG DẬP TAN HẬN THÙ
Đọc Tin Mừng, ta thấy những giá trị đích thực trong giáo huấn yêu thương và công bằng của Chúa Giêsu:
Thời Cựu ước, luật yêu thương được hiểu là không hại người anh em, phải yêu thương đồng loại “ngươi không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (LV 19, 18).
Và ta thấy trong sách Huấn Ca, tác giả cũng nhắc nhở dân rằng không được oán hờn, giận dữ anh em mình, vì nến ghét đồng loại. Nhìn chung, trong Cựu ước luật yêu thương là yêu thương những người đồng bào –nghĩa là những người Do Thái. Còn những người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương và cũng không được giúp đỡ; phải tránh xa (Đnl 20, 13-17; 23, 4-5; 25, 17-19). Luật công bằng cũng hiểu là: “mắt đền mắt, răng đền răng”.
“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những “anh em” được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Chúa Giêsu rất thông hiểu về luật lệ Do Thái, có lẽ chính vì hiểu rất rõ những điều còn thiếu sót trong luật lệ Do Thái, nên Chúa Giêsu đã kiện toàn và làm trọn vẹn Luật Yêu Thương một cách độc đáo và triệt để. Các con cũng đã nghe dạy rằng: ‘Hãy yêu thương tha nhân, và ghét thù địch’. Còn Thầy, Thầy bảo các con: ‘Các con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con’” (Mt 5,43-44). Thánh Phaolô cũng tiếp lời giáo huấn của Chúa Giêsu khi nói: “Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ… Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát hãy cho nó uống. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ” (Rm 12:14, 20-21).
Và ta thấy Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu nguyện cho kẻ thù nữa, bởi vì: “Cha các con ở trên trời, là Ðấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”. Ngài mời gọi các môn đệ hãy tha thứ vô điều kiện: “Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7”.
Giáo luật yêu thương của Chúa Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Luật yêu thương của Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù.
Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan và tránh được vòng luẩn quẩn của bạo động và chiến tranh. Chọn lựa con đường bất bạo động không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay là chọn lựa của kẻ yếu thế, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý; chọn lựa con đường bất bạo động, và không trả thù là sự am hiểu thấu đáo và lòng tin tưởng rất lớn nơi khả năng yêu thương và được yêu thương tận đáy thâm sâu của mỗi con người; chọn lựa con đường yêu thương hòa bình đòi hỏi sự kiên nhẫn, chấp nhận chịu thua thiệt, bị đàn ác…nhưng có thể mở ra một chuyển đổi mới cho một trật tự mới.
Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ: “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Đó là một chân lý! Đức Khổng Tử cũng đã dạy học trò: “Dĩ đức báo oán”, nghĩa là phải làm điều tốt để đáp lại điều xấu của kẻ thù của mình. Đức Phật Thích Ca suốt đời tìm cách giải thoát con người khỏi đau khổ, cũng dạy các đệ tử như sau: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan”.
Và Thánh Gandhi của dân tộc Ấn độ, đã nêu ra học thuyết “bất bạo động” làm phương thế đấu tranh và đã giải phóng được nước Ấn thoát khỏi ách khỏi ách thống trị của thực dân Anh, cũng nói như sau: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ cho nhau”. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác.”
Học biết yêu thương, tha thứ và hơn nữa là cầu nguyện cho kẻ thù là điều chắc chắn không đơn giản, nhưng không có nghĩa là không làm được. Chúa Giêsu đã làm điều đó và cũng nhiều môn đệ của Chúa Giêsu đã noi theo. Xin Chúa cho mỗi người chúng con mỗi ngày biết học nơi Chúa giáo luật biết yêu thương và cầu nguyện cho người khác-ngay cả những người xem ra đối kháng, chống đối và thậm chí bách hại chúng con.
2021
CHÍNH KHI THỨ THA LÀ KHI …
26/2 Thứ Sáu trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
Ed 18:21-28; Tv 130:1-2,3-4,4-6,7-8; Mt 5:20-26
CHÍNH KHI THỨ THA LÀ KHI …
Trong xã hội, công lý và luật pháp buộc tội khi một người nào đó phạm tội bằng hành vi cụ thể. Giết người, dù ở thời nào và ở đâu đều là tội nặng.
Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay còn vượt trên công lý và luật pháp nữa. Nói khác, luật Chúa thì đi xa hơn, vì Chúa ngăn chặn ngay từ nguyên nhân, nguồn gốc đưa đến sự phạm tội.
Chính vì lẽ đó, “Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị tòa án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục” (Mt 5,22).
Và nnhư vậy, để khỏi bị Thiên Chúa luận phạt, chúng ta phải có lòng quảng đại tha thứ. Tha thứ là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: “Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ” (Mt 5,23-24)
Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Người môn đệ được Chúa mời gọi phải sống công chính hơn những người biệt phái. Người biệt phái giữ luật rất chu đáo và tỉ mỉ và không bỏ sót một điều luật nào trong các khoản luật đã được đề ra, nhưng đáng tiếc là họ giữ luật một cách máy móc và hình thức, giữ luật chỉ vì luật mà không đi vào chiều kích nội tâm. Chúa Giêsu biết rõ cách sống và giữ luật của họ.
Chính vì thế, Ngài căn dặn các môn đệ của Ngài giữ các lề luật với tâm tình yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người khác như chính mình. Luật yêu thương mà Chúa Giêsu truyền dạy cần thực hiện cách cụ thể là sống hòa thuận và biết tha thứ: “Vậy, nếu khi anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh em, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23 – 24). Lễ vật cao quý và đẹp lòng Thiên Chúa nhất, đó là cuộc sống đong đầy tình yêu, vì thế để có của lễ đẹp lòng Thiên Chúa thì chúng ta phải sống chan hòa tình yêu thương với anh em mình, yêu thương phải phát xuất từ chính trong tâm của mình, không hời hợt bên ngoài, hay ở đầu môi chót lưỡi.
Trong cuộc sống của mỗi người, không thiếu những lúc người khác làm cho chúng ta khó chịu, bực mình, không thiếu những lúc chúng ta sống khó hòa hợp với người khác, nhưng Chúa dạy chúng ta phải đi bước trước đến với tha nhân, đi bước trước đến với người nói hành nói xấu ta, đi bước trước đến với người làm ta đau khổ, với tính xác thịt con người thật là một điều quá khó, nhưng với tình yêu mến Chúa và trong tình mến, người môn đệ sống đức công chính Chúa dạy chúng ta hãy noi gương Chúa, khi ta chiêm ngưỡng hy lễ tuyệt hảo của Chúa Giêsu trên Thánh Gía, khi chung quanh Thánh Gía đông vô kể những người bất bình, những người sỉ nhục Chúa, cả những người đóng đinh và coi thường Chúa : “Ông có phải là Thiên Chúa thì hãy tự xuống khỏi thập giá đi”, họ đang vui vẻ và hả hê cười nói, vì đã giết được Chúa, thì chính lúc đó Chúa dạy một bài học yêu thương và tha thứ cao tột đỉnh, Chúa ngước mắt lên trời và thưa cùng Chúa Cha: “Lạy Cha xin tha cho họ”. Chính bài học này đã dạy chúng ta tha thứ không phải là nhát đảm mà là anh hùng, tha thứ không phải là thua thiệt mà được gấp ngàn lần.
“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người, ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5, 21). “Chớ giết người” đó là một điều luật đã có từ thời Cựu ước và đến thời Tân ước Chúa Giêsu đã kiện toàn luật này một cách trọn hảo hơn, không phải chúng ta chỉ lo tránh giết người, mà còn phải sống với mọi người trong bầu khí chan hòa tình yêu thương, và phải tránh không phẫn nộ, không chửi mắng người anh em, và trong tư tưởng không có ác ý hại người, không có ý dèm pha chỉ trích, không loại trừ người anh em khi người anh em có tội. Chúa Giêsu cấm ngay từ trong trứng nước, ngay từ trong tư tưởng của người môn đệ Chúa, phải giữ trọn lề luật với tâm tình yêu thương, thương người như chính bản thân mình.
Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”
Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không?
Ta thấy trong thực tế cuộc sống : tha thứ là cách chúng ta hàn gắn lại những vết thương lòng cho mình và cho tha nhân. Tha thứ cũng là cách để bắt đầu lại tương quan tốt đẹp chúng ta với anh chị em mình.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết giữ tâm hồn, môi miệng cẩn trọng để khỏi sa vào tội “giết người không gươm” và nhất là chúng ta biết yêu thương và tha thứ cho nhau, như Chúa đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta.