2023
Chia sẻ niềm vui Cứu Độ
Ngày 21 tháng 12
Màu tím. Thứ 5, tuần 3, Mùa Vọng. Các bài đọc: Dc 2,8-14 hoặc Xp 3,14-18a; Lc 1,39-45. Thánh Phêrô Canixiô, Linh mục, tiến sĩ Hội thánh.
Chia sẻ niềm vui Cứu Độ
Tin Mừng cũng thuật lại cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.
Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt mục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.
Câu chuyện Tin Mừng chúng ta vừa nghe ghi lại hành trình Mẹ Maria viếng thăm người chị họ của mình là Ê-li-sa-bet sau khi được biết bà đã mang thai trong lúc tuổi già người vốn bị coi là son sẻ. Nhưng có lẽ đó chỉ là bề nổi của trình thuật mà thôi, điều quan trong chính là cuộc gặp gỡ của hai đứa trẻ vẫn đang còn trong bụng mẹ: một là Giê-su, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ nhân loại, còn trẻ kia được chọn làm tiền hô và người dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Qua cuộc viếng thăm, Đấng Cứu Độ đã thực hiện cuộc gặp gỡ mang tính cứu độ đầu tiên với Gioan Tẩy Giả và Ê-li-sa-bet mẹ của ông. Cuộc gặp gỡ đầy niềm vui khiến Gioan Tẩy Giả nhảy mừng trong lòng mẹ và lan tỏa sang người mẹ, để đến lượt bà cũng được đầy tràn niềm vui của Thánh Thần, niềm vui cứu độ. Hành trình này khởi đầu cho một hành trình của Đấng Cứu Độ mang Tin Mừng Cứu Độ, Tin Mừng Nước Thiên Chúa đến cho mọi người
Sự có mặt của Mẹ Maria nơi căn nhà của bà E-li-sa-bét chốn miền núi xa xôi đã nói lên tình yêu mau mắn và sẵn sàng lên đường để đem hạnh phúc, sự giúp đỡ, niềm an ủi cho tha nhân của Mẹ.
Khi vừa nghe tin chị họ mang thai, Mẹ đã “vội vã lên đường”, không một chút chần chờ. Nếu xét theo góc độ của con người bình thường, thật dễ dàng để thấy hành động này của Mẹ Maria là một sự bồng bột và thiếu suy nghĩ. Bởi khi ấy, Maria vẫn còn là một thiếu nữ bé nhỏ, vậy mà lại dám quyết định lên đường đến một vùng núi, lại còn xa xôi nữa. Ấy là chưa kể khi ấy Maria lại còn đang mang thai, có biết bao cái “lỡ chẳng may” có thể sẽ xảy đến cho Mẹ trong hành trình này.
Đến đây, có lẽ chúng ta phải khựng lại mà thừa nhận một điều rằng: dường như trong cuộc sống, chúng ta đã ít nhiều chần chờ, ngập ngừng trước các nhu cầu của tha nhân bởi cân nhắc quá nhiều; hoặc cũng sẽ từ chối giúp đỡ nếu điều ấy tổn hại đến lợi ích của ta, khiến ta phải thiệt hại.
Sự liều lĩnh của Mẹ Maria xuất phát từ tình yêu thao thức và quan tâm hết lòng, luôn đặt các nhu cầu của tha nhân trên bản thân mình, và đó như là một phản xạ tự nhiên của Mẹ vậy. Đọc Tin Mừng, ta thấy trong suốt cuộc đời của Mẹ, dù là khi đối mặt với những điều lạ lùng khó tin hay trước những điều vượt quá trí hiểu, ngưỡng chịu đựng của con người, thì tiếng xin vâng của Mẹ luôn được cất lên như một lẽ đương nhiên. Bởi đâu Mẹ có thể như thế? Chính đức tin và lòng phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa đã khiến cho một Maria yếu đuối phàm trần trở nên phi Đời người Kitô hữu là một hành trình trong đức tin. Hành trình nào cũng có khởi điểm và đích điểm. Cũng như Đức Maria đã tiến lên đường sau khi cưu mang Chúa Giêsu, người Kitô hữu cũng khởi đầu cuộc hành trình bằng sự sống Thiên Chúa đã được thông ban qua Bí tích Rửa tội.
Cưu mang sự sống mới, người Kitô cũng vội vã ra đi đem niềm vui cho người khác, đó là tất cả sứ mệnh và ý nghĩa của đời sống đức tin. Người cưu mang Đức Kitô phải ý thức rằng đạo của họ là đạo Tin mừng, đường của họ là đường của rộn rã, vui tươi.
Điểm đến của cuộc hành trình dĩ nhiên là cuộc sống vĩnh cửu, nhưng cuộc sống này cũng chỉ là một cuộc gặp gỡ nối dài những gặp gỡ mà con người đã thực hiện trong cuộc sống tại thế. Điểm đến ấy sẽ không đến với những ai đã chối bỏ gặp gỡ người anh em trong cuộc hành trình tại thế.
Khi bước ra vùng đất an toàn của mình, Mẹ chấp nhận mọi gian khổ và nguy hiểm có thể xảy ra. Mẹ Maria là người can đảm, sẵn sàng từ bỏ, quên mình để người khác được vui, được hạnh phúc. Mẹ vượt qua mọi gian khổ bởi có Chúa ở trong cung lòng. Với Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi noi gương bắt chước Mẹ biết hy sinh quảng đại đem chia sẻ niềm vui Tin Mừng đến cho người khác. Muốn thế, trước hết chúng ta phải là người khiêm tốn mở lòng đón Chúa ngự đến trong tâm hồn. Chính khi trái tim chúng ta mở rộng đón nhận tình yêu của Chúa, thì cùng lúc chúng ta cũng dễ dàng ra khỏi chính mình, quảng đại vô vị lợi để chia sẻ niềm vui ấy với người khác.
Mùa vọng là mùa của cưu mang, của cất bước ra đi. Chúng ta hãy để Đức Kitô lớn lên trong tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy ra đi đến với người khác. Cùng với Đức Kitô, chúng ta hãy biến mọi gặp gỡ hằng ngày thành những trao đổi của yêu thương, phục vụ, quên mình, tha thứ và vui tươi.
2023
Vâng theo ý Chúa
Ngày 20 tháng 12
Màu tím. Thứ 4, tuần 3, Mùa Vọng. Các bài đọc: Is 7,10-14; Lc 1,26-38.
Vâng theo ý Chúa
Tin Mừng hôm nay giới thiệu nhân vật quan trọng trong việc Chúa Cứu Thế sinh ra: Đức Maria.
Thánh Luca trình bày Đức Maria là “Thiếu nữ Sion” (Câu “mừng vui lên” là âm hưởng của lời ngôn sứ Xôphônia nói với thiếu nữ Sion: xem Xp 8, 14). Ngày xưa qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa hứa sẽ đến ở nhà “thiếu nữ Sion” (tức là dân Chúa). Lời hứa này hôm nay được thực hiện nơi Đức Mẹ.
So sánh Đức Maria với ông Dacaria: khi được báo tin sẽ có con, cả Dacaria và Đức Maria đều thắc mắc hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự không tin (câu 20: Lời thiên sứ nói “Bởi vì ông không tin”). Còn câu hỏi của Đức Maria là để xin soi sáng thêm (“việc ấy xảy đến thế nào?”), và sau đó Người đã mau mắn thưa Fiat.
Theo Kinh Thánh, trinh nữ Maria đã đính hôn cùng thánh Giuse và hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Cùng hòa chung với toàn dân, Maria cũng luôn khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế đến với Dân Người.
Bỗng nhiên, Maria đón một vị khách lạ đến, vị khách đó chính là Sứ thần Gabriel mang một sứ điệp từ trời cao làm thay đổi cả cuộc đời Maria: Nàng được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế. Giữa những bối rối của bản thân: Quyết tâm tận hiến cho Thiên Chúa như ước mơ cuộc đời hay trở nên một người mẹ theo thánh ý của Thiên Chúa ? Maria đã đặt đời mình trong niềm tin và vâng phục hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Dù chưa sáng tỏ sự việc nhưng Maria vẫn tín thác xin vâng: “…tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Sự vâng phục trọn vẹn trong đức tin của Maria là một thái độ sẵn sàng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Sự vâng phục như tỏ lộ ý chí của Maria: “Điều gì Chúa nói, tôi tin và tôi luôn xin vâng”. Tin và tuân theo thánh ý của Thiên Chúa, Maria học biết trước tinh thần của Đức Cứu Thế muốn nơi dương gian mà Ngài đã thực hiện “Xin ý Cha được thực hiện” (Mt 26,39).
Chính thái độ hoàn toàn vâng phục trong đức tin là tâm tình chờ đón Chúa đến mà Maria đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của một người trinh nữ tận hiến gặp gỡ thiên ý và trở nên người Mẹ Đấng Cứu Thế luôn tin và vâng phục.
Tâm tình và thái độ khiêm nhu trước Thiên Chúa của Mẹ, đốt lên ngọn nến để chờ đợi sẵn sàng đón Chúa. Ngọn nến soi tỏ chúng ta sống tâm tình tin và vâng phục: Bản ngã và cuộc sống của mình tan hoàn toàn trong thánh ý Thiên Chúa. Sống tâm tình chờ đợi là sống trong ánh sáng của niềm tin. Tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Không có niềm tin cuộc đời như một đêm tối không ánh sao. Tin sẽ mang đến niềm vui. Tin là sức mạnh cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng như Maria vui tươi hy vọng vào Thiên Chúa biểu lộ qua bài ca Magnificat và tinh thần phục vụ (x. Lc 1,39-56).
Đức Mẹ trở thành Nữ Tỳ Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận lời “xin vâng” với Thiên Chúa là vì Mẹ nhạy bén với ơn Chúa đã được loan báo từ trong thời Cựu Ước. Mẹ cũng khiêm tốn khi thấy điều này là kế hoạch đến từ Thiên Chúa chứ không phải do con người, nên Mẹ đã “xin vâng” để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.
Khi biết đó là chương trình của Thiên Chúa, tuy dù tương lai phía trước còn nhiều phiêu lưu, nhưng Đức Maria đã vâng phục trong khiêm hạ, điều đó khiến cho Cô bình an: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1,30).
Người ta bối rối khi đứng trước những điều bất ngờ, ngoài dự tính, không biết chọn lựa làm sao. Ai cũng muốn nắm được tương lai của mình, nhưng tương lai thì làm sao nắm được! Người ta muốn bảo đảm cho tương lai bằng tài sản trữ sẵn và do đó, tập chú vào việc tìm kiếm và bảo vệ cho khối tài sản này; hoặc người ta lên chương trình trước, nhưng theo cách thức gạt bỏ mọi yếu tố khác chen ngang vào khi thực hiện!
Niềm tin và sự ngạc nhiên đặt nơi Thiên Chúa mời gọi tín hữu sống trong thái độ mở. Mở ra, suy nghĩ để xem Thiên Chúa đang dẫn dắt mình đi như thế nào. Tin tưởng để sẵn sàng bước theo chương trình đó, dù còn có những phiêu lưu. Nhưng chính thái độ thứ hai này mới mang lại cho người ta sự bình an.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng, phó thác cuộc đời cho Chúa như Đức Mẹ. Khiêm tốn để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn và sinh hoa trái trong cuộc sống của chúng ta. Sống trung thành với Chúa dù có phải gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Can đảm đón nhận thánh ý Chúa và trung thành với Thiên Ý.
Xin Chúa cho ta luôn biết nhìn lên Mẹ Maria như mẫu gương đời sống đức tin. Mẹ đã đón nhận ý Chúa một cách vô điều kiện, thưa hai tiếng xin vâng. Mẹ đã hoàn toàn tín thác trong vòng tay uy quyền và đầy yêu thương của Chúa. Nói theo lời của Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI: trong đức tin, Mẹ đã bước liều trong hy vọng.
2023
CHÚA VẪN ĐOÁI THƯƠNG
Ngày 19 tháng 12
Thứ 3, tuần 3, Mùa Vọng. Các bài đọc: Tl 13,2-7.24-25a; Lc 1,5-25.
CHÚA VẪN ĐOÁI THƯƠNG
Thời vua Hêrôđê, có vị tư tế tên là Giacaria và vợ là Elizabeth. Cả hai là người công chính, nhưng đã già mà không có con. Một hôm ông Dacaria ‘trúng` thăm vào cung thánh dâng hương cho Chúa. Đang lúc dâng hương ông thấy Thiên thần hiện ra báo cho ông biết: Chúa đã nhận lời ông cầu nguyện, vợ ông sẽ mang thai và sinh con trai đặt tên là Gioan. Người này sẽ nên cao trọng, sống khắc khổ, sẽ dọn đường cho Chúa Cứu Thế.
Ta thấy chính lúc thất vọng thì Thiên Chúa lại trao ban niềm vui cho gia đình Dacaria. Ông Dacaria đã được sứ thần Chúa báo tin vui về đứa con sắp chào đời của mình. Đứa con sẽ có tên là Gio-an, nghĩa là Thiên Chúa thi ân. Tuy nhiên, ông không tin vào lời sứ thần Chúa, vì ông không còn hy vọng về đứa con: “Tôi đã già, vợ tôi cũng đã cao niên”.
Ông Dacaria đại diện cho Cựu Ước. Ông tin, nhưng đức tin của ông yếu ớt. Sau khi thiên thần gặp ông, ông vẫn bị câm, không có khả năng thông tri với người khác. Phương cách mà chương trình cứu độ, được biết bởi ông Dacaria, cách mà đã được mặc khải cho đến lúc ấy, đã tận dụng mọi khả năng của ông, trong khi Thiên Chúa đã bắt đầu một giai đoạn mới cùng với Đức Maria.
Trong lời loan báo của thiên thần được thể hiện với tất cả tầm quan trọng của sứ vụ về một hài nhi sẽ được sinh ra và con trẻ sẽ được gọi là Gioan: “con trẻ sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ”,có nghĩa là, ông Gioan sẽ là một người hoàn toàn tận hiến cho Thiên Chúa và sứ vụ của mình. “Trẻ này sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ này sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Êlia, để hướng lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngỗ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị”, có nghĩa là, nơi con trẻ Gioan sẽ xảy ra lòng kỳ vọng trở lại của tiên tri Êlia, đấng sẽ phải đến để tái thiết lại đời sống cộng đoàn: để hướng lòng dạ cha ông về lại với con cháu và kẻ ngỗ nghịch về
Và sứ thần Chúa đã giải thích cho ông để ông có thể nhớ lại những điều cao cả mà Thiên Chúa đã làm, chẳng hạn như cho ông Ab-ra-ham có được người con khi tuổi đã già… Sau đó ông đã bị câm, và đó như là một hình phạt bởi sự nghi ngờ. Còn bà Ê-li-sa-bét thì đã ẩn mình một thời gian và xác tín “Chúa đã làm cho tôi như thế này, trong những ngày Người đoái thương, cất nỗi khổ nhục tôi khỏi người đời”.
Gio-an đã chào đời bởi Thiên Chúa thi ân. Tôi cũng đã được hình thành trong bụng mẹ, cũng được chào đời, làm người, làm con Chúa… Tất cả là nhờ ơn huệ của Chúa. Quả là không có gì nằm ngoài chương trình của Chúa.
Chúng ta thấy những phụ nữ son sẻ trong thời Cựu ước: bà Sara, bà Rebecca, bà Rakhen, mẹ ông Samson, hay mẹ ông Samuel và Elizabeth, đã được Chúa ban những người con và những người con của họ đều là những người đã được Thiên Chúa chọn và dùng vào trong công trình vĩ đại của Ngài. Điều đó cho chúng ta nhận ra: trong sự bất lực của con người thì Thiên Chúa lại tỏ bày quyền năng của Ngài. Chẳng phải trong biến cố truyền tin, sau khi nói lời của Thiên Chúa, thiên thần Gabriel đã nói: “không có gì mà Thiên Chúa không thể làm được” hay sao! Thiên Chúa sẽ làm, sẽ thực hiện nếu con người sẵn lòng cộng tác vào kế hoạch của Ngài.
Tin mừng giới thiệu hoàn cảnh sinh ra nhân vật thứ hai sẽ dọn đường cho Chúa Cứu Thế: Gioan Tiền Hô.
Ông Dacaria và bà Êlisabét được trình bày theo hình ảnh của những tổ phụ thời Cựu Ước: công chính, tuân giữ mọi đều răn và mệnh lệnh Thiên Chúa, nhưng son sẻ và cao niên cũng như Abraham, Sara; cha mẹ của Samson; cha mẹ của Samuel… Do đó có thể nói hai ông bà là đại diện cho Cựu Ước.
Đứa con mà họ sẽ sinh ra cũng là đại diện của Cựu Ước: Gioan được mô tả như các ngôn sứ, được Thiên Chúa gọi ngay từ lòng mẹ, chính Thiên Chúa đặt tên cho, rượu lạt rượu nồng đều không uống, đầy Thần Khí và uy quyền của ngôn sứ. Gioan sẽ thay mặt Cựu Ước để giới thiệu Đức Giêsu của Tân Ước.
Việc sinh con trong hoàn cảnh son sẻ tuổi già của các nhân vật Cựu Ước và của vợ chồng Dacaria chuẩn bị cho cuộc sinh ra đặc biệt của Chúa Giêsu, bởi vì “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37)
Dacaria bị câm nín một thời gian sau đó hát lên bài ca nổi tiếng Benedictus. Đời sống đạo của ta cũng có thể có nét gì tương tự như vậy. Sau những thử thách, sau những gian khổ nghiền ngẫm, sau mùa đông… Sẽ là niềm hân hoan an bình, sẽ là bài ca chúc tụng, sẽ là những bông hoa tươi đẹp… nếu ta biết vững niềm tin cậy phó thác vào tình thương của Chúa.
“Một sứ thần hiện ra với Dacaria và bảo: “Bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan.” Dacaria thưa rằng: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy ? Vì tôi đã già mà nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (Lc 1,13.18)
Thánh Gioan Tẩy Giả đã được sinh ra trong thời kỳ ông Dacaria và bà Ê-li-da-bét đã cao niên và son sẻ. Chính Chúa đã can thiệp. Chúa cũng hằng ngày can thiệp vào cuộc sống của ta để ta sinh hoa trái trước mặt Chúa.
2023
Đấng Emmanuen
Ngày 18 tháng 12
Thứ 2, tuần 3, Mùa Vọng. Các bài đọc: Gr 23,5-8; Mt 1,18-24.
Đấng Emmanuen
Tin mừng hôm nay giới thiệu nét thứ hai của Chúa Cứu Thế sắp sinh ra: Ngài là Emmanuel, Thiên Chúa ở với loài người (C.23). Tin mừng cũng giới thiệu một người đóng vai trò tích cực cho việc Ngài sinh ra: Thánh Giuse.
Phần đóng góp của Thánh Giuse vào công trình nhập thể của Chúa Giêsu là:
Cho Chúa Giêsu một tư cách pháp lý là con cháu Đavít, nhờ thế thực hiện đúng lời Thiên Chúa đã hứa xưa từ thời Cựu Ước C.20b: “Này ông Giuse, là con cháu Đavít”; C.21 “Ông sẽ đặt tên cho con trẻ”: Thánh Giuse đặt tên cho Chúa Giêsu nghĩa là nhận Chúa Giêsu là con mình theo pháp lý.
Bao bọc Đức Maria và Chúa Giêsu: C.20c “Đừng ngại đón Maria về; c.24 “Khi tỉnh giấc, Giuse làm như lời sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”; c.25 “Và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu.”
Tin mừng cho chúng ta biết: Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse… Vì cả hai đã khấn giữ mình thanh khiết, nên không chung sống với nhau. Nhưng Maria lại có thai, nên thánh Giuse buồn sầu định lén bỏ đi. Chúa liền sai Thiên thần đến báo cho ông biết: Maria mang thai là do phép Đức Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, phải đặt tên là Giêsu. Đây là Đấng Cứu chuộc nhân loại, là Đấng mà các tiên tri đã loan báo và gọi là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Thánh Giuse đã làm đúng như lời Thiên thần truyền, ông tiếp nhận Maria và khi bà sinh con thì đặt tên là Giêsu.
Về ý định ban đầu, Thánh Giuse muốn bỏ đi cách âm thầm kín đáo, các chuyên viên Thánh Kinh còn chưa nhất trí nhau ở một số chi tiết. Nhưng mọi người đều nhất trí về động cơ hướng dẫn mọi hành động của thánh Giuse (ý định ban đầu, và quyết định ở lại sau đó), đó là vì “Giuse là người công chính.” Một giải thích rất đáng lưu ý là: Ban đầu, Giuse biết mình không phải là cha của đứa bé nên vì công chính mà không dám nhận quyền làm cha, bởi đó định âm thầm ra đi (Công chính=không xâm phạm quyền lợi của người khác); sau đó khi biết ý Thiên Chúa muốn mình bảo bọc Đức Maria và Chúa Giêsu thì, cũng vì công chính nên Ngài đã ở lại (Công chính=thi hành ý Thiên Chúa).
Kinh thánh gọi Giuse là người công chính: “Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).
Chúng ta biết, nơi người Do thái, không phân biệt rõ thời kỳ đính hôn và cưới hỏi. Mặc dù chưa cưới, hai người đã đính hôn cũng có thể ăn ở như vợ chồng mà không có lỗi gì đối với lề luật. Do đó, người ta thấy vị hôn thê có thai, thì chỉ một mình vị hôn phu có thể phán đoán trong việc đó là có tội hay không. Như vậy, thánh Giuse có thể hành động bằng hai cách: hoặc là tuyên bố theo sự hiểu biết tự nhiên của mình là Maria đã phạm tội ngoại tình, và như thế Maria mất thể diện hoàn toàn; hoặc là để mặc cho người ta tin rằng: ngài là cha của đứa bé sắp sinh. Giuse chọn giải pháp nào ?
Đang phân vân lo nghĩ không biết xử trí ra sao thì Thiên Chúa báo mộng cho ông: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Ông Giuse được báo mộng và ông yên tâm nhận Maria làm vợ. Việc này thường xảy ra trong Cựu ước khi Thiên Chúa muốn truyền cho ai một điều gì. Vậy hôm nay, việc báo mộng cho Giuse là cách thức Thiên Chúa dùng để tỏ ra thánh ý của Ngài về việc thụ thai đồng trinh của Đức Maria.
Hài nhi sinh ra sẽ được gọi là Emmanuel nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp con người xấu xa tội lỗi, nghèo nàn, túng thiếu, khổ sở… Thiên Chúa làm người đã vui lòng chia sẻ thân phận với người trần thế. Ngài muốn cho ngày Giáng sinh trở thành ngày Đấng Tối Cao xa lạ trở thành thân quen, thành bạn hữu con người, để kêu gọi con người hãy nhận nhau là anh em, là bạn hữu.
Chúa Giêsu là Đấng Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương loài người, Ngài đã nhập thể sống chung với loài người, bất chấp mọi nghèo nàn, túng thiếu, hèn hạ, khổ sở… Yêu thương là chia vui sẻ buồn, chia sẻ thân phận…
Emmanuel “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”: Chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đức Giêsu Kitô. Muốn cứu người, không phải chỉ đứng xa chỉ tay năm ngón, hoặc vẽ kế hoạch rồi cho người khác thực hiện. Nhưng là chia sẻ thân phận, đồng hành, và cuối cùng là chịu thiệt vào thân, leo lên cây Thập Giá. Thập Giá là bước cuối cùng của nhập thể và nhập thế của Chúa Giêsu Kitô. Lạy Chúa, xin dạy con biết dấn thân phục vụ như Chúa.
Thiên Chúa là Đấng Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở giữa loài người để yêu thương và ban ơn cứu độ. Ngài mời gọi ta cùng thực hiện kế hoạch này theo gương Đức Maria và thánh Giuse.