2024
CHO TRỌN NIỀM VUI
11.5Thứ Bảy trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 18:23-28; Tv 47:2-3,8-9,10; Ga 16:23-28
CHO TRỌN NIỀM VUI
Để được hạnh phúc có con thơ, người mẹ phải trải qua những giây phút đau đớn lúc sinh nở. Người Kitô hữu cũng phải can đảm chấp nhận cùng chịu đau khổ với Chúa, mới hy vọng có niềm vui được chia sẻ sự sống lại với Chúa.
Muốn có được niềm vui đích thực, người kitô hữu phải có cuộc gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Trong lúc truyện trò thân mật với các môn đệ trước khi bước vào cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã ân cần căn dặn: “Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15, 9-11).
Niềm vui của người kitô hữu là một cảm nghiệm chân thực khi đáp lại lời mời gọi ở lại trong tình thương của Chúa. Ở lại là gắn kết, là lắng nghe và thấu hiểu. Ở lại để chia sẻ mọi niềm vui nỗi buồn. Ở lại trong Chúa cũng chính là để sống mãi trong tình yêu thương. Đức Giêsu ở lại trong Chúa Cha là thi hành trọn vẹn ý muốn của Cha, là đón nhận mọi khổ đau để đưa nhân loại tiến về miền đất hoan lạc hạnh phúc.
Từ thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã diễn tả rất sống động niềm vui của ngày Chúa đến. Đó là ngày “Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi. Rằng: Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên nhà Thiên Chúa của Giacóp, để Người dạy ta biết lối của Người, và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ” (Is 2, 2-3). Sự hiện diện của Chúa làm náo nức lòng người. Mọi chiến binh ngừng chiến, họ lấy gươm đao vũ khí đúc thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Đức Chúa đến đem lại cảnh hòa bình thịnh vượng, mọi người không còn vung kiếm sát hại nhau. Niềm vui ơn cứu rỗi tràn đầy trong thời Thiên Sai khiến mọi tạo vật cùng cất tiếng ca: “Trời hãy reo hò, đất hãy hân hoan, các núi non hãy bật tiếng reo cười, vì Chúa đã an ủi dân Người, Người đã chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ” (Is 49,13).
Niềm vui mong chờ Chúa đến được tiếp nối trong thời Tân Ước. Tin Mừng hôm nay diễn tả niềm vui phát xuất từ Thiên Chúa.Sau khi Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết Người sẽ chịu khổ hình, còn các ông sẽ bị thế gian tấn công và phải chịu chung một số phận với Thầy. Các môn đệ tỏ ra hoang mang lo lắng, Chúa Giêsu liền trấn an các ông đừng sợ hãi vì có Đấng Bảo Trợ sẽ đến giúp đỡ. Chúa Giêsu khuyên các ông hãy cầu xin Chúa Cha ban cho những ơn cần thiết để vượt qua cơn gian nan thử thách và tìm thấy niềm vui đích thực: “Anh em xin Chúa Cha điều gì, Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (c. 23-24).Lời khẳng định của Chúa Giêsu là niềm an ủi lớn cho mỗi người chúng ta.Thiên Chúa là Cha nhân từ sẵn sàng ban nhiều ân sủng nếu cho chúng ta thực tâm cầu xin.
Chính Chúa Giêsu cũng phải đối mặt với nỗi sợ hãi nhưng Người đã tìm được sự an ủi nhờ liên kết mật thiết với Chúa Cha. Hành trình lên Giêrusalem và tiến về núi Sọ là nỗi ám ảnh đè nặng trên Đức Giêsu, nhưng Người đã vượt qua tất cả nhờ sức mạnh của Thánh Thần trong Chúa Cha yêu dấu.
Trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh với chúng ta về sự biến đổi mãnh liệt của các môn đệ sau biến cố Chúa Phục Sinh: “Niềm vui của Tin Mừng là niềm vui lấp đầy đời sống cộng đồng của các môn đệ, làmột niềm vui truyền giáo. Bảy mươi hai môn đệ đã cảm thấy vui mừng khi trở về từ sứ vụ truyền giáo. Chúa Giêsu đã cảm thấy điều ấy, Người vui mừng trong Chúa Thánh Thần và chúc tụng Thiên Chúa vì đã mặc khải cho những người nghèo hèn và những người bé nhỏ. Đó là điều cảm thấy bởi những người đầu tiên trở lại là những người đầy ngưỡng mộ khi nghe các Tông đồ rao giảng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Niềm vui này là một dấu chỉ cho thấy Tin Mừng được công bố và sinh hoa trái”.
Chỉ có Chúa mới giải thoát chúng ta khỏi mọi lo lắng trần gian, khỏi mọi nỗi sợ hãi để tận hưởng niềm vui linh thánh ngọt ngào. Niềm vui ấy không phải chỉ biểu hiện qua tiếng cười nhưng còn âm vang trong giọt nước mắt, xuyên qua những thất bại. Niềm vui của Chúa không đọng lại trên những thành công nhưng chan chứa trong cả nỗi mất mát đớn đau.
Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng ta cũng phải đối mặt với gánh nặng của thân phận con người, của gia đình vợ chồng con cái làm chúng ta thất vọng chùn bước. Hãy tựa nương vào sức mạnh của tình thương và ân sủng Chúa, Người sẽ không lìa bỏ mà còn nâng đỡ để chúng ta tìm thấy niềm ủi an. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta đến tận hưởng hạnh phúc, đến để sống và sống dồi dào. Để có được niềm vui trọn vẹn, chúng ta phải sống gắn kết mật thiết với Thiên Chúa như cành nho liền với cây nho. Đi vào chiều sâu của tình yêu chúng ta mới hiểu được giá trị của đau khổ, mới dám dấn thân phục vụ và sống trọn nghĩa yêu thương.
Đời sống người Kitô hữu luôn luôn bao gồm những lúc chờ đợi với ít nhiều buồn thảm và những lúc gặp gỡ vui mừng. Như một đợt sóng có lúc hạ xuống. Đời sống con cái Chúa cũng bồng bềnh trong đau khổ và niềm vui như vậy. Xin đừng quên Lời Chúa: “Nỗi vui mừng của các con không ai giật mất được” (c.22). Niềm vui của chúng ta là niềm vui đã được Chúa cứu chuộc, không còn bị án nào nữa. Chúng ta đã được gia nhập vào Giáo Hội cùng phép Rửa Tội, được Chúa huấn luyện bằng Lời Chúa, được Ngài nuôi dưỡng bằng Mình Máu Ngài. Mỗi ngày sống chúng ta vui mừng vì sẽ được về gần trời.
2024
Niềm vui không ai lấy mất được
10.5 Thứ Sáu trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 18:9-18; Tv 47:2-3,4-5,6-7; Ga 16:20-23
Niềm vui không ai lấy mất được
Các môn đệ được Chúa căn dặn “Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con” (Ga 16,7). Đó là một cuộc biệt ly. Có cuộc biệt ly nào mà không buồn, không xót, không thương. Cuộc chia ly ở đâu đâu cũng buồn khổ hết. Chia ly ở bên đường, bến đò, ga xe, phi trường, nghĩa địa… đều da diết, đều chết đi trong lòng một ít, và đối với các tông đồ hẳn không phải là ít, vì họ đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Trở đi mắc núi, trở về mắc sông. Giờ đây, Chúa ra đi, đi sang một thế giới khác hẳn. Chúng ta thử tưởng tượng các môn đệ lúc ấy bơ vơ biết như thế nào. Cùng lắm họ mới theo đạo Chúa được ba năm. Với ba năm theo Chúa chập chững, giờ đây mất Chúa. Kẻ âm người dương.
Từ đây một người Do thái với 33 tuổi tên là Giêsu, sẽ biến khỏi sân khấu lịch sử của nhân loại, với không gian, thời gian khí hậu của miền Palestin. Cho nên các tông đồ buồn khổ là phải lẽ. Từ đây, lấy ai làm trụ cột mà dựa dẫm, lấy đâu làm nơi nương tựa cho những ngày mệt mỏi đời tông đồ. Chính Chúa Giêsu đã thấy họ buồn và Chúa xác nhận rằng: “Vì Ta đã nói thế nên ưu phiền tràn ngập lòng các ngươi” (c.6).
Tin Mừng vừa đọc nối tiếp với đoạn suy niệm về mối tương quan mới cần phải có giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Người đồ đệ cần khám phá ra Chúa Giêsu với đôi mắt đức tin và sống kết hiệp khắng khít mỗi ngày một hơn với Người. Sự sống kết hiệp với Chúa là nền tảng vững chắc với niềm vui không bao giờ mất đi nơi tâm hồn người đồ đệ.
Suy niệm bài Tin Mừng vừa đọc lại trên, chúng ta hãy đào sâu thêm về niềm vui mà Chúa muốn trao ban cho mọi đồ đệ của Người. Ðể được hưởng niềm vui của Chúa, người đồ đệ phải thực hiện một điều kiện căn bản, liên kết với cuộc khổ nạn của Chúa để được ân sủng Chúa thanh luyện. Trong khung cảnh những lời tâm sự mạc khải về cuộc ra đi, tức cuộc vượt qua của Người, Chúa Giêsu long trọng loan báo: “Thật, Thầy bảo thật các con, các con sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng”.
Khóc lóc và than van là hành động của một người thương khóc cái chết của những người thân yêu nhất. Dùng hai từ này để diễn tả hoàn cảnh các môn đệ sắp trải qua, Chúa Giêsu như muốn mạc khải cho các ông về cái chết sắp đến của Người, vừa đồng thời hé mở cho các ông nhìn thấy mối liên hệ của cuộc đời các ông với cuộc vượt qua của Người.
Ðây là điều mà sau này thánh Phaolô tông đồ dùng một từ ngữ khác để diễn tả, mang lấy cuộc Thương Khó của Chúa nơi mình, hoàn tất nơi mình những gì còn thiếu trong sự Thương Khó của Chúa là chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Chúa. “Chúng con sẽ khóc lóc và than van vì Chúa sắp chịu chết trên thập giá tủi hổ”. Trong khi đó thì thế gian, tức những kẻ thù của Chúa Giêsu vui mừng, vì họ nghĩ rằng đã loại trừ được một đối thủ, có những lời nói phơi bày tật xấu của họ và không ngừng quấy rầy lương tâm họ.
“Các con sẽ khóc lóc và than van”, lời cảnh tỉnh này còn nhắc cho các môn đệ sự thử thách họ sẽ trải qua trong cuộc khổ nạn và chịu chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúa bị bắt, các ông chạy tán loạn. Chúa bị treo chết trên thập giá và an táng trong mồ, các ông lo sợ, ẩn mình trong phòng, đóng kín cửa; vài người khác thất vọng bỏ về quê.
Làm môn đệ của Ðấng chịu đóng đinh không phải là chuyện dễ dàng, êm xuôi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy”; “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” Nhưng cái chết của Chúa Giêsu chỉ là một giai đoạn dù là giai đoạn không thể tránh né được, Chúa chết đi để rồi sống lại, Chúa ra đi để rồi trở lại, Chúa phục sinh trở lại gặp các môn đệ và biến đổi nỗi buồn thành niềm vui: “Thầy sẽ gặp lại các con và lòng các con sẽ vui mừng và niềm vui của các con không ai có thể lấy mất đi được”.
Niềm vui của các môn đệ đến từ Chúa, do Chúa ban cho, chứ không do những nguyên do nào khác. Nền tảng của niềm vui trong cuộc đời của các môn đệ là sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh trong chính cuộc đời họ. Chúa Phục Sinh đến với các môn đệ phục hồi niềm tin đã bị lung lay chao đảo. Chúng ta cần làm sao để Chúa Phục Sinh có thể đến và hiện diện luôn mãi trong cuộc đời.
Niềm vui mà Chúa Giêsu nói ở đây trước hết là niềm vui Phục Sinh. Các môn đệ đã vui mừng vì thấy Chúa Phục Sinh. Ngày nay chúng ta cũng vui mừng khi ta cùng sống lại với Chúa, niềm vui của kẻ được giải phóng. Niềm vui đó là niềm vui của người đàn bà sắp sinh con; chưa sinh thì đau đớn, nhưng khi đã sinh rồi thì niềm vui nhìn thấy đứa con sẽ làm cho bà quên đi mọi đau đớn. Niềm vui nào cũng được cưu mang trong đau đớn, kể cả niềm vui sống lại của chúng ta. Vì có chết cho tội lỗi, có hy sinh hãm mình đền tội, có can đảm dứt khoát với tội lỗi thì ta mới có niềm vui sống lại. Sự từ bỏ nào cũng đòi hỏi cả, nhất là từ bỏ những đam mê, cái làm cho ta mê say thích thú, lại khó từ bỏ hơn, đòi hỏi nhiều can đảm hơn. Trong đời sống thiêng liêng, con đường sống lại là con đường từ bỏ.
Suy gẫm đến đây, tôi tự hỏi mình: đã bao nhiêu mùa phục sinh qua đi trong đời rồi, vậy tôi đã có niềm vui phục sinh chưa ? Các môn đệ buồn sầu lo lắng vì mất Chúa, còn tôi thì sao? Hay là có Chúa trong đời hay không, thì cũng thế thôi, chẳng có quan trọng gì đối với tôi cả?
Niềm vui chỉ có được khi chúng ta sống trong hy vọng và mong chờ. Tôi có hy vọng, mong chờ gì nơi Chúa không ? Có Chúa là niềm vui vì Chúa có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống các Tông Đồ; còn tôi, Chúa có chỗ đứng nào trong đời tôi không ? và biết bao nhiêu câu hỏi ta có thể đặt ra cho chính mình trước niềm vui phục sinh của các Tông Đồ.
2024
Lên Trời với Chúa
9.5 Lễ Thăng Thiên
Người ta thường bảo ra đi là chết trong lòng một chút. Sự chia lìa với người thân yêu bao giờ cũng đem lại buồn đau, mặc dù chúng ta biết rằng người ấy sẽ gặp được những may mắn. Vậy phải chăng Giáo hội mặc lấy những tâm tình sầu khổ khi cử hành lễ Chúa về trời. Không, trái lại đây là một ngày lễ ngập tràn niềm vui. Chúng ta vui mừng cho Chúa cũng như cho chúng ta.
Mừng Chúa lên trời có nghĩa là mừng Ngài được tôn vinh sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha đã trao phó. Ngài đã hoàn thành trong sự vâng phục và yêu thương, ngay cả trong việc chấp nhận thập giá để cứu chuộc mọi người. Vinh quang được trao ban cho Ngài, vì Ngài đã chấp nhận hy sinh tất cả. Nói cách khác, Ngài đã đi trọn con đường của yêu thương, không nề hà bất cứ một cử chỉ hay một hành động nào, để bày tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối vơi con người.
Chúa Giêsu lên trời, nhưng Trời ở đâu? Trong Kinh Thánh, “trời” là hình ảnh văn chương quen thuộc dùng để chỉ nơi Thiên Chúa ngự. Kinh Thánh cũng dùng hình ảnh đám mây để nói về sự hiện diện của Thiên Chúa, ví dụ: khi dân Chúa tiến bước trong sa mạc, thì có đám mây đi theo, Vậy chúng ta đừng hiểu cách mô ta của Thánh Luca trong Kinh Thánh theo nghĩa đen theo kiểu Chúa bay vào không gian như một phi hành gia. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Người được vĩnh viễn đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, được nên ngang hàng với Thiên Chúa và được đặt làm Chúa mọi loài mọi vật.
Chúa Giêsu lên trời hay còn gọi là lễ Thăng Thiên. Biến cố Thăng Thiên của Chúa Giêsu chấm dứt một lịch sử và khởi đầu một lịch sử. Lịch sử chấm dứt là lịch sử nào? Thưa đó là lịch sử cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể ở giữa trần gian, biến cố Thăng Thiên chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu ở giữa thế gian. Còn lịch sử bắt đầu là lịch sử nào? Thưa là lịch sử của Hội Thánh, lịch sử này tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa Cứu Thế trên trần gian cho đến ngày Người trở lại trong vinh quang.
Thánh Luca viết: Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, thì kìa hai người đàn ông mặc ao trắng đứng bên cạnh và nói “Hỡi những người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Câu nói cua các thiên sứ nhắc nhở các tông đồ phải trở về với nhiệm vụ đã được Thầy giao phó mà các Ngài phải chu toàn cho đến ngày tận thế.
Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm, một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính “ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”, một hy vọng cho chúng ta hướng đến khi suy niệm Năm Sự Mừng, thứ hai Đức Chúa Giêsu lên trời, Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.
Chúa Giêsu lên trời là để dọn chỗ cho các môn đệ và Người sẽ trở lại để đem họ về trời với Người. Chúng ta là người kitô hữu, qua bí tích rửa tội, chúng ta trở nên những môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta sống đạo là để chúng ta được Chúa cho chúng ta lên thiên đàng trong ngày sau hết. Nhưng để được lên thiên đàng cũng phải có những điều kiện.
Đó là làm theo những lệnh truyền của Chúa: phải sám hối từ bỏ mọi tội lỗi, các đam mê xấu và tin vào Tin Mừng của Chúa, để được ơn tha thứ và trở nên con cái Thiên Chúa; phải thực hành các giới răn của Chúa và những lời dạy của Hội Thánh, nhất là giới răn yêu thương. Bởi thiên đàng là nơi sống yêu thương, những ai sống trong thù hận, chia rẽ, ghen ghét, hay chửi rủa, hay nói hành nói xấu người khác, thì không thể lên thiên đàng được, họ sẽ không hoà hợp được với lối sống thien đàng vì họ không biết yêu thương. Muốn được lên thiên đàng sau khi chết chúng ta phải xây dựng cho mình một thiên đàng ngay tại thế gian này bằng một đời sống luôn biết yêu thương, biết chia cơm sẽ áo cho những người nghèo đói, giúp các bệnh nhân nghèo có phượng tiện chữa bệnh, thăm viếng an ủi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn, động viên các tội nhân ăn năn sám hối và sớm trở về giao hoà với Thiên Chúa. Sống yeu thương là sống làm chứng cho người khác biết rằng có một cuộc sống mai sau thật tốt đẹp trong Chúa.
Tin Mừng Chúa Giêsu theo thánh Matthêu không nói Đức Giêsu lên trời, mà lại nói Đức Giêsu ở lại mãi với con người: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28,20). Theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu là Emmanuel, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa ở với con người (Mt. 1,23).
Nếu Chúa Giêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa ở với con người, thì đâu có khi nào Chúa Giêsu rời con người nữa. Thiên Chúa không ở xa con người, nhưng ở gần thật gần con người, một cách đặc biệt qua Chúa Giêsu. Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng cho thấy Chúa Giêsu đã nói: “nơi nào có hai hay ba người họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở đó, giữa họ” (Mt.18, 20). Tin Mừng Chúa Giêsu theo thánh Gioan cũng có những tư tưởng tương tự: “ai yêu men Thầy, sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23). Chúa Giêsu ở với các tông đồ, ở với những người nhờ lời các tông đồ mà tin vào Chúa Giêsu.
Ý niệm Chúa Giêsu ở với con người, hàm chứa niềm tin Chúa Giêsu “đang sống” một cách nào đó. Đây không chỉ là “đang sống” theo nghĩa những người còn đang sống tưởng nhớ tới Ngài, nhưng thật sự Ngài vẫn đang sống độc lập và khách quan đối với tư tưởng của con người. Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống và ở với con người bất chấp con người có biết hoặc ý thức điều đó hay không.
Chúa Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách Tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Chúa Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các Ngài một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.
2024
Khi Thánh Thần Chân Lý đến
8.6Thứ Tư trong tuần thứ Sáu Mùa Phục Sinh
Cv 17:15,2218; Tv 148:1-2,11-12,12-14,14; Ga 16:12-15
Khi Thánh Thần Chân Lý đến
“Ta còn nhiều điều phải nói với các con” (c.12)
Chúng ta hiểu câu nói đó như thế nào ? Chắc chắn rằng Chúa Giêsu đã nói tất cả những gì là giáo lý của ơn cứu rỗi. Không ai thêm hay bớt một dấu phẩy nào vào đó nữa. Vì thế Chúa Giêsu được gọi là Đấng mạc khải hoàn hảo của Thiên Chúa Cha, cho nên không có chuyện gọi là “mạc khải của Thánh Thần”. Tất cả mọi mạc khải đều bởi Chúa Giêsu vì Ngài là “Ngôi Lời của Thiên Chúa” (Gio 1,1.14), là Đấng duy nhất thấy được Thiên Chúa Cha và có quyền “cắt nghĩa” về Thiên Chúa Cha (1,18). Nhưng chân lý mạc khải đó sẽ được hiểu dần trong tinh thần và trong chân lý. Khi hứa ban Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu đã nói: ”Chính Người sẽ dạy các ngươi mọi sự, sẽ nhắc nhở các ngươi mọi điều mà TA đã nói với các ngươi” (14,26).
Đứng trước một chân, thiện, mỹ không dễ gì mà chúng ta lĩnh hội thẩm thấu ngay được. Một bản văn hay mấy mà đưa cho một em bé tiểu học đọc, thì làm sao nó hiểu được cái hay của văn chương. Cho nên phải được học hỏi từ từ. Chính thánh Phaolô Cũng từng ví chúng ta trên lãnh vực siêu nhiên như em bé buổi đầu ăn sữa mẹ, rồi ăn cơm mớm… thịt (1C 3,1).
Để hiểu được một chân lý mạc khải cũng phải dần dần hoặc trong lịch sử đời mỗi người hoặc trong lịch sử nhân loại. Chẳng hạn tín điều về Đức Mẹ hồn xác lên trời mãi tới năm 1950 mới được định tín. Thật ra đây không phải là một giáo lý của Chúa Thánh Thần. Chân lý này đã bao hàm trong kinh thánh, Thánh truyền và trải qua những thế hệ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy soi sáng để đi tới quyết định dứt khoát một điều phải tin. Đó là việc của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta nên biết rằng tất cả mọi chân lý của Chúa Giêsu cũng đều bởi Thiên Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần cũng múc nguồn từ đó. Cho nên tất cả chỉ là một người mà ra. Chính Chúa Giêsu đã từng quả quyết Ngài không nói gì, là gì nếu không nhận được bởi Thiên Chúa Cha (Ga 717. 8,26-40. 12,49. 14.10). Cũng thế Chúa Thánh Thần chỉ giảng dạy những gì nghe nhận được từ Ngôi Cha và Ngôi Con (Gio 15,26). Vai trò của Chúa Thánh Thần là làm sáng tỏ chân lý, khai thông trí hiểu và mở rộng con tim vươn tới sự thật của tình yêu chân lý. Từ đó Chúa Thánh Thần được gọi là “Thần chân lý”, “Thần của sự thật”.
Chúa Thánh Thần không phải là một thầy giáo. Nhưng đúng ra là một người nhắc nhớ, một người giải thích chân lý của một bậc thầy là Chúa Giêsu. Ngài không nói với uy quyền riêng mình như kiểu Chúa Giêsu (Ga 3,32,7,16,17. 8,26-28,12-14.15,15), nhưng chỉ là một Đấng mạc khải của Thiên Chúa Cha và làm vinh danh Ngài (Ga 12,28.14,13. 15,8. 17,4-6).
Chúa Thánh Thần còn là một vai trò nữa, ngoài việc nhắc nhở các tông đồ, Ngài còn một nhiệm vụ là soi sáng áp dụng chân lý vào hoàn cảnh sống của từng thời đại để hiểu và sống chân lý mà đạt tới cùng đích nước trời. Cho nên chúng ta thấy những biến cố đời Chúa như núi Sọ, Phục sinh, lên trời không phải chỉ là một sự kiện lịch sử như bao sự kiện khác. nhưng trái lại một sự kiện đã xảy ra cả hai ngàn năm, nhưng hôm nay âm hưởng của những sự kiện đó vẫn như mới xảy ra nơi mỗi tâm hồn. Đó là việc làm của Chúa Thánh Thần.
Cho nên khi nói Chúa Thánh Thần sẽ làm cho tín hữu Chúa thành những tiên tri không phải để tiên đoán thời tiết, nói tiên tri đâu… Nhưng là để họ khám phá ra ý định của Thiên Chúa trong mỗi hoàn cảnh sống. Giúp họ biết đọc những dấu hiện của thời mình sống để mà sống đúng thánh ý Thiên Chúa. Chị Samaria bên bờ giếng nước thường đã đọc được ý nghĩ sâu của nước Trường sinh (Ga 4,25).
Có hai cái khó khăn làm mờ vai trò Chúa Thánh Thần trong đời sống con người chúng ta là lý trí cằn cỗi và con tim khô cạn. Trí khôn của chúng ta không còn muốn suy tư tìm tòi vết tích của Chúa nữa. Con tim thì khô cạn tình yêu, đem tình yêu đáng lẽ phải dành cho Chúa đi biếu không đâu đâu. Chúng ta cần cầu xin Chúa Thánh Thần sửa đổi lại mọi sự trong ngoài để hiểu được Ngài và chân lý hằng sống của Ngài.
Chúa Giêsu hứa rằng chúng ta sẽ được dẫn đưa vào chân lý trọn vẹn. Phải chăng như thế có nghĩa là chúng ta sẽ biết được mọi bí ẩn của vũ trụ, là chúng ta sẽ có được một kiến thức bách khoa và không có gì nằm ngoài sự hiểu biết của chúng ta trong những thứ đang hiện hữu và cách vận hành của chúng? Tôi không nghĩ như vậy. Phúc âm hôm nay đưa chúng ta vào một chiều kích khác: chân lý trọn vẹn, ấy là một ai đó, một Đấng.
Chân lý trong Kitô giáo là một Đấng đã làm chứng rằng Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Chúa Giêsu làm chứng rằng cuộc sống chúng ta được tiền định để trở nên vĩnh cửu, vượt qua cái chết. Qua bản thân mình, Ngài làm chứng rằng phương cách để biến một cuộc sống có thể bị hủy hoại thành một cuộc sống vĩnh cửu là dâng hiến mạng sống mình cho người khác.
Trong Kitô giáo, ta tin vào một Đấng, và Đấng ấy nói thật. Chứng từ Ngài thì chân thật. Ta không tin vào những nguyên tắc, những mầu nhiệm: những chân lý: ta tin vào một Đấng. Mặc khải của Thiên Chúa cho biết về một Đấng đang hành động một cách nhân từ đối với con người.
Chúng ta đã quá coi trọng những công thức đến độ tin rằng mình có đức tin khi chấp nhận những công thức, những tín điều. Nhưng chúng ta không bao giờ chạm đến được Đấng mà các nhà thần học đã chôn vùi dưới trăm ngàn từ ngữ.
Trong Thánh lễ, chúng ta hãy chúc tụng Chúa vì đã cho chúng ta đạt đến đức tin. và hãy cảm tạ Người vì đã ban cho chúng ta Thánh Thần, Đấng tiếp tục mặc khải cho chúng ta điều kỳ diệu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng chân thật mà chúng ta có thể hoàn toàn tin cậy và tín thác vào Ngài.