2021
CON ĐƯỜNG GIÊSU
30.4 Thứ Sáu Tuần IV Phục Sinh
– Thánh Pi-ô V, Giáo Hoàng.
– Các bài đọc Lời Chúa: Cv 13,26-33; Ga 14,1-6.
CON ĐƯỜNG GIÊSU
Antonio Ghislieri sinh hạ trong một gia đình nghèo ở Lombardie (Ý). Nhờ sự giúp đỡ của một người giàu có, Antonio được học vào dòng Đa Minh lúc lên 15 tuổi. Sau khi lãnh chức linh mục, Ngài làm việc một thời gian trong toà án thẩm tra, làm Giám Mục Sutri, Hồng Y và năm 1566, được bầu lên ngôi Giáo Hoàng với tước hiệu Piô V.
Triều đại của Ngài vắn vỏi 6 năm, nhưng đem lại cho Giáo Hội nhiều kết quả lớn, là thực thi những quyết nghị của công đồng Triđentinô (1545-1563).
Ngài sống đơn sơ khó nghèo, không theo lối một số hàng giáo sĩ, dọn đường cho một thế hệ Giám Mục mới. Ngài cho ra cuốn Giáo Lý Lamã, phiên dịch ra tiếng bình dân phổ thông, sửa đổi sách Nhật Tụng và sách Lễ, thiếp lập Bộ Kiểm Duyệt sách xấu, cho tái bản bộ sách Thánh Tôma mà Người tôn phong Tiến Sĩ.
Ngài kêu gọi các vua Công Giáo liên minh chống lại Thổ Nhĩ Kỳ đang mang tâm dẫn đại quân vịnh Lepante. Hình như Ngài, trong thị kiến, đã nhìn thấy diễn tiến của trận hải chiến. Quân Hồi thảm bại. Giáo dân đã cầu nguyện nhiều với Đức Mẹ Mân Côi và chính Đức Thánh Cha như biết trước đó là diễn tiến cuối cùng của đời Ngài. Mấy tháng sau, Ngài qua đời ngày 01 tháng năm 1572.
Nhờ dựa vào cuộc thẩm tra, Đức Piô V cũng đấu tranh chống sức bành trướng của đạo Tin lành tại Ý và Tây Ban Nha. Về phần nước Anh, ngài ủng hộ Marie Stuart mà phạt vạ tuyệt thông cùng chủ trương hạ bệ nữ hoàng Élisabeth (1570). Song việc này chỉ khiến cho tình cảnh của những người Công giáo trong vương quốc này càng thêm éo le hơn.
Vì lo âu trước tai họa người Thổ Nhĩ Kỳ đang gieo rắc cho Ki-tô-giáo ở Tây Phương, nên Đức Piô V – trong một Châu Âu bị phân hóa – đã cũng với Venise và Tây Ban Nha, thành lập một Liên minh Kitô-giáo. Từ đó, dưới sự chỉ huy của Don Juan d’Autriche, hạm đội liên quân đã thắng trận Lépante (ngày 7 tháng 10 năm 1571), khiến hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ của Ali Pacha thoát chạy tán loạn. Nhân chiến công hiển hách đó đã làm nức lòng giới Kitô giáo đồng thời chấm dứt huyền thoại về đế quốc Ottoman bất bại, Đức PiôV thành lập ngày lễ Đức Bà Toàn Thắng (hay Đức Bà mân Côi).
Vì thế, vị Giáo Hoàng của công cuộc Canh Tân Hội thánh Công giáo cũng là vị thánh của chuỗi Mân Côi. Đặc biệt ngài cũng là người cổ vũ việc lần hạt qua sắc chỉ Consueverunt (1569). Sắc chỉ này giải thích và phần nào xác định hình thức truyền thống của chuỗi Mân Côi (xem thông điệp Marialis cultus, số 42).
Hôm trước ngày người qua đời, Đức Piô V nói với các Hồng y qui tụ quanh mình: “Ta gửi gắm cho chư vị Hội thánh mà ta rất yêu mến. Xin chư vị hãy bầu cho Ta một người kế vị nhiệt thành; vị đó chỉ lo tôn vinh Thiên Chúa và không mưu cầu điều gì khác dưới trần thế này ngoài vinh dự của Tòa thánh và lợi ích cho các nước theo Kitô giáo”.
Ngài được tôn phong Hiển Thánh năm 1712 do Đức Clemente XI.
Trên hành trình dốc tâm theo Thầy Giêsu, các môn đệ luôn xác tín rằng, để có một ngày mai tươi sáng huy hoàng, không ai dại gì để đi vào chỗ chết. Cả chúng ta ngày hôm nay cũng vậy, không ai dại gì đánh đổi cuộc sống mình để chết và đau khổ. Đây là nỗi thao thức chung của chúng ta hôm nay cũng như của các môn đệ năm xưa. Vậy mà bỗng dưng Thầy Giêsu loan báo: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại.” (Mc 9,30).
Chúa Giêsu một lần nữa tỏ cho chúng ta sứ mạng Ngài. Sứ mạng của Ngài là đến trần gian để dẫn đưa nhân loại về cùng Cha, đến sự sống đời đời. Chính Chúa Giêsu là con đường duy nhất, mà ai muốn đến cùng Cha, muốn có sự sống đích thực thì phải qua con đường đó. Nếu chúng ta từ chối Chúa Giêsu, không bao giờ chúng ta có thể đạt được hạnh phúc viên mãn.
Nhưng thế nào là đi vào con đường của Chúa Giêsu là đón nhận Chúa Giêsu? Lời Chúa nhắc nhở cho chúng ta: Yêu mến là chu toàn giới luật. Luật yêu thương mà Chúa đã sống và truyền lại cho chúng ta. Nếu chúng ta biết sống yêu là một dấu chứng chúng ta đang đi trong con đường tình yêu của Chúa Giêsu. Ðể cùng với Chúa Giêsu chúng ta đi về cùng Cha hưởng nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúa Giêsu ra đi không phải đi tìm hạnh phúc cho riêng mình, nhưng cho các tông đồ và cho cả nhân loại. Ngài ra đi để chúng ta được cứu rỗi, Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta được sống đời đời hạnh phúc bên Chúa Cha. Chính qua cái chết và sự phục sinh của Ngài, Ngài đã trở thành con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha. Khi suy nghĩ về mục đích của cuộc đời hiện tại và về cuộc sống mai sau, chúng ta hãy biết sống tỉnh thức bằng việc giữ tâm hồn trong sạch, luôn tín thác vào Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc muôn đời nơi Nhà Cha của Ngài là Thiên Đàng vinh phúc đã được dọn sẵn cho chúng ta.
Và ta thấy Tin mừng kể, “điều này làm cho các tông đồ khó hiểu”. Rồi trang Tin mừng hôm nay, Thầy Giêsu lại loan báo một sự ra đi, bỏ lại các ông, lại làm cho các ông bối rối lo lắng hơn, xem ra những mục đích và dự tính của các ông đang bị vỡ mộng. Chính trong tâm trạng đó, Thầy Giêsu đã trấn an các ông. Như có lần Ngài trấn an bằng việc đưa ba môn đệ lên núi Tabore để cho các ông thấy vinh quang của Ngài.
Như lần Ngài đã hỏi các ông: “Anh em không nhớ sao, khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh. . . .khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn anh em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh”(Mc 8, 17-20). Chính vì thế hôm nay Thầy Giêsu trấn an các ông. “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.
Vâng tin là không cần điều kiện, không cần thế chấp, mà là tín thác và hy vọng, là dấn thân và trông cậy. Đây chính là điều Thầy Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ của Ngài. Hãy tin vào Ngài. Con đường bước theo Thầy Giêsu, dẫu có bước vào sự chết, đau khổ, dẫu có bị bỏ rơi, hay sỉ nhục cũng không phải là điên dại hay hủy diệt, mà là sự sống và hạnh phúc.
Tin vào Thầy Giêsu chúng ta đi vào sự sống. Tin vào Thiên Chúa chúng ta đi vào sự khôn ngoan. Đây chính là luận cứ của thánh Phaolô trong bài đọc một.
Tại hội trường Antiôkia, thánh Phaolô muốn chứng minh cho người Do thái thấy, Thiên Chúa Cha đã sắp xếp mọi sự, để cho Chúa Giêsu đến trần gian, chịu đau khổ và sự chết, nhưng ngày thứ ba Ngài đã sống lại. Thiên Chúa đã dùng chính Chúa Giêsu để hoàn tất lịch sử Do thái, để đi vào lịch sử nhân loại. Thánh Phaolô nhắc. “Điều Thiên Chúa đã hứa với cho ông chúng ta, thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi làm cho Chúa Giêsu sống lại”.
Tin vào Thiên Chúa là bước đi trong sự khôn ngoan, nhận ra chương trình Thiên Chúa là tin Đức Giêsu đến để hoàn tất những gì Kinh thánh đã loan báo. Một khi đã tin vào Thiên Chúa, thì phải đón nhận Đức Giêsu, chấp nhận đi theo con đường của Ngài. Ngài về cùng Chúa Cha để dọn chỗ cho chúng ta, và như Ngài khẳng định: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
Thế giới có biết bao nhiêu con đường để đi về quê trời: những con đường ấy đã làm cho biết bao nhiêu người lầm lạc, và cả ta nữa. Con đường Đạo: Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Cơ Đốc, Đạo Hồi, Đạo Tin Lành, Chính Thống, Anh Giáo, và Đạo Công Giáo của chúng ta. Cũng thờ Chúa Giêsu, cũng tin Chúa Giêsu nhưng không đi trên con Đường Sự Thật của Chúa. Nên đã lạc lối. Làm sao biết đường Chúa đi.
Con người sống giữa trần gian với biết bao lạc thú, biết bao cám dỗ, biết bao đam mê, biết bao dục vọng mà bản thân ta cứ buông xuôi theo dòng đời. Kẻ thì chạy theo danh vọng, người thì đi kiếm tiền tài, kẻ lại tìm những thú vui trần thế…Có những kẻ tàn ác đi tìm kiếm uy quyền để giết hại đồng loại; có những người bệnh hoạn đắm chìm trong dâm tục hoang dã. Họ là những người lạc lối đức tin. Họ không biết đường Chúa đi, vì họ không đi trong sự thật. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14, 6)
2021
TIN
28.4 Thứ Tư Tuần IV Phục Sinh
– Thánh Phê-rô Cha-nen (Chanel), Linh mục, Tử đạo.
– Thánh Lu-i đơ Mông-pho (Luis Grignion de Montfort), Linh mục.
– Thánh Phao-lô Phạm Khắc Khoan, Linh mục (1840); Thánh Phê-rô Nguyễn Văn Hiếu, Thầy giảng (1840) và Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta Đinh Văn Thành, Thầy giảng (1840), Tử đạo.
– Các bài đọc Lời Chúa: Cv 12,24-13,5a; Ga 12,44-50.
TIN
Trang Tin Mừng hôm nay có thể tóm lược cách tổng quát về những lời rao giảng công khai của Chúa. Chúa Giêsu đã nhắc đến hai điểm chính yếu là: “Tin Ngài là tin Chúa Cha và thấy Ngài là thấy Chúa Cha”.
Chúa Giêsu tự định nghĩa mình là người được sai đi của Cha. Thánh Gio-an không giới thiệu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Cha. Hầu như bất cứ điều quan trọng nào đều chỉ về Cha và không chỉ về Con. Tất cả đều tương quan với Cha. Chúa Giêsu thực hiện sứ mệnh do Cha ban, Người làm cho họ nhận biết sứ điệp của Cha. Chúa Giêsu chính là sứ điệp của Cha.
Thái độ của Đức Kitô luôn luôn bày tỏ sự hoàn toàn tùy thuộc, hoàn toàn vâng lời lúc nào cũng sẵn sàng đối với Cha. Nếu Người cho lời Người là quan trọng vì đó là lời của Cha: “Chính lời Tôi nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết, thật vậy, không phải Tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai Tôi, truyền lệnh cho Tôi phải nói gì và tuyên bố gì”
Tin Chúa thì sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời, vì đức tin là ánh sáng, không tin thì sống trong tối tăm. Từ chối không tin Con Người thì tự kết án mình, mặc dù Chúa Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi. Không ai có thể thoát ra khỏi sự xét xử cuối cùng này, và sự xét xử ấy là bởi thái độ do con người tin nhận hay từ chối từ Thiên Chúa: “Ai nghe lời Ta mà không tin giữ thì không phải Ta kết án kẻ đó, nhưng chính Lời Ta sẽ xét xử nó” (Ga 12,47-48), không ai có thể thoát khỏi sự xét xử này, nhưng sự xét xử đó sẽ đến trong ngày sau hết.
Tin Chúa là tin Thiên Chúa Cha, thấy Chúa là thấy được Thiên Chúa Cha. Tin Chúa sẽ mang lại ánh sáng soi cho cuộc đời của mình. Ðức tin là ánh sáng, không tin là sống trong bóng tối.
Từ chối không tin. Con người tự kết án mình. Mặc dầu Chúa Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi, không ai có thể thoát ra khỏi sự cứu rỗi cuối cùng này, và sự xét xử đến từ thái độ của người đó, đón nhận hay chối từ Thiên Chúa. “Ai nghe lời Ta mà không tuân giữ thì không phải Ta là người kết án kẻ ấy vì Ta không đến để luận phạt thế gian mà đến để cứu rỗi. Ai chê chối Ta và không nhận lời Ta thì sẽ có người xét xử kẻ ấy, tức là lời giảng dạy của Ta sẽ xét xử kẻ ấy trong ngày sau hết. Không ai có thể thoát khỏi sự xét xử này, nhưng sự xét xử đó sẽ đến trong ngày sau hết”.
Trong hiện tại, Thiên Chúa luôn luôn kêu mời con người hãy trở về lại với Ngài sau những lần sa ngã, chối từ không tin Ngài. Thời giờ chúng ta đang sống là thời giờ của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta đừng lợi dụng lòng nhân từ này, đừng khinh dễ bỏ qua ơn soi sáng của Chúa. Những trang Phúc Âm cho chúng ta biết rõ ý muốn của Thiên Chúa như thế nào nơi mỗi người chúng ta. Ngài muốn chúng ta tin nhận Ngài, lắng nghe lời Ngài và sống kết hiệp với Ngài.
Nơi con người Chúa Giêsu có nhiều thứ ánh sáng. Đó có thể là thứ ánh sáng phản chiếu vinh quang quyền năng, thứ ánh sáng mà khi đối diện con người phải cúi đầu. Chúa Giêsu không tỏ lộ ánh sáng này cho các môn đệ và dân chúng theo Ngài, ngoại trừ một lần trên núi Thabor, Ngài biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ: Phêrô, Yacôbê và Gioan.
Ánh sáng thường gặp nơi Ngài là ánh sáng soi đường dẫn lối, một thứ ánh sáng không làm cho con người sợ hãi, nhưng mời gọi bước theo. Anh sáng phát xuất từ ngọn lửa yêu thương phục vụ xem ra không huy hoàng rực rỡ, nhưng lại hữu hiệu. Đối diện với ánh sáng này, con người sẽ hoặc là tiếp nhận, hoặc là chối từ. Khi chối từ tức là con người còn nằm trong bóng tối và ánh sáng trở thành ánh sáng xét xử. Chúa Giêsu không kết án, vì Ngài đến để cứu chuộc, nhưng chính thái độ cố chấp của con người sẽ kết án họ.
Không có ánh sáng đồng thời với bóng tối, ở đâu có ánh sáng, ở đó sẽ không còn bóng tối. Nhưng để tiếp nhận ánh sáng, con người phải chấp nhận từ bỏ, tiêu hao chính mình. Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và Ngài ước mong cho nó cháy lên. Gặp gỡ Đức Kitô, con người sẽ gặp được ngọn lửa yêu thương của Ngài. Ngọn lửa càng sáng, càng đòi tiêu hao nhiều nhiên liệu. Ngọn lửa Đức Kitô đã tỏa sáng khắp vũ trụ khi Ngài được giương cao trên Thập giá và hiến thân cho đến giọt máu cuối cùng.
Trong cuộc sống, Thiên Chúa luôn kêu mời con người trở về với Ngài sau những lần sa ngã hay lúc họ chối từ Ngài, thời giờ chúng ta đang sống là thời giờ của lòng nhân từ thương xót Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta đừng lạm dụng lòng nhân từ Chúa, đừng khinh dể bỏ qua ơn soi sáng của Ngài. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, ta tháy rõ ý Chúa muốn nói với mỗi người, đó là Ngài muốn chúng ta lắng nghe lời Ngài và sống kết hợp với Ngài “biết giới răn Cha Ta là sống đời đời” (Ga 12,50).
Biết Chúa Giêsu cũng là biết Chúa Cha. Mặc dù chúng ta không có kinh nghiệm nhìn thấy Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt như các môn đệ đầu tiên khi xưa, nhưng chúng ta được diện kiến một Chúa Giêsu thật mỗi khi chúng ta đến trước Thánh Thể. Khi chúng ta bước vào một nhà thờ và ngắm nhìn tôn nhan Chúa trước bàn thờ, điều quan trọng là chúng ta luôn luôn nhận thức được rằng chúng ta đang ở trong sự hiện diện thiêng liêng trọn vẹn của Thiên Chúa Con. Và vì lý do đó, chúng ta cũng ở trong sự hiện diện vẹn toàn và thiêng liêng của Chúa Cha. Sự hiện diện của Ngài là có thật và tuyệt đối, chỉ đơn giản là bị ẩn khỏi giác quan của chúng ta mà thôi.
Một điều quan trọng để suy ngẫm ở đây là sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Suy tư về sự hiệp nhất của các Ngài khi cầu nguyện là một phương thức rất hiệu quả cho đời sống của chúng ta. Tại sao ư? Bởi vì chúng ta được kêu gọi chia sẻ sự hiệp nhất của các Ngài, và chúng ta được kêu gọi chia sẻ sự hiệp nhất với nhau.
Để sống hiệp nhất thì thật khó. Nó đòi hỏi phải có một tình yêu thật lớn lao. Nó có nghĩa là sống thật với người khác, tìm cách thấu hiểu trọn vẹn con người của tha nhân, chấp nhận và yêu mến họ. Và Chúa Ba Ngôi là mô hình mẫu mực cho chúng ta noi theo. Dù là cha mẹ, con cái, vợ chồng, bạn bè hoặc bất cứ ai, chúng ta đều được mời gọi đến với sự hiệp nhất sâu xa và luôn mãi.
Khi chúng ta biết đến Chúa Con, chúng ta tự động biết về Chúa Cha. Và tin tốt là nếu chúng ta biết Chúa, và người khác biết đến chúng ta, thì chúng ta có thể giúp họ biết đến Chúa thông qua chúng ta. Đây là một trong những cách tuyệt vời để truyền giáo và mang Chúa đến với những người mà chúng ta biết và yêu mến.
2021
ƠN CỨU RỖI
27.4 Thứ Ba Tuần IV Phục Sinh
– Thánh Lô-ren-xô Nguyễn Văn Hưởng, Linh mục (1856), Tử đạo.
– Các bài đọc Lời Chúa: Cv 11,19-26; Ga 10,22-30.
ƠN CỨU RỖI
Những điều Chúa Giêsu nói và làm thật đáng tin, vì Người nhân danh Chúa Cha mà làm, mà nói. Người và Chúa Cha là một Chúa Giêsu chính là nền tảng đức tin, mà trên đó mỗi người Kitô hữu chúng ta xây dựng đời mình. Ai sống và vững tin vào Người thì sẽ có sự sống viên mãn và chẳng ai có thể lấy đi được.
Không phải chỉ trong thời đại văn minh này người ta mới lịch sự đón tiếp đại sứ của một chính phủ hay nguyên thủ của một quốc gia đúng theo địa vị đại diện của họ. Nhưng ngay từ thời xưa, hậu đãi hay ngược đãi sứ giả của một vua là đã phụ đãi hay ngược đãi chính nhà vua và chính quốc gia mà người ấy đại diện.
Không phải vì tiếng tăm, học vấn hay tài trí của sứ giả làm cho họ được kính trọng mà chính vì thay mặt nhà vua và một quốc gia mà họ có quyền được hậu đãi như thế. Ðây cũng là điều mà Chúa Giêsu nói với những người Do Thái thời xưa như được kể lại trong đoạn Tin Mừng vừa trích dẫn trên đây.
Khi ấy ở Giêrusalem dịp cung hiến đền thờ bấy giờ là vào mùa đông, và Chúa Giêsu đã đi đi lại lại ở cổng đền thờ Salomon. Sau những câu nhập đề mô tả khung cảnh tôn giáo như vậy, thánh Gioan kể tiếp thắc mắc của người Do Thái, bấy giờ người Do Thái vây quanh Chúa Giêsu và hỏi: “Ông để chúng tôi phân vân đến bao giờ nữa, nếu ông là Ðức Kitô thì hãy nói trắng ra cho chúng tôi biết”.
Câu hỏi mà họ đặt ra trong lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy tại đền thờ làm ta nhớ đến câu hỏi của thượng tế Caipha trong phiên họp thượng hội đồng: “Nếu ông là Ðấng Kitô thì xin hãy nói thẳng ra đi. Ông có phải là Ðấng Mêsia không?”. Trong câu chất vấn này, Chúa Giêsu đã không phủ nhận. Chỉ có điều Chúa Giêsu trả lời một cách hơi gián tiếp như sau: “Tôi đã trả lời câu hỏi này mà các ông không tin”.
Nhưng dẫu như thế, Chúa Giêsu không bỏ rơi họ để giúp họ tìm thấy sự thật, tìm ra câu trả lời. Chúa Giêsu đã khéo léo làm cho họ chú ý đến quan hệ mật thiết giữa Ngài với Thiên Chúa Cha, mật thiết đến độ Ngài gọi Thiên Chúa là Cha Ngài và làm chứng cho mối quan hệ mật thiết đó bằng việc làm nhân danh Cha Ngài, và việc cao trọng nhất là ban cho kẻ tin Ngài được sự sống đời đời: “Ta sẽ cho họ sống đời đời. Họ sẽ không chết bao giờ và không ai có thể cướp họ khỏi tay Ta”.
Dịp tụ họp dân chúng nơi cổng Salomon ở đền thờ là dịp lễ cung hiến đền thờ Giêrusalem. Lễ cung hiến đền thờ có ý nghĩa gì đối với người Do Thái? Thưa, đây là một trong những lễ trọng của người Do Thái vì để ghi dấu đền thờ Giêrusalem trước đó đã bị ô uế, bị xúc phạm, nay thánh hiến lại để bắt đầu trở lại sinh hoạt tôn giáo. Lễ cung hiến đền thờ nhắc cho người dân nhớ lại sự phục hưng tôn giáo được những sứ giả của Chúa là anh em Macabê thực hiện vào năm 146 trước Chúa Giáng Sinh. Vào năm 170 đền thờ đã bị vua Syria làm ô uế, làm nơi dâng lễ vật cho thần ngoại bang Hy Lạp vì thế mà đã xúc phạm đến Thiên Chúa chân thật. Giờ đây đền thờ cung hiến được lại là để nhắc nhớ lại khung cảnh tôn giáo và địa điểm cung thánh giảng dạy là cổng Salomon.
Nếu đã nhìn nhận mối quan hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, thì hẳn những người Do Thái sẽ biết trả lời cho câu hỏi “Ông là ai?” như thế nào rồi. “Ta và Cha Ta, chúng ta là một”. Ðây là mạc khải quan trọng nhất nhắc ta nhớ lại những suy tư mở đầu Tin Mừng theo thánh Gioan: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngôi Lời sống với Thiên Chúa ngay từ đầu. Vạn vật do bởi Ngài mà có và nếu không có Ngài thì sẽ không có gì cả”. Tác giả Tin Mừng thánh Gioan đã có những suy tư cao siêu như vậy khi nhìn về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong viễn tượng Chúa Phục Sinh.
Nghe là cả một sự lắng động và nghe của con tim. Biết ở đây cũng thế, không phải biết theo kiến thức bằng cái đầu. Cái biết thâm sâu được thể hiện bằng tình yêu và những mối tương quan gắn bó. Biết là một quá trình học hỏi với những kinh nghiệm, diễn tả sự hiệp thông sâu xa, trong tương quan tình yêu. Cũng như kinh nghiệm khi Chúa Giêsu hiện ra với Mary Magdala, Chúa chỉ cần gọi một tiếng ngắn ngủi: “Mary.” Bà nhận ra ngay và kêu lên: “Lạy Thầy!” Vì thế, Chúa Giê-su nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay: “chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27)
Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Chúa Giêsu lập lại dụ ngôn Mục tử Nhân lành biết các chiên của Ngài và các chiên của Ngài biết Ngài. Sự hiểu biết hỗ tương này – giữa Chúa Giêsu đến nhân danh Chúa Cha và những người rộng mở mình cho chân lý – là nguồn mạch của sự sống vĩnh cửu. Sự kết hiệp này giữa Đấng Tạo Hóa và thụ tạo qua Chúa Giêsu vượt qua mọi đe dọa của sự chết : “Chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi”. Họ được an toàn và vì sự an toàn này, họ ở trong bình an và hưởng được sự tự do trọn vẹn.
Cha và Tôi là một. Hai câu này nói về mầu nhiệm của sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha : “Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một”. Câu này và những câu khác làm cho chúng ta đoán ra hay lãnh hội được một chút mầu nhiệm vĩ đại : “Ai thấy Tôi là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9). “Chúa Cha ở trong Tôi và Tôi ở trong Chúa Cha (Ga 10, 38). Sự kết hiệp này giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha không phải là điều tự động xảy ra, nhưng đúng hơn là kết quả của sự vâng phục : “Tôi luôn làm điều đẹp lòng Cha Tôi” (Ga 8, 29; 6, 38; 17, 4). “Lương thực của tôi là thực hiện ý của Chúa Cha” (Ga 4, 34; 5, 30). Thư Hibri nói rằng Chúa Giêsu học vâng phục từ những điều Ngài chịu” (Hb 5, 8). “Ngài vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá” (Pl 2, 8). Sự vâng phục của Chúa Giêsu không phải là một sự vâng phục có tính kỷ luật, nhưng đúng hơn là một sự vâng phục có tính sứ ngôn. Ngài vâng phục để hoàn toàn trong sáng và như vậy, là sự mặc khải Chúa Cha. Chính vì thế Ngài nói : “Chúa Cha và Tôi là một!”.
Nhưng thực tế cuộc đời chúng ta rất kém tin, yếu tin, và cứng tin vào Thiên Chúa. Chúng ta tin vào những thế lực của tiền bạc, của cải, danh vọng, địa vị những cái vốn dĩ rất mong manh và chóng qua nên cuộc đời cứ mãi còn băn khoăn, lo lắng và bất an, thiếu hạnh phúc. Không có tiền thì ta lo làm sao cho có được tiền; có được tiền rồi thì lo làm sao để giữ được tiền và có được nhiều hơn…. Làm tôi tiền bạc, chúng ta quên Thiên Chúa; vì Chúa Giêsu đã xác định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24)
Tin Mừng hôm nay cho chúng con thêm một lần nữa nhìn lại tương quan của chúng con đối với Chúa. Tương quan của con với Chúa có thực sự sâu sắc đến độ cho dù ở khoảng cách “xa” và rất “khẻ” con vẫn nhận ra đó là Chúa không? Độ nhạy bén về sự hiện diện của Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời con thế nào?
Nếu chúng ta thuộc đàn chiên của Chúa, nghĩa là chúng ta biết tín thác cuộc đời trong tay Chúa, thì chúng ta sẽ được thừa hưởng lời hứa của Ngài: “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời ; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chúa Cha là một.”
Đây là một lời hứa đầy an ủi. Nếu sống phó thác cuộc đời cho Chúa như con chiên hoàn toàn lệ thuộc vào chủ chiên, chúng ta sẽ không lo sợ phải hư mất và “không ai cướp được” chúng ta khỏi tay Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha.
2021
CHỦ CHIÊN NHÂN LÀNH
26.4 Thứ Hai Tuần IV Phục Sinh
– Các bài đọc Lời Chúa: Cv 11,1-18; Ga 10,1-10
CHỦ CHIÊN NHÂN LÀNH
Chúa Giêsu tự ví mình là “cửa cho chiên ra vào”. Cánh cửa Giêsu không chỉ nhằm bảo bọc, bảo vệ đàn chiên khỏi mọi nguy hiểm nhưng còn là cửa ngõ mở lối dẫn đưa vào sự sống đời đời. Hình ảnh cánh cửa Giêsu như một lời xác quyết chỉ duy mình Đức Giêsu mới có quyền thông ban ơn cứu độ. Qua Người, chúng ta sẽ gặp gỡ được Thiên Chúa và đến với tha nhân trong tình yêu. Nhờ Người, chúng ta sẽ được cứu rỗi và tim thấy hạnh phúc Nước Trời.
Chúa là Chủ Chiên Nhân Lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu bao la tha thiết và vô vị lợi, tình yêu phát sinh ra sự sống đời đời. Ngài cũng biết rõ về đặc tính của từng con chiên một. Mỗi người chúng ta đều có vị trí trong trái tim yêu thương của Ngài. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27).
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về cuộc đấu tranh nội tâm này khi có sự đối lập giọng nói của Mục Tử với giọng nói của một người xa lạ. Những con chiên được dạy và huấn luyện một cách dễ dàng. Chúng nhận ra tiếng của người chăn vì đó là cách luyện tập mà những người chăn thường xuyên nói chuyện với chiên. Một khi con chiên đã quen với giọng nói của người chăn chiên, chúng sẽ quay lại và đi theo anh ta khi anh ta gọi.
Đối với chúng ta cũng vậy. Chúng ta sẽ đi theo tiếng mà chúng ta đã quen thuộc nhất. Bất kể tiếng đó là gì đi nữa chúng ta đắm mình trong nó mỗi ngày. Nó sẽ lớn lên trong chúng ta và lôi kéo chúng ta đi theo một cách vô thức.
Điều này đặt ra cho chúng ta câu hỏi, “Chúng ta đang quen thuộc nhất với điều gì? Thật lý tưởng khi chúng ta dành hết thời gian cho Lời của Chúa, học lấy ngôn ngữ của Ngài, âm điệu và tiếng của Ngài. Lý tưởng nhất, chúng ta hãy dành một phần trong ngày của chúng ta, dành mỗi ngày, để suy niệm trong thinh lặng về Thiên Chúa. Khi chúng ta làm điều này, chúng ta xây dựng thói quen lắng nghe Chúa nói và chúng ta trở nên bình an và được an ủi bởi tiếng của Ngài.
Một khi thói quen này được thiết lập trong chúng ta, sẽ dễ dàng hơn nhiều để chúng ta bắt đầu một ngày bận rộn nhưng vẫn nghe tiếng Chúa nói dù bất cứ lúc nào. Chúng ta sẽ ngay lập tức nhận ra đó là Ngài và chúng ta sẽ đi theo.
Theo gương Chúa : “Ta đến đển để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10), xin cho chúng ta biết quan tâm xây dựng tinh thần hiệp nhất yêu thương giữa những thành viên trong cộng đoàn. Luôn quảng đại yêu thương và nâng đỡ những anh chị em nghèo khổ, hết lòng đón nhận những anh chị em lạc xa Chúa.
Phần chúng ta, chúng ta hiểu rằng cuộc đời của con chỉ bình an khi gắn bó với Chúa, khi đi theo tiếng gọi của Chúa. Đã nhiều lúc chúng ta chỉ muốn tách Chúa ra khỏi cuộc đời của chúng ta để tìm cho đời mình một lối đi riêng, một toan tính cá nhân. Xin cho chúng ta xác tín rằng có Chúa đi chung thì lối đi cuộc đời mới thênh thang, bước chân hành trình mới nhẹ nhàng và tâm hồn sẽ an bình thư thái.
Mục Tử Nhân Lành Giêsu luôn chăm lo cho chúng ta, Ngài biết chúng ta cần đến những gì và sẵn sàng ban những ơn cần thiết cho chúng ta. Ngài còn hiến thân mình để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta, giúp chúng ta có đủ nghị lực trong suốt cuộc hành trình lữu thứ để tiến về Thiên Quốc. Hãy nhớ đừng bao giờ xa lìa đoàn chiên và cố gắng đưa nhiều người về sống chung trong đoàn chiên của Chúa.
Thiên Chúa là người Cha nhân từ, Ngài luôn mở cửa lòng chờ đón những đứa con hoang đàng trở về, như câu chuyện “ Tình Cha” trong Tin Mừng. Ngài cũng muốn tất cả chúng ta biết sống “ Mở cửa lòng” để đón nhận anh chị em mình. Một bà mẹ dòng ba Đa Minh có đứa con trai bỏ học đàn đúm theo kẻ xấu, nó về nhà cạy tủ lấy hết tiền của gia đình để ăn chơi…, mẹ có khuyên can cách mấy nó cũng giả ngơ, lòng mẹ đau như dao cắt, bất đắc dĩ phải từ con, đuổi nó ra khỏi nhà, vì sợ phải tán gia bại sản, sẽ khổ sở cho cả nhà với bốn anh chị em còn lại của nó …
Hôm nay chúng ta hãy suy ngẫm dựa trên tiếng gọi nào đang kêu gọi chúng ta to nhất. Đừng để cho nhiều tiếng gọi khác trong thế giới của chúng ta át cả tiếng Chúa. Thay vào đó, hãy chuẩn bị tinh thần cho những khoảnh khắc Chúa nói với chúng ta. Và khi Ngài nói, hãy để giọng nói đó thu hút sự chú ý chúng ta để chúng ta có thể đi theo Ngài.