2021
GẮN LIỀN VỚI CHÚA
05 24 Tr Thứ Tư Tuần V Phục Sinh.
Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giuse.
Cv 15,1-6; Ga 15,1-8.
GẮN LIỀN VỚI CHÚA
Tin Mừng hôm nay a thấy Chúa Giêsu chọn cây nho và cành nho để trò chuyện với các môn đệ của Ngài.
Chúa Giêsu long trọng khẳng định một cách tuyệt đối và siêu việt, có âm vang Messia: “Thầy là cây nho thật”, và Thiên Chúa Cha là người trồng nho. Như vậy Chúa Giêsu có phẩm tính thần linh, và sự sống mà Ngài chuyển thông cho những cành nho của Ngài là sự sống thần linh. Chính Giáo Hội và tất cả những người Kitô hữu là cành nho, nhất thiết phải gắn liền với thân cây nho là Chúa Giêsu Kitô, để đón nhận nhựa sống thần linh của Ngài. Nước rửa tội, rượu Thánh Thể sẽ là những chính lộ của sự chuyển thông ấy từ cây nho đích thực, là cây nho ban sự sống, để thân cây nho và cành nho hình thành nên chỉ một cây nho duy nhất. Đây là một hình ảnh rất thân thương mật thiết của Chúa Kitô đối với Giáo Hội của Ngài.
Chúa Giêsu là cây nho thật, cây nho hoàn hảo, cây nho sinh hoa trái như Chúa Cha mong muốn nơi Đức Kitô, là qui tụ các kitô hữu làm nên một dân riêng mới của Thiên Chúa, dân mà Ngài đã chuyển thông sự sống cho. Người kitô hữu sống kết hợp với Chúa Kitô nhờ đức tin thì mới có sự sống thần linh, và mới có thể sinh hoa trái cho sự sống đời đời. Cây nào sinh hoa trái thì Thiên Chúa cắt cành tỉa lá để chúng nảy sinh nhiều hoa trái hơn.
Đó là công việc của Thiên Chúa đang thực hiện trong Hội Thánh và trong mỗi kitô hữu. Ngài cắt tỉa nhiệm nhặt như không chút xót thương qua những thử thách, bằng cách chịu bách hại, đau khổ và hi sinh vì Chúa, để tôi luyện đức tin, lòng cậy trông và tình mến Chúa, vì như lửa thử vàng thì gian nan lại thử đức. Chúa gởi thử thách để thanh luyện những kẻ yêu mến Ngài, để họ trở nên những con người đem lại nhiều kết quả cho Nước Trời. Luật cắt tỉa cứng rắn như vậy, người kitô hữu mới không trở thành những cành khô héo. Nhưng Chúa Giêsu cũng an ủi các môn đệ của Ngài: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em”.
Để sinh nhiều hoa trái, chúng ta được mời gọi ở lại trong Chúa Giêsu, như cành nho gắn liền với thân nho. Chúa Giêsu ở lại trong chúng ta, và chúng ta được mời gọi ở lại trong Ngài. Và như chúng ta đều biết, “ở lại trong nhau” là ngôn ngữ của tình yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu sẽ nói tới tình yêu trong phần tiếp theo: “Chúa Cha yêu mến thầy thế nào, thầy cũng yêu mến anh em như vậy”. Lời mời gọi ở lại, được Đức Giê-su nhắc đi nhắc lại từ đầu đến cuối, qua hình ảnh thân nho, cành nho và trái nho, và theo những cách thức khác nhau.
Khi thì xác định: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”.
Khi thì phủ định: “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo”.
Với bí tích Thánh Thể, được hoàn tất trong mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh, mà chúng ta cử hành mỗi ngày và là trung tâm của đời sống dâng hiến của chúng ta, Chúa Giêsu sẽ mãi mãi ở lại với chúng ta, để cho chúng ta có thể mãi mãi ở lại trong Ngài. Nhưng Chúa Giêsu còn ở lại với chúng ta ngang qua Lời của Người nữa, bởi vì Người là Ngôi-Lời, nghĩa là Lời và Ngôi Vị của Người là một. Vì thế, ngay sau đó, Đức Giê-su nói về lời của mình: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em” (c. 3) ; « Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý » (c. 7).
Như thế, Chúa Giêsu còn ở lại trong chúng ta qua Lời của Ngài, và chúng ta được mời gọi ở lại trong Chúa Giêsu, bằng cách “ăn” Lời của Người như là lương thực, nghĩa là để cho Lời của Ngài ở lại và thấm vào trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta.
Chính vì thế, các việc thiêng liêng của chúng ta đều khởi đi từ Lời Chúa: cầu nguyện, Thánh Lễ, chia sẻ, các Giờ Kinh Phụng Vụ, tĩnh tâm… Lời của Đức Giê-su không chỉ là nhựa sống, nuôi sống chúng ta, kết nối chúng ta với Đức Giê-su và làm cho chúng ta sinh hoa trái, nhưng còn có chức năng cắt tỉa, làm chúng được nên thanh sạch.
Vì lời Chúa ở trong các ông đã trở nên một sức mạnh biến đổi nội tâm các ngài, sức mạnh của lời Chúa giải phóng các ông khỏi gian dối và tội lỗi. Chúa Giêsu còn mời gọi các môn đệ: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” vì “ không có Thầy anh em không làm gì được”. Lời này chỉ về cuộc sống siêu nhiên, không ai có thể nhờ phương thế riêng mình mà có thể đạt được hay tăng trưởng được. Chúa Giêsu còn nói lên tính hiệu lực của lời cầu nguyện khi chúng ta biết kết hiệp mật thiết với Đức Kitô: “nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”.
Phần cuối của Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu diễn tả mối bận tâm của Ngài là làm vinh danh Chúa Cha, thực hiện thánh ý Chúa Cha. Điều đem lại vinh quang của người trồng nho chính là chất lượng của trái nho, cũng như sự sai trái của chùm nho. Như vậy, các môn đệ góp phần vào vinh quang của Chúa Cha bằng đời sống thánh thiện của các ngài, và bằng những kết quả sáng chói của sứ vụ các ngài thực hiện, lúc đó các ngài mới là môn đệ thực sự của Đức Giêsu Kitô.
Qua hình ảnh về sự sinh trưởng của cây nho, sự tương quan gắn bó chặt chẽ giữa cây nho và cành nho, chúng ta suy niệm để khám phá ra mối tương quan cần thiết giữa chúng ta với Chúa Kitô trong cuộc sống hằng ngày, để chúng ta biết tin vào Chúa Kitô và biết kết hợp chặt chẽ với Chúa Kitô, làm mọi việc với Chúa, vì Chúa để có kết quả thiêng liêng đời đời trong ngày cánh chung. Chúng ta siêng năng chịu các phép bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể để chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu hơn, mới có thể sống đời sống thiêng liêng dồi dào và sản sinh hoa trái.
Thế nhưng rồi muốn cho đời sống chúng ta có kết quả phong phú, chúng ta còn cần sống lời Chúa và để lời Chúa thanh luyện chúng ta, tẩy sạch chúng ta khỏi các tính mê tật xấu. Mỗi lần lời Chúa tiêu diệt một tính xấu, là một lần chúng ta sinh thêm hoa trái thiêng liêng. Càng tin vào Thiên Chúa càng sống bác ái với tha nhân và càng trở nên hoàn thiện cho bản thân, càng làm cho Thiên Chúa được vinh quang. Chúng ta luôn kết hợp với Chúa Kitô và để cho lời Chúa cắt tỉa chúng ta, dù phải hi sinh chịu đau khổ cách nào, thì đời sống đạo chúng ta mới thăng tiến được.
2021
Bình an đích thực
04 23 Tr Thứ Ba Tuần V Phục Sinh.
Cv 14,19-28; Ga 14,27-31a.
Bình an đích thực
Bình an là điều tốt lành ai ai cũng trông mong. Người sống trong chiến tranh mong hòa bình mau trở lại. Nhưng khi chiến tranh chấm dứt, lòng người vẫn khắc khoải trước bao thách đố xảy ra hằng ngày. Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ, cũng như cho cả chúng ta, sự bình an quý giá vô vàn so với thứ bình an không có chiến tranh.
Bình an Chúa Giêsu trao ban là ân huệ phục sinh của Người. Hay nói cách khác: “Chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14). Ai có được Người thì chẳng còn thiết gì hơn nữa. Chỉ cần một lần được ẵm Chúa trên tay, cụ Simêon đã cảm thấy toại nguyện, nên bộc phát cầu nguyện: “Xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ” (Lc 2,29).
Có một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công thi thố tài năng. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh và chỉ dừng lại ở hai bức tranh cuối cùng có vẻ ấn tượng nhất.
Bức tranh thứ nhất vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ như tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo. Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ với cơn mưa như trút kèm theo sấm chớp. Nước đổ xuống bên vách núi thành dòng thác nổi bọt trắng xóa.
Bức tranh này trông chẳng bình yên chút nào. Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn thật kỹ, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ cùng với các con của mình. Ngắm nghía một hồi lâu, nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! Đây mới là cảnh bình yên thật sự”.
Câu chuyện trên làm chúng ta nhớ tới lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”. Sự bình an mà Chúa Giêsu ban không có nghĩa là không có những trắc trở gian nan như mặt hồ lặng sóng nhưng là sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn khi phải đối mặt với phong ba bão táp. Bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, nhưng là một tâm hồn đầy lòng tin tưởng phó thác giữa những thách đố đang chờ đợi.
Khi Chúa Giêsu biết mình sắp bị giới lãnh đạo Do Thái bắt nộp, bị môn đệ Giuđa phản bội…và giờ Chúa Cha tôn vinh đã cận kề. Người đã trăn trối lại cho các môn đệ những lời tâm huyết sau cùng. Các môn đệ cảm thấy hoang mang sợ hãi, tâm hồn đầy xao xuyến, Thầy đi rồi còn tương lai của các ông sẽ về đâu? Một câu hỏi lớn chưa tìm ra câu trả lời. Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu hứa ban bình an và niềm vui của Người cho các ông.
Trong cuộc sống người ta cũng tạo cho nhau sự bình an, có thể đó là cuộc sống không có chiến tranh, là sự thịnh vượng về vật chất, là những tiện nghi khoa học tối tân đáp ứng mọi nhu cầu của con người. Sự bảo đảm này phần nào cũng có giá trị của nó, nhưng Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta tiến xa hơn trong niềm tin Kitô giáo. Như Chúa Giêsu đã đón nhận mọi đau khổ, đã uống trọn chén đắng Cha trao để nên một trong thánh ý Cha. Ngài đã đánh đổi bằng cả mạng sống mình để đổi lấy sự bình an, là dám tin và trao phó cuộc đời mình cho kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.
Các môn đệ lo lắng sợ hãi vì không biết phải đi con đường nào giữa trăm ngàn ngã rẽ, không biết tin cậy vào đâu trước những thế lực xấu đang bủa vây. Chúa Giêsu đã động viên các ông và khẳng định “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”. Ai đi theo con đường của Chúa chắn chắn sẽ tới đích. Ai tin vào Chúa sẽ không phải thất vọng bao giờ. Ngược lại ai cậy dựa vào vào sức riêng mình và sự bảo đảm của vật chất trần gian sẽ phải gánh chịu nỗi bất an ê chề.
Lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong bầu khí ảm đạm chia tay, các môn đệ tỏ ra đau buồn xao xuyến, lo lắng. Chúa Giêsu đã trấn an các ông bằng cách Ngài ban “ bình an cho các ông ” . Bình an mà Thiên Chuá ban cho các tông đồ không phải là hoà bình theo kiểu không chiến tranh, cũng không phải là tâm trạng của người hết căng thẳng về tâm lý, không phải là thứ bình an thuộc lãnh vực tự nhiên, theo kiểu trần thế giả tạo bên ngoà Bình an mà Thiên Chuá ban cho chúng ta thuộc lãng vực siêu nhiên, bình an mà chúng ta được lãnh nhận qua các Bí Tích. Vậy mỗi người chúng ta hãy sốt sắng đón nhận thứ bình an mà Thiên Chúa đã trao ban cho mình.
Bình an là quà tặng mà Chúa Phục sinh ban cho các tông đồ, ngay khi Người từ cõi chết sống lại. Bình an cũng là quà tặng mà hôm nay, Chúa đang rộng tay ban phát cho những ai tuân giữ Lời Người. Người tín hữu, sau khi nhận quà tặng của Chúa, được mời gọi để trở nên những sứ giả đem bình an đến cho thời đại mình đang sống. Nếu ý thức được như vậy, chúng ta sẽ góp phần đẩy lùi những hành động gian dối đanh huỷ hoại tương lai của dân tộc chúng ta.
2021
Loan báo Tin Mừng
03 22 Đ Thứ Hai Tuần V Phục Sinh.
THÁNH PHI-LÍP-PHÊ VÀ THÁNH GIA-CÔ-BÊ TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
1Cr 15,1-8; Ga 14,6-14.
Loan báo Tin Mừng
Theo truyền thống, việc cử hành lễ này bắt nguồn từ việc cung hiến đại thánh đường dâng kính Mười hai vị thánh Tông Đồ tại Rôma ngày 1 tháng 5 năm 565. Nhân dịp này, có lẽ người ta đã đặt dưới bàn thờ thánh tích của các Tông Đồ Philípphê và Giacôbê. Vì thế, ở Tây Phương, người ta mừng lễ chung cả hai thánh.
Thánh Philipphê (tiếng hy-lạp = Philippos = người thích ngựa), là một trong nhóm Mười hai, quê quán tại Betsaide, cùng thành phố với Anđrê và Phêrô (Ga 1,44). Trong danh sách các Tông Đồ, ngài luôn chiếm vị trí thứ năm, và trong sách Tin mừng của Gioan, ngài xuất hiện ba lần trong tư cách người bạn tâm giao của Đức Giêsu. Ngài đã nói với Nathanael: Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: Đó là ông Giêsu… Cứ đến mà xem (Ga1,45 –46). Rồi cùng với Anđrê, ngài tham gia vào hai việc quan trọng: lúc đầu, lúc Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều và trước ngày Chúa chịu khổ nạn – đó là ngày Đức Giêsu vinh quang tiến vào Giêsusalem; lần sau, khi ngài làm môi giới cho các khách hành hương Hy Lạp muốn gặp Đức Giêsu (Ga12, 20 –21). Tin mừng của Gioan còn cho ta thấy ngài tại bàn Tiệc Ly, ngài nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha …” (Ga 14, 8 tt).
Theo truyền thuyết, có lẽ Philípphê đã rao giảng Tin Mừng cho miền Tiểu Á và chịu đóng đinh tại Hiérapolis, vùng Phrygie. Nghệ thuật ảnh tượng thường minh họa ngài với cây thập giá trong cuộc tử đạo, hay đang lúc chịu đóng đinh.
Giacôbê – được gọi Hậu hay Tiểu huynh – cũng là một trong nhóm Mười hai. Người ta thường đồng hóa ngài với Giacôbê, người anh em của Chúa (Gl 1,19, Mc 6,3), là giám mục Giêrusalem và nhân vật hàng đầu của Hội thánh tiên khởi (Cv 15). Đức Giêsu hiện ra cho ngài sau khi Người đã phục sinh (Cv 15, 1- 8) và có lẽ ngài cũng là tác giả của thư Giacôbê.
Theo lưu truyền, Giacôbê Hậu chịu tử đạo tại Giêrusalem. Sau khi đẩy ngài từ trên cao Đền thờ xuống, người ta kết liễu đời ngài bằng cuộc ném đá. Nghệ thuật ảnh tượng minh họa ngài với một cái chùy cối xay, hay cuốn sách.
Lời cầu xin của Philípphê với Đức Giêsu: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha; như thế là chúng con mãn nguyện (Phúc Âm ngày lễ: Ga 14,6-14) và lời đáp của Thầy: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, tất cả đều là trọng tâm của lời kinh Phụng Vụ.
Lời nguyện nhập lễ gợi lại mục đích đời sống Kitô hữu: là “được thông phần vào cuộc Khổ nạn và Phục Sinh” của Đức Kitô để “được chiêm ngưỡng vinh quang của Người”. Quả vậy, chính Đức Kitô là đường dẫn đến Chúa Cha: Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến với Cha mà không qua Thầy… Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha Thầy (câu 6 và 9). Các câu này trở đi trở lại nhiều lần trong Thánh lễ và trong các giờ kinh Phụng Vụ.
Cả Philípphê lẫn Giacôbê đều được thấy Đấng Phục Sinh và đã làm chứng về Người. Giacôbê được thánh Phaolô nhắc đến (1 Cr 15,8) như là một nhân chứng về sự sống lại của Chúa: … sau đó, Ngài cũng hiện ra cho Giacôbê (bài đọc một trong Thánh lễ).
Lời nguyện trên lễ vật gợi lại lòng đạo đức đích thật được các Tông Đồ Philípphê và Giacôbê giảng dạy và chúng ta được mời gọi “thực thi cách tinh truyền và không có gì đáng trách”. Như thế, chúng ta cũng nhớ đến Thư của thánh Giacôbê – Theo lưu truyền được gán cho Giacôbê, người anh em của Chúa – qua đó chúng ta đọc: Lòng đạo đức tinh truyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian (Gc 1,27). Vậy sự tôn thờ đích thật, phù hợp với lời giảng dạy của các ngôn sứ, không thể tách rời khỏi lẽ công bình và lòng yêu mến các kẻ “Hèn mọn”: … Hãy tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ (Is 1,17)
Giáo Hội mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.
Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.
Nhìn thấy Thiên Chúa! Khát vọng khôn nguôi của con người, nền tảng vững chắc cho Đức Tin chúng ta! Lời kêu xin của Philípphê cũng là niềm khao khát của mỗi người chúng ta. Lời mở đầu Tin Mừng Gioan khẳng định: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ!” (Ga 1,18). Nhưng vì tình yêu tế nhị và đầy cảm thông cho niềm tin chúng ta, Thiên Chúa đã trở nên hữu hình với một gương mặt nhân loại để chúng ta nhìn ngắm Ngài để chúng ta tin: Gương Mặt tuyệt vời của Đức Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha!”
Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.
Cuộc đời người tín hữu là một cuộc hành trình, hành trình ấy cũng khởi đi từ Thiên Chúa, và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Ở đó, nếu Người Kitô hữu bước đi trên con đường mang tên Giêsu thì sẽ đến được đích. Nhưng nhiều lúc trong cuộc đời, chúng ta lại chỉ bước đi trên con đường riêng do mình vạch ra.
Năng lực của đức tin được thể hiện khi người tin hành động nhân danh Đức Giêsu và với mục đích vinh danh Thiên Chúa. Khi tin thật Đức Giêsu là con đường dẫn tới Thiên Chúa Cha, là nguồn sự sống, chúng ta sẽ trung tín và kiên trì bước đi đến cùng.
Mỗi người chúng ta cũng được Chúa chọn qua bí tích Rửa Tội; và vì vậy, chúng ta cũng được diễm phúc: thấy những việc Chúa làm trong cuộc đời mình; nghe những lời Chúa nói qua Tin Mừng, qua Giáo Hội; được sai đi loan báo Tin Mừng và làm chứng bằng đời sống gương mẫu về công bình, bác ái, niềm tin, lòng trông cậy và tình mến Chúa.
2021
LAO ĐỘNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỦA CHÚA
01 20 Tr Thứ Bảy Tuần IV Phục Sinh.
(Tr) Lễ thánh Giu-se thợ.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Cv 13,44-52; Ga 14,7-14.
Bài đọc lễ Thánh Giuse Thợ:
St 1,26-2,3 (hoặc Cl 3,14-15.17.23-24); Mt 13,54-58
LAO ĐỘNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH CỦA CHÚA
Chúa Giêsu khi từ cõi chết sống lại, Ngài hiện ra với bà Maria Madalêna, Ngài không tỏ vinh quang như trên núi Hiển Dung cho các môn đệ (x Mt 17), mà bà Maria Madalêna thấy Chúa Giêsu Phục Sinh tưởng đó là người làm vườn (x Ga 20,15). Chúa Giêsu Phục Sinh hữu ý mang dáng dấp người làm vườn là Ngài muốn nối tiếp sứ mệnh Thiên Chúa trao cho ông Adam phải canh tác vườn, nói lên quyền làm chủ vạn vật Thiên Chúa đã tạo dựng (x St 1,26 – 2,3.15 : Bài đọc), để Đức Giêsu trở nên mẫu người lao động cho cả loài người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói : “Thiên Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Nghĩa là nơi Đức Giêsu có hai bản tính : Bản tính loài người và bản tính Thiên Chúa.
Do đó ai muốn trở nên giống Thiên Chúa trong bản tính loài người, thì phải lao động việc trần thế, và qua Bí tích Khai Tâm, con người đã được thông dự vào bản tính Thiên Chúa, thì còn phải lao động vào việc Nước Thiên Chúa.
Suốt ba mươi năm đầu cuộc đời Đức Giêsu, trong xưởng mộc với ông Giuse, cha Ngài tại Nazareth, thì người ta chỉ nhìn Ngài là “con bác thợ mộc” (x Mt 13,55 : Tin Mừng), Ngài nói : “Con không thể làm gì tự mình, nhưng mọi sự đều vì đã trông thấy Cha làm, điều gì Người làm thì Con cũng làm như thế” (Ga 5,19).
Giáo huấn của Công Đồng Vat.II, dạy chúng ta biết về giá trị lao động trần thế : “Hoạt động của con người phát xuất từ con người, nên quy hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc, con người không những biến đổi sự vật và xã hội, mà còn cải thiện chính mình. Bởi vì khi làm việc, con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng, cũng như thoát ra và vượt khỏi chính mình. Nếu được hiểu cho đúng thì, sự tăng triển này còn đáng gía hơn mọi của cải thu tích được. Giá trị của con người hệ tại ở “cái mình là” hơn là ở “cái mình có”.(Hiến Chế Hội Thánh Trong Thế Giới Hôm Nay số 35).
Như thế làm việc không nhất thiết phải đạt thành công trước mắt, nhưng đã trở nên nghĩa người hơn. Chính Đức Giêsu suốt đời làm việc không ngơi nghỉ giống Cha trên trời (Ga 5,17), thế mà cuối đời xem ra thất bại, bị mọi người khai trừ! Nhưng chính lúc ấy, Tổng trấn ngồi xử án, lại chỉ riêng vào Đức Giêsu đang đứng trước một rừng người, và ông lớn tiếng tuyên bố: “Này là Người” (x Ga 19, 5).
Kinh thánh kết án kẻ lười: “Kẻ lười tệ kém hòn phân, ai mà đụng nó là tay phủi liền” (Hc 22,2).Ai không chu toàn bổn phận mình, nó là anh em với quân phá hoại (Cn 18,9).
Khi làm việc con người được thoát ra: tức là thoát ra khỏi kiếp loài vật, vì con vật ăn sẵn những gì Thiên Chúa hoặc con người tạo nên cho nó: như con sâu ăn lá cây, con gà ăn giun, con heo ăn cám… Trái lại, con người dùng thực phẩm do tay mình làm ra.
Khi làm việc con người vượt khỏi chinh mình, tức là nhờ làm việc, con người có thêm của cải để chia sẻ. Chính nhờ biết chia đi, mà con người được biểu lộ giống Chúa, vì Thiên Chúa làm mọi sự chỉ để ban tặng cho loài người.
Tất cả những việc Đức Giêsu làm trong sách Tin Mừng ghi lại chỉ nhằm mục đích cho mọi người nhận biết Ngài là Thiên Chúa cứu độ duy nhất (Cv 4,12), để dạy mọi người cách sống yêu. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Ngài qua việc làm : Kẻ đói Ngài cho ăn, người bệnh tật Ngài chữa lành, nhất là Ngài hết lòng rao giảng Lời Chúa Cha nhằm cứu độ loài người,và huấn luyện các môn đệ để nối tiếp sứ mệnh của Ngài. Những việc làm ấy, chỉ có giảng Lời và huấn luyện môn đệ, dù người ta chống đối, loại trừ, nhưng vẫn còn tồn tại cho đến tận thế. Như vậy, giảng Lời và huấn luyện con người,tạo chất xám phục vụ Nước Thiên Chúa quan trọng nhất. Vì ngay khi Đức Giêsu còn trên dương thế, những ai chỉ muốn Ngài cho bánh ăn, hoặc được lành bệnh, thì Ngài trốn đi cầu nguyện ! (x Lc 4).
Thánh Giuse trong Tin Mừng chỉ cho biết ông làm nghề thợ mộc, công việc này để phụ giúp Đức Maria nuôi dưỡng Đức Giêsu. Nhưng ông khuất đi rất sớm, thì chắc chắn Đức Giêsu phải vất vả tiếp nối công việc của cha Giuse để phụ kinh tế trong gia đình với Mẹ Ngài. Thế thì việc lao động cơ bắp của ông Giuse không quan trọng lắm, mà quan trọng nhất là ông luôn tỉnh thức mau mắn làm theo Lời Chúa dạy, để đóng góp vào chương trình cứu độ loài người Con Thiên Chúa thực hiện.
Thực vậy, Thánh Matthêu ghi lại ba lần trong đêm tối ông Giuse mau mắn chỗi dậy thực thi Lệnh Chúa truyền :
Lần I : Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse phải chỗi dậy đón Maria, vợ ông về chung sống, để Maria sinh Con Đấng Tối Cao được an toàn, nếu không sẽ bị người đời ném đá, và ông còn có nhiệm vụ đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, để Chúa Giêsu được sinh ra làm ứng nghiệm lời Sách Thánh đã tiên báo Đấng Cứu Thế thuộc dòng vua Đavid, vì ông Giuse thuộc dòng này (Mt 1,18t).
Lần II : Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse mau chỗi dậy để đưa Hài Nhi trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê đang lùng kiếm giết Hài Nhi (Mt 2,13-18).
Lần III : Đang đêm Chúa bảo ông Giuse chỗi dậy đưa Maria và Hài Nhi trở về Nazareth, vì Ngài có sứ mệnh giải phóng loài người thoát nô lệ Satan, hơn sứ mệnh của ông Môsê đưa dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập (Mt 2,19-23).
Ba lần trong đêm ông Giuse chỗi dậy làm theo ý Chúa tiên báo về Đức Giêsu sau ba ngày từ cõi chết sống lại, để hoàn tất việc giải phóng loài người thoát tay tử thần.
Như thế, qua Kinh Thánh Chúa muốn mọi người xác tín : Phải chu toàn việc Nước Thiên Chúa trước khi chu toàn việc trần thế, thì cuộc đời con người mới hạnh phúc. Chính vì thế mà kẻ nào chỉ lo chạy đến cầu cứu Đức Giêsu cho của ăn vật chất, hoặc được lành bệnh, thì Ngài đã trốn họ. Nếu họ cứ tìm đến Ngài, Ngài phải lên tiếng nhắc nhở : “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Họ liền hỏi Người : “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn ?” Đức Giêsu trả lời : “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,27-29).
Vậy mọi người muốn được Chúa chăm sóc, thì phải thực hành Lời Ngài dạy : “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
“Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước nhất”, cụ thể là mau mắn làm theo ý Chúa để chung tay phát triển Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh, với tinh thần thánh Tông Đồ dạy : “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái : đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha. Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người” (Cl 3,14.17,23-24 : Bài đọc).
Muốn sống tinh thần lao động như Đức Giêsu, như thánh Giuse, ta phải cầu nguyện : “Lạy Chúa, việc tay chúng con làm xin Ngài củng cố” (Tv 90/89,17c : Đáp ca). Để “ngày lại ngày, xin chúc tụng Chúa, Thiên Chúa cứu độ ta, Người đỡ nâng ta” (Tv 68/67,20 : Tung Hô Tin Mừng).
Lễ thánh Giuse Lao Động được đặt vào đầu tháng năm, tháng Hoa kính Đức Mẹ. Hội Thánh muốn con cái mình hãy làm việc với tinh thần giống Chúa Giêsu và thánh Giuse, để trở thành những bông hoa tươi thắm dâng kính Mẹ Maria.