2021
Ðền thờ tâm hồn
28 17 X Thứ Sáu Tuần VIII Thường Niên.
Thánh Phao-lô Trần Văn Hạnh, Giáo dân (U1859), Tử đạo.
Hc 44,1.9-13; Mc 11,11-26.
Ðền thờ tâm hồn
Ta thấy, trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng của Chúa Giê su, có thể nói Ngài luôn là mẫu gương sống động đầy lòng xót thương, là “Thầy nhân lành”(Lc 18,18; Mc 10,18). Thế mà trong đoạn tin mừng hôm nay (Mc 11,11-27) thánh Maccô tường thuật cho chúng ta thấy Chúa đã nổi giận đến hai lần liên tiếp trong cùng một ngày.
Qua hai câu chuyện “Cây vả bị chúc dữ và “xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ Jêrusalem’. Hai câu chuyện này lại đan xen vào nhau, liên quan đến nhau và bổ xung, giải thích ý nghĩa cho nhau. Qua đó, Chúa Giêsu nhằm củng cố cho các môn đệ đời sống đức tin và cầu nguyện.
Thật vậy, hôm ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ rời khỏi Bê ta ni a để đến Jêrusalem Ngài cảm thấy đói. Trông thấy ở đằng xa có một cây vả tốt lá. Ngài đến để tìm trái ăn nhưng không có vì không phải là mùa vả. Người liền lên tiếng chúc dữ cây vả “Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa (Mc 11,12)
Tại sao Chúa lại chúc dữ cây vả ?. Phải chăng nhằm thỏa mãn cơn đói của Ngài? Nếu vây Chúa thật là người bất thường “nỗi giận trái mùa”. Vì làm sao có thể tìm trái cây khi không phải mùa sinh hoa kết quả của nó ?. Như vậy, điều Chúa muốn chiếu cố ở đây là gì? Có phải Ngài muốn ám chỉ đền thờ mà Ngài sắp tiến vào để thanh tẩy?
Chúng ta thử lần trở lại những trang sử của Do thái giáo để hiểu hơn điều Chúa muốn nói ở đây. Đối với người Do thái, cây nho hay cây vả tượng trưng cho dân Israel và Thiên Chúa là người trồng. Nhưng dân Chúa chẳng mang lại hoa trái, lợi lộc gì lại phản nghịch với lòng mong đợi của Ngài. nên sẽ bi tru diệt(x Mc 12,1-11).
Cũng vậy, Đền Thờ này thật lộng lẫy, nguy nga, tráng lệ nhưng trong đó chất đầy những lễ nghi vụ hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng tin kính, tôn thờ. Nó đã trở thành cái chợ để mua bán trao đổi, thành sào huyệt của bọn cướp (Mc 11,17). Vậy số phận của nó chẳng khác nào như cây vả xum suê lá mà chẳng có trái đã bi Chúa chúc dữ đó sao? Nó cũng sẽ bi Ngài thanh tẩy ngay lúc này.
Thiên Chúa là tình yêu, nên nơi Ngài ở không thể có đố kỵ, hận thù, oán ghét. Thiên Chúa là sự thánh thiện, nên nơi Ngài ở không thể có những dâm bôn, chè chén, tục tằn. Thiên Chúa là sự thật, nên nơi Ngài ở không thể có gian manh, lọc lừa, tham lam và trộm cướp.
Chính vì không muốn để cho con người biến Ðền Thờ Thiên Chúa thành hang trộm cướp, mà theo thuật trình Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tẩy uế Ðền Thờ. Ngài đuổi những kẻ buôn bán, lật bàn của những kẻ đổi bạc và xô ghế của những người bán bồ câu. Ngài bảo: “Nhà Ta được gọi là nhà cầu nguyện của các dân tộc, thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cướp”.
Vì thế, Ngài bước vào Đền Thờ Giê ru sa lem với một thái độ hết sức giận dữ, Ngài bắt đầu đuổi những kẻ đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Ngài không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ (x Mc 11, 15-16). Việc Chúa thanh tẩy đền thờ còn mang một ý nghĩa lớn lao hơn. Ngài công bố bãi bỏ kiểu cầu nguyện Do Thái giáo và khai mạc thời ký mới mà Ngôn sứ Dacaria đã loan báo: “Ngày ấy sẽ không còn lái buôn trong nhà Đức Chúa các đạo binh nữa”( x Dcr 14,21).
Cũng như cây vả bị Chúa chúc dữ đã chết khô, Đền thờ bị ô uế đã trở nên vô nghĩa. Từ nay, sự liên kết, gắn bó, với Chúa không còn gò bó nơi Đền thờ, không còn “phải trên núi này hay tại Jêrusalem”(Ga 4,21) nhưng bởi nơi Đức tin và đời sống cầu nguyện.
Do đó, đức tin và cầu nguyện là hai vũ khí sắc bén không thể thiếu trong đời sống người ki tô hữu, là điều kiện cần và đủ để chúng ta đến với Chúa. Mặc khác, để cầu nguyện được chúng ta phải tin vào Chúa và có tin vào Chúa chúng ta mới dám chắc lời cầu nguyện của chúng ta được Ngài nhậm lời như Chúa đã nói: “cứ xin thì sẽ được” (Mt 7,7;Lc 11,9) và “tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý”( Mc 11,24).
Nhưng chúng ta chỉ kính mến Chúa, yêu Chúa và tin Chúa thôi thì chưa đủ vì “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Hành động mà Chúa muốn nơi ta đó là yêu như Chúa yêu và tha thứ cho nhau như Chúa đã thứ tha chúng ta.
Điều này thật khó khi chúng ta đang sống trong một xã hội “siêu điện tử”. một xã hội đề cao vật chất và hưởng thụ thì đâu là niềm tin vào Thiên Chúa vô hình dựng nên mọi vật, thấu suốt mọi tâm can? Người ta chỉ tin vào khoa học mà đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa thì làm sao có thể tin yêu và tha thứ cho nhau được. Sống trong một xã hội cạnh tranh quyền lợi ngày càng cao,thì tha nhân là gì?, có ý nghĩa gì?liên quan gì đến mình?Nhưng chúng ta cũng đừng bi quan vì không có gì Chúa không làm được. Hơn nữa, nếu chúng ta có một đức tin dù chỉ bằng hạt cải thôi cũng đủ dời núi lấp biển. Hãy tin vào Chúa vì ơn Chúa đủ cho chúng ta. Ngài luôn làm tất cả mọi sự sinh ích cho những ai mến yêu Ngài. Ngài sẽ biến đổi tâm hồn ta nên khiêm tốn yêu thương phục vụ và quảng đại vị tha.
Ngày nay, có những ngôi thánh đường vì hậu quả của chiến tranh, hay vì lý do này lý do khác, đã trở nên hoang tàn, không còn được dùng làm nơi thờ phượng nữa. Cũng có những ngôi thánh đường nguy nga, đồ sộ, nhưng chẳng ai đến dự lễ cầu kinh nữa, mà chỉ để cho du khách đến tham quan như một di tích lịch sử, một kiến trúc nghệ thuật. Bên cạnh đó, tại những miền quê hẻo lánh, có những tín hữu nghèo muốn dựng lên một nhà nguyện đơn sơ để làm nơi đọc kinh cầu nguyện chung với nhau mà không sao làm được. Tuy nhiên, có một điều mà không mấy người tín hữu nghĩ tới, đó là chính tâm hồn của mỗi người là Ðền Thờ của Chúa Ba Ngôi.
Thật thế, nhờ Bí tích Rửa tội, tâm hồn người tín hữu đã trở thành Ðền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị. Nhưng thay vì ý thức sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong tâm hồn để sống thân tình với Ngài, chúng ta lại đưa vào đó biết bao chuyện gian tham, lọc lừa, trộm cắp, mưu mô, hận thù, ghen ghét. Chúa Giêsu có lý để khiển trách chúng ta, như Ngài đã phẫn nộ với những kẻ buôn bán trong Ðền Thờ ngày xưa: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành hang trộm cắp”.
Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi mọi vết nhơ tội lỗi, gian tham, lọc lừa, kiêu căng và ích kỷ, để tâm hồn chúng ta mãi mãi là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và nhờ thế, Thiên Chúa sẽ mãi mãi ở với chúng ta từ nay và cho đến muôn đời.
2021
XIN CHÚA CHỮA CHO TA SÁNG
27 16 X Thứ Năm Tuần VIII Thường Niên.
(Tr) Thánh Au-gút-ti-nô thành Can-tơ-bơ-ri (Canterbury), Giám mục.
Hc 42,15-25; Mc 10,46-52.
XIN CHÚA CHỮA CHO TA SÁNG
Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố cây chà là, cách Giêrusalem 23Km về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở về phía Tây Nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng cung rộng lớn. Khác với Tin Mừng Luca (18,35–19,10), ở đây Chúa Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau: Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh mù thì đang ngồi ở vệ đường.
Ta thấy Thánh Máccô kể truyện một người mù được dẫn đến gặp Chúa Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và được yêu cầu giữ kín việc này; trong Mc 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Chúa Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này, cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các môn đệ đang đi theo Chúa Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.’
Tin mừng hôm nay ghi nhận câu chuyện về người mù thành Giêricô đã chạy đến với Chúa Giêsu không nhờ con mắt thể xác nhưng nhờ con mắt đức tin của anh. Tuy mắt anh không nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng chính con mắt đức tin đã mách bảo và dẫn đường để anh chạy đến với Người. Trước đó anh đã nghe đồn Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và anh đã ao ước gặp Người để xin Người chữa anh khỏi bị mù.
Vì thế khi nghe thấy một đám đông đang tiến đến gần chỗ anh đang ngồi ăn xin bên vệ đường và anh nghe tiếng của một ráp-bi đang vừa đi đường vừa giảng, thì anh liền dò hỏi người chung quanh. Khi biết vị tôn sư kia chinh là Chúa Giêsu Nadarét, là người mà anh đã nghe biết và mong sớm được gặp mặt.
Bấy giờ anh mù liền kêu to: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”. Dù bị nhiều người đi trước cấm nói to, nhưng anh mù lại càng la to hơn với hy vọng được Chúa Giêsu nghe thấy.
Quả thật Chúa Giêsu đã nghe thấy tiếng kêu cứu của anh và Người cho gọi anh đến gặp Người. Nghe vậy anh mù liền quăng chiếc áo choàng đang khoác trên mình lại, để nhảy chồm dậy chạy mau đến gặp Người như trước đó anh chưa hề bị mù. Sau khi nghe biết lòng tin và lòng mong ước của anh, Chúa Giêsu liền tuyên bố: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!”.
Lập tức anh mù đã được sáng mắt để thấy được đường đi, mà anh còn được sáng lòng để tin Đức Giêsu và tình nguyện theo Người lên Giêrusalem để cùng Người đi con đường “qua đau khổ thập giá vào vinh quang phục sinh”.
Đáng ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo” Chúa Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân chúng (“Giêsu người Nazaret”). Anh cứ kêu to hướng về Chúa Giêsu ,bởi vì anh muốn gặp Chúa Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to hơn.
Và rồi ta thấy Chúa Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Chúa Giêsu chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành trình, Chúa Giêsu đứng lại (câu 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối xử sự của Chúa Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (câu 50) đưa anh mù di chuyển mà gặp Chúa Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Chúa Giêsu” và “con đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy thái độ không tốt của những người đang đi trước Chúa Giêsu, khi nghe anh mù la to: “Lạy ông Giêsu, Con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” thì họ đã quát nạt bắt anh phải im lặng. Khi lời kêu cầu của anh mù đã được Chúa Giêsu nghe và truyền dẫn anh đến gặp thì những người kia mới dịu giọng và giúp đỡ anh gặp được Người. Những người này đã trở thành rào cản anh mù đến với Đức Giêsu. Họ giống như những đầu mục Do thái đã bị Chúa Giêsu quở trách: “Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt 23,13).
Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh mù thể xác, và Người cũng chữa lành bệnh mù tâm linh. Chính sự mù tối tâm linh này còn tác hại hơn bệnh mù thể xác. Nó biểu hiện ra bằng thái độ không chấp nhận sự thật của đức Tin, không nhận ra tình thương và những sự thiện hảo nơi người khác. Vậy mỗi người chúng ta cần tự hỏi mình vào buổi tối trước khi đi ngủ: Hiện giờ tôi có bị bệnh mù tối tâm linh nói trên hay không? Nếu có, hãy xin Chúa chữa lành như người mù trong Tin Mừng hôm nay bằng lời cầu như sau: “Lạy Chúa. Xin hãy mở mắt linh hồn con ra để con biết nghĩ đến người khác và biết cảm thông để chia sẻ tình yêu thương phục vụ cho họ”.
Trong gia đình, vợ chồng cần sáng mắt tâm linh khi biết quan tâm cảm thông với nhau và động viên nhau chu toàn nhiệm vụ lo cho gia đình được hòa hợp hạnh phúc…
Trong khi giao tiếp xã hội, mỗi người chúng ta thay vì chỉ nhìn thấy khuyết điểm lầm lỗi của kẻ khác, chúng ta hãy quan tầm tìm ra mặt tốt của họ. Cần ý thức rằng: Dù là một kẻ xấu xa phạm tội cướp của giết người không gớm tay thì trong lòng họ vẫn còn ít nhất 5 phần trăm tốt.
Đường đến Thiên Chúa của ta có thể cũng đã bị ngăn cản cách này cách khác bởi nhiều người, và cũng có thể chính ta đã quát tháo bảo im đi nhiều người đang tha thiết van xin lòng từ bi của Thiên Chúa. Nhưng bên cạnh những người quát tháo, nạt nộ, cấm cản ta đến với Chúa, khóc với Chúa, kêu cầu Chúa, vẫn có những người đồng hành với ta trên đường tìm gặp Chúa đang thì thầm, nhắc nhở, động viên: “ Hãy vững lòng! Dậy đi! Ngài gọi anh đó ”(Mac 10, 49).
Đám đông cùng đi có lòng tốt ấy chính là Giáo Hội, là đoàn thể những người cùng đi theo Chúa Giêsu và làm chứng Chúa Giêsu cho mọi người. Chúng ta hãy tin vào Giáo Hội, tin vào mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội để đừng bao giờ thất vọng nghĩ mình đơn độc trên đường tìm gặp Chúa.
Điều quan trọng là chúng ta phải khám phá ra và nhân rộng những điều tốt này để giúp họ loại trừ dần 95 phần trăm điều xấu tội lỗi kia. Bởi đó, cùng với anh mù trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội và ban cho con được sáng mắt đức tin để con nhận biết Chúa đang hiện thân trong anh chị em con và giúp họ ngày càng nên tốt giống Chúa hơn”.
Thật thế, Thiên Chúa không bỏ ngoài tai lời cầu xin của bất cứ ai, dù là những lời cầu xin đơn sơ, thô kệch,mộc mạc, kể cả nhức đầu, nhức óc, vì Ngài là Cha nhân hậu luôn thương xót con cái mình. Chân lý này cho phép chúng ta tín thác tuyệt đối ở Thiên Chúa khi cầu nguyện, dù lắm lúc tưởng Chúa ngủ quên hay đã chết thật rồi.
2021
CON NGƯỜI ĐẾN LÀ ĐỂ PHỤC VỤ
26 15 Tr Thứ Tư Tuần VIII Thường Niên.
Thánh Phi-lip Nê-ri, Linh mục, lễ nhớ.
Thánh Gio-an Đoàn Trinh Hoan, Linh mục (U1861); và Thánh Mát-thêu Nguyễn Văn Đắc (Phượng), Trùm họ (U1861), Tử đạo.
Hc 36,1.4-5a.10-17; Mc 10,32-45.
CON NGƯỜI ĐẾN LÀ ĐỂ PHỤC VỤ
Thánh Philipphê Nêri (Philip Neri) sinh năm 1515 tại Florencia, nước Ý. Tên riêng của ngài hồi còn nhỏ là “bé Phil tốt lành.” Thánh Philipphê Nêri có tính tình vui vẻ và thân thiện đến nỗi ai gặp ngài cũng đều quý mến ngài. Suốt ba năm, Philipphê Nêri nghiên cứu môn thần học và triết học; và ngài đã là một sinh viên xuất sắc. Nhưng đặc biệt Philipphê Nêri là một Kitô hữu năng động. Ngài sống đơn sơ và rất chăm chỉ. Ngài cũng làm nhiều việc tốt cho những người sống xung quanh ngài. Philipphê Nêri giúp đỡ các trẻ em, thăm viếng những người đau yếu bệnh tật, làm bạn với những người cô đơn phiền sầu. Nói tóm lại, vì tình yêu Chúa Giêsu, Philipphê Nêri đã đến với mọi người mỗi khi có thể.
Thánh Philipphê Nêri giúp thiết lập một hội giáo dân chuyên giúp đỡ và chăm lo cho những người hành hương túng nghèo. Hội này vẫn từng bước hoạt động như một bệnh xá danh tiếng tại Rôma. Vị linh mục hướng dẫn ngài nhận thấy rằng Philipphê Nêri đã hy sinh rất nhiều để giúp các Kitô hữu Rôma hâm nóng lại lòng hăng say nhiệt thành. Nhưng phải đợi đến năm ba mươi sáu tuổi, Philipphê Nêri mới có ơn kêu gọi làm linh mục.
Sau đó, Thánh nhân bắt đầu thi hành thừa tác vụ hết sức cao cả của mình. Mỗi ngày, Philipphê Nêri sẵn lòng dành ra nhiều giờ để ban bí tích Hòa giải. Hối nhân đến xưng tội với ngài ngày một đông hơn. Nhưng cha Philipphê rất bình thản. Ngài chẳng bao giờ đánh mất đi sự nhẫn nại dịu dàng!
Giáo dân dần dần nghiệm thấy rằng đôi lúc cha Philipphê Nêri có thể đọc được tâm hồn của họ. Trong một vài trường hợp, ngài có thể tiên báo tương lai. Thiên Chúa cũng đã dùng cha Philipphê Nêri để làm những công việc lạ lùng. Nhưng trên tất cả, điều mà Philipphê Nêri muốn làm là đem Đức Chúa Giêsu đến cho tha nhân. Để tránh sự ngưỡng mộ của họ, đôi lúc cha Philipphê Nêri đã hành động cách ngớ ngẩn. Thánh nhân muốn được mọi người làm lơ và quên đi việc họ nghĩ ngài thánh thiện.
Dù vậy, trông cha Philipphê Nêri vẫn toát ra một sự khác lạ và nhờ ngài mà cả thành phố Rôma đã sống tốt lành hơn. Có lần Thánh Philipphê Nêri đã nghĩ đến chuyện muốn trở nên một nhà thừa sai truyền giáo nơi các miền đất lạ. Thánh nhân bị lôi cuốn mạnh mẽ bởi gương sáng đời sống của Thánh Phanxicô Xaviê, người đã mất năm 1552 tại cửa ngõ nước Trung Hoa. Philipphê Nêri chỉ mới làm linh mục được một năm thì Thánh Phanxicô qua đời. Vậy Thánh nhân có bỏ Rôma để tình nguyện dấn thân cho những xứ truyền giáo không? Một đan sĩ Xitô thánh thiện đã nói với ngài: “Rôma chính là vùng đất truyền giáo của cha đấy!” Sau đó, cha Philipphê Nêri thấy tâm hồn mình tràn ngập bình an.
Thánh Philipphê Nêri dùng năm năm cuối đời của ngài để ban bí tích Hòa giải cho giáo dân. Thánh nhân về trời năm 1595, hưởng thọ tám mươi tuổi. Đến năm 1622, Đức Thánh Cha Grêgôriô XV đã tôn phong Philipphê Nêri lên bậc Hiển thánh.
Làm thế nào để chúng ta có thể sống vui tươi và khoan dung hơn? Đó không phải là điều mà hết thảy chúng ta đều thực sự mong muốn sao? Chúng ta có thể dâng một lời cầu nguyện đơn sơ lên thánh Philipphê Nêri. Thánh nhân sẽ chia sẻ với chúng ta bí quyết để sống hạnh phúc như ngài.
Hôm nay, ta thấy đây là lần thứ ba và cũng là lần cuối Chúa Giêsu nói về cuộc thương khó và phục sinh của Người ; và lần này, Ngài nói rất chi tiết về cuộc thương khó : « Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người ». Như thế, chính Ngài cũng nhận ra từ từ con đường mình phải đi và điều gì sẽ xẩy ra trên đường.
Qua lời loan báo này, chúng ta thấy rất rõ rằng, cuộc thương khó của Chúa Giêsu là hành động của con người : các thượng tế và kinh sư lên án xử tử Chúa Giêsu; họ nộp Ngài cho dân ngoại, dân ngoại nhạo báng, khạc nhổ, đánh đòn và giết chết Người. Nhưng rốt cuộc, cũng không phải hoàn toàn là hành động của con người, bởi vì chính Xa-tan hành động nơi những con người cụ thể Ga 13, 27 và Lc 23, 34).
Thế nhưng rồi ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa, nơi Chúa Giêsu, có sự chọn lựa điên rồ, là để mình chịu sỉ nhục đến như thế ? Là sỉ nhục và điên rồ đối với con người và cả các môn đệ nữa, vì các ông lúc nào cũng sợ hãi và kinh hoàng khi nghe nói về thương khó (Mc 8, 32 ; 9, 32 và 10, 32), nhưng đối với Thiên Chúa, đó lại là sức mạnh và khôn ngoan. Bởi vì, nơi Chúa Giêsu, khi Thiên Chúa để cho Sự Dữ, hành động nơi những con người cụ thể, phô bày thân thể của Người trên thập giá ngất cao, thì chính Người phô bày bộ mặt thật của Sự Dữ.
Phô bày, để mọi người nhận ra ở khắp nơi, ngang qua thân thể nát tân của Người, Sự Dữ và tội lỗi dẫn đến sự chết ; và Người không chỉ phô bày nhưng còn chiến thắng, không phải bằng sức mạnh, nhưng bằng sự hiền lành.
Phô bày, nhưng Người không lên án, nhưng tha thứ và chữa lành loài người chúng ta.
Bởi vì, Thiên Chúa không thể tha thứ cho chúng ta, mà không giải thoát khỏi Sự Dữ. Và để giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ, Người phô bày bộ mặt thật của Sự Dữ cho chúng ta nhìn thấy. Một bộ mặt hoàn toàn không phù hợp với lòng ước ao và căn tính đích thật của chúng ta, vốn là hình ảnh của Thiên Chúa.
Và đồng thời nơi Thập Giá, Người bày tỏ (cũng là một cách phô bày) khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, Người là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi. Thập Giá là hệ quả tất yếu của cách thức Chúa Giêsu sống căn tính thần linh của mình ở giữa loài người chúng ta.
Tất cả là để, như chính Chúa Giêsu mặc khải : « phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người ».
Thật thế, ta thấy Chúa Giêsu không đến để sống cái gì quá siêu nhân hay ngoại nhân, Ngài đến sống và sống đến cùng con đường của « hạt lúa mì », vốn nói lên « qui luật muôn đời của sự sống », để qua đó, Ngài thông truyền cho chúng ta niềm xác tín, con đường Vượt Qua là con đường của sự sống, của niềm vui, của hạnh phúc trong sự hiệp thông trọn vẹn và mãi mãi với Chúa và với nhau.
2021
TIỀN HAY CHÚA
25 14 X Thứ Ba Tuần VIII Thường Niên.
(Tr) Thánh Bê-đa khả kính, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
(Tr) Thánh Grêgôriô VII, Giáo hoàng.
(Tr) Thánh Maria Ma-đa-lê-na Pa-zi, Trinh nữ.
Thánh Phê-rô Đoàn Văn Vân, Thầy giảng (U1857), Tử đạo.
Hc 35,1-15; Mc 10,28-31.
TIỀN HAY CHÚA
Trang Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện gây nhiều ấn tượng trong toàn bộ Tin Mừng. Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã có lần lấy bài Tin Mừng này làm đề tài, để chia sẻ với các người trẻ trên thế giới về lý tưởng sống của một người theo Chúa.
Rõ ràng Tin Mừng hôm nay đặt người thanh niên này cũng như chúng ta vào tư thế phải chọn lựa: Theo Chúa hay là theo của cải.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hứa sẽ trọng thưởng cho những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Phần thưởng cao quý ấy không phải vật chất hay những gì có thể nắm giữ nhưng là được chung phần đau khổ và vinh quang cùng với Chúa. Sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sức cám dỗ của tiền bạc khiến người ta không thể vào Nước Trời, các môn đệ cảm thấy chạnh lòng vì đã bỏ gia đình vợ con để đi theo Chúa mà không biết cuộc sống tương lai sẽ ra sao, bao nhiêu công sức đổ ra sẽ nhận được gì? Các ông tỏ ra là người biết tính toán lo xa, nhưng các ông chỉ nhìn thấy những điều hữu hạn, còn Chúa Giêsu hướng đến những giá trị thiêng liêng bền vững.
Cái nhìn của loài người luôn khác xa với cái nhìn của Thiên Chúa. Loài người có cái nhìn nhỏ hẹp, còn Thiên Chúa luôn có cái nhìn quảng đại bao dung. Thiên Chúa luôn tạo cho con người nhiều cơ hội tốt, mở ra nhiều lối đi để dẫn đưa họ tới nguồn hạnh phúc đích thực.
Phần thưởng của Thiên Chúa không gì có thể so sánh được. Nhưng để đạt được phần thưởng ấy đòi hỏi các môn đệ phải có thái độ khiêm tốn. Những ai đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và những ai đứng chót sẽ được nâng lên.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cũng thường bỏ qua những điều chính yếu nhưng lại nắm giữ những cái lặt vặt phụ thuộc. Chúng ta thường tính toán với Chúa khi đi tham dự thánh lễ, khi làm việc lành phúc đức. Chúng ta giữ đạo vì thói quen hơn là vì lòng yêu mến. Chúng ta làm việc từ thiện, phục vụ người nghèo để khoe khoang đánh bóng tên mình hơn là để chia sẻ tình yêu thương.
Trước đó, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ rằng: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao…Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10, 23.25). Điều này để nhấn mạnh thêm rằng “khó” không có nghĩa là “không thể” nhưng có nghĩa là phải cố gắng nhiều, có khi phải trả giá bằng những hy sinh. Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng, Người có thể tạo dựng mọi sự từ hư không. Vì yêu thương nên Người cho chúng ta tự do chọn lựa, Người không ép buộc nhưng ban ân sủng để chúng ta khôn ngoan sáng suốt nhận ra kế hoạch yêu thương của Người.
Có nhiều vật cản khiến chúng ta không vào được Nước Trời. Vật cản đó có thể là thói tham lam muốn có nhiều tiền, thói ươn hèn lười biếng, nhát đảm kém tin không dám trao phó cuộc đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt. Vật cản đó có thể là tội lỗi, những đam mê xác thịt kéo ghì chúng ta xuống. Có rất nhiều lý do khiến chúng ta từ chối viên ngọc Nước Trời. Biết bao cám dỗ khiến chúng ta không dám đánh đổi vận mạng của mình để có sự sống đời đời. Chúng ta thường có thái độ “bỏ hình bắt bóng”, tìm kiếm thứ hạnh phúc mau qua chóng tàn mà quên đi hạnh phúc vững bền.
Có một người đàn ông đi hành đạo. Đường đi phải qua một con sông lớn nhưng ông không có bất kỳ phương tiện nào. Sau một hồi suy nghĩ, ông quyết định đi nhặt các cành cây rồi kết lại thành một chiếc bè đơn giản. Để chiếc bè nổi trên mặt nước, ông dùng hai bàn tay làm mái chèo. Cuối cùng ông cũng qua được bờ bên kia.
Nhưng vừa bước chân lên bờ, ông băn khoăn nhìn chiếc bè và tự hỏi: – Mình đã vất vả mới làm được chiếc bè này, bỏ đi thì tiếc quá, hay là mình kéo chiếc bè theo?
Chiếc bè chỉ là phương tiện giúp người ta qua sông an toàn chứ không phải cái để nắm giữ. Nếu cứ nuối tiếc nắm giữ chiếc bè, người đàn ông trên sẽ không thể tiếp tục hành trình.
Chúa Giêsu cho chúng ta một nguyên tắc căn bản đó là: bỏ nhưng không mất, cho đi là nhận lại, muốn có sự sống thì phải chết đi cho thói tham lam ích kỷ, phải từ bỏ ý riêng của mình để chọn thi hành theo ý Chúa. Trên bước đường theo Chúa, chúng ta phải có thái độ dứt khoát, không ước mơ hão huyền nhưng phải gắn với quyết tâm và việc làm cụ thể. Một khi đã chọn Chúa thì không làm nô lệ cho tiền bạc hay bất cứ vật thể con người nào.
Trong đời sống đức tin, Chúa Giêsu muốn chúng ta trao vận mệnh tương lai của mình để cho Chúa dẫn dắt. Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về sự từ bỏ và vâng phục khi thi hành ý muốn của Chúa Cha. Trong giây phút quyết liệt trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao hiến và đổ đến giọt máu cuối cùng để tác sinh nhân loại trong sự sống mới. Sự vâng phục và trao hiến ấy chạm đến tận cùng bản thể của một Vị Thiên Chúa đầy lòng xót thương để dẫn đưa con người vào nguồn sống đích thực.
Nhiều lần chúng ta cũng tự hỏi như thánh Phêrô: – Tôi theo Chúa, sống đạo để được gì? Trong khi thế gian lừa lọc dối trá, tôi sống nghiêm túc thật thà ngay thẳng, chấp nhận thiệt thòi bất công để được gì? Tôi sống yêu thương bác ái để được gì trong khi những người khác chỉ ích kỷ lo cho bản thân mình.
Thật là một nghịch lý khi chúng ta giữ cặn kẽ các điều luật của Chúa mà lại sống thiếu bác ái với tha nhân. Chúng ta bằng lòng với việc giữ tỉ mỉ các điều luật ngoại trừ luật bác ái. Chúng ta sẵn sàng gân cổ bênh vực công lý nhưng lại bỏ qua những nhu cầu cần thiết của tha nhân.
Cuộc sống xã hội hôm nay còn nhiều người nghèo khổ, nhiều gia đình rơi vào cảnh bế tắc, chúng ta được mời gọi ra khỏi tháp ngà của sự yên ổn và ích kỷ để đến với tha nhân. Thiên Chúa không chỉ ở trong đền đài thành quách, nhưng Người đang bị kỳ thị chống đối nơi những vùng đất chìm trong chiến tranh khủng bố. Thiên Chúa không chỉ hiện diện nơi những đại lộ thẳng tắp tinh tươm sạch sẽ, nhưng Người đang co ro ẩn mình nơi góc phố với những người nghèo không nhà không cửa. Thiên Chúa không ở nơi lễ hội cờ hoa đình đám, nhưng Người âm thầm ẩn giấu nơi những con người khiêm tốn bé nhỏ nghèo hèn.
Câu chuyện ban đầu thật tốt đẹp. Anh ta đã chạy đến với Chúa, rồi quì dưới chân Chúa. Một chàng thanh niên giàu có, quí phái quì xuống trước mặt nhà tiên tri người Nazareth không một xu dính túi. Anh ta hỏi Chúa về những việc phải làm để có được sự sống đời đời.
Chúa đã nêu ra các điều răn vốn là nền tảng của một đời sống đạo đức, đáng kính trọng. Chàng thanh niên nọ đã không chút do dự đáp ngay rằng, mình đã giữ trọn tất cả từ thuở nhỏ.
Đối với cái nhìn của một con người thì được như thế quả đã là quá tốt rồi. Thế nhưng, đối với Chúa thì chưa đủ. Ngài muốn anh dấn thân một cách trọn vẹn hơn, bằng một đời sống biết chia sẻ những gì mình có cho những người nghèo khó. Nhưng người thanh niên đã không dám chấp nhận và rồi anh đã bỏ đi.
Và chính trong bối cảnh này mà Chúa đã nói: “Người giàu có khó vào Thiên Đàng biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa” (Mc 10,23).
Vâng! Của cải vật chất như một con dao hai lưỡi. Cái nguy hiểm đầu tiên là nó làm cho con người muốn gắn chặt tấm lòng của mình vào đời tạm này, mà quên đi cuộc sống mai sau.
Và nếu mối bận tâm chính yếu của con người chỉ là việc chiếm hữu của cải vật chất càng nhiều càng tốt, thì sớm muộn gì nó cũng khiến người ta nhìn mọi sự trên đời này bằng khuynh hướng lượng giá. Họ sẽ căn cứ vào sự giàu có sang trọng để đánh giá một con người, hơn là căn cứ vào những giá trị tốt đẹp để đánh giá con người đó.
Nếu mối bận tâm chính yếu của một người là của cải vật chất, thì người ấy sẽ chỉ biết có giá cả mà không biết đến giá trị. Người ấy chỉ biết nghĩ đến những gì người ta có thể mua bán bằng tiền bạc, chứ không biết rằng, có những giá trị ở đời người ta không thể nào mua bán bằng tiền bạc được.
Ước gì mỗi kitô hữu chúng ta biết đến với Chúa và với tha nhân bằng cả con tim yêu mến, cảm nhận niềm vui sâu xa trong tâm hồn khi thi hành luật Chúa và quảng đại hiến dâng đời mình để phục vụ tha nhân. Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta một phần thưởng cân xứng lớn hơn những gì ta cầu xin. Phần thưởng đó không phải vật chất bên ngoài nhưng là sự gắn kết gần gũi với Thiên Chúa trong niềm vui và nỗi buồn, trong khổ đau và hạnh phúc, trong thập giá và vinh quang.