2021
KẾT HỆP VỚI MẸ
24 13 Tr Thứ Hai Tuần VIII Thường Niên.
Ca vịnh tuần IV.
Đức Ma-ri-a, Mẹ Hội Thánh, lễ nhớ.
Lễ nhớ có bài đọc riêng:
St 3,9-15.20 (hoặc Cv 1,12-14); Ga 19,25-34.
KẾT HỆP VỚI MẸ
Sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, mừng long trọng vào Chúa nhật sau lễ Thăng Thiên, Giáo Hội mừng lễ Mẹ Hội Thánh. Việc phụng vụ Hội Thánh mừng lễ này liền kề với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cho thấy Hội Thánh nhận thức được vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội.
Từ sau Công đồng Vatican II, hạn từ Mẹ Hội Thánh được sử dụng rộng rãi, không chỉ vì đây là gợi ý của Đức Phaolô VI, mà còn là một kinh nghiệm đức tin được soi dẫn qua dòng lịch sử Hội Thánh. Điều này cũng mặc nhiên nói cho các tín hữu về một viễn kiến đầy hy vọng mà sách Khải huyền đã nêu lên, trong một cuộc chiến không khoan nhượng giữa con rồng và người nữ. Người nữ ấy chính là hình ảnh Đức Maria, tượng trưng cho Hội Thánh.
Cơ sở cho kinh nghiệm đức tin này là đoạn Thánh Kinh mà chúng ta đọc và suy niệm hôm nay. Hội Thánh đã được Chúa Giêsu thiết lập. Đã được khai sinh từ cạnh sườn bị đâm thủng, từ đó máu và nước chảy ra. Nhiều nhà thần học đã cho đây là hình ảnh tượng trưng cho giây phút Hội Thánh được sinh ra giống như trẻ sơ sinh được sinh ra từ cung lòng người mẹ. Máu và nước tượng trưng cho sự sống. Đó cũng là hình ảnh mang tính Thánh Thể của mầu nhiệm Hội Thánh, mà từ Thánh Thể, Hội Thánh được nuôi sống do chính Mình và Máu Chúa. Hội Thánh lại tiếp tục mọi ngày làm cho hình ảnh của hy tế Chúa Kitô được sống động qua việc hiện tại hóa mầu nhiệm yêu thương này trong mỗi thánh lễ cử hành.
Thế nên, một Hội Thánh non trẻ được Chúa Giêsu sinh ra và cưu mang, rồi trong giây phút Người chết trên thập giá đến việc trao phó thánh Gioan làm con Đức Mẹ, gợi lên cho chúng ta đầy hình ảnh mang tính biểu trưng về Hội Thánh. “Này là con Bà” và “Đây là mẹ con”, hai câu nói này hàm chứa một nội hàm sâu xa. Rằng Hội Thánh thực sự là con của Mẹ Maria. Chúa Giêsu chuyển giao Hội Thánh non trẻ và nhỏ bé ấy cho Đức Mẹ trong nom. Và “Đây là mẹ con”, đây thực sự là lời căn dặn, Hội Thánh chính là mẹ của chúng ta, Hội Thánh đó bao hàm tất cả mọi người chúng ta, những kẻ tin và cử hành mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô Con Mẹ.
Tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của người tín hữu Kitô, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống, thì thật chính đáng khi tuyên bố Người là Mẹ Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã muốn Công Đồng Vaticanô II tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể Dân Chúa, của người tín hữu và các mục tử của họ”. Chính Đức Giáo Hoàng thực hiện điều đó khi đọc bài diễn văn bế mạc khoá thứ 3 Công Đồng (21.11.1964), Người cũng bảo: “từ nay toàn thể dân Kitô hữu hãy tôn kính và kêu cầu Đức Trinh Nữ Rất Thánh với tước hiệu này”.
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của cộng đoàn Dân Chúa, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống… và là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta.
Sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại, chiếc màn đen tối của đau khổ và chết chóc che phủ khắp trần gian, con người tự tách mình ra khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Bà Evà – Người đàn bà đầu tiên của nhân loại bị nguyền rủa một cách đáng thương. Vì thế Thiên Chúa đã chọn Đức Maria để cộng tác vào công trình cứu độ của Người. Với lời thưa “Xin vâng” của Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể vào trần gian, mở ra cho loài người một chân trời hy vọng để nhân loại được giao hòa với Thiên Chúa. Như giọt sương sớm thanh khiết dịu hiền, Mẹ Maria chính là Eva Mới làm bừng nở đóa hoa sự sống nơi địa đàng. Mẹ là trời mới đất mới tinh tuyền đón Ngôi Lời nhập thể vào trần gian.
Mẹ Maria đã tham dự trọn vẹn vào sứ mạng cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu Kitô. Mẹ đã hiện diện và chia sẻ với Chúa trong mọi biến cố vui buồn của kiếp người. Vừa cất tiếng chào đời, Hài Nhi Giêsu đã phải chịu cảnh giá rét nơi đồng vắng, phải bôn ba chạy trốn sang đất khách quê người. Khi dâng trẻ Giêsu trong đền thờ, Mẹ Maria và cha thánh Giuse đã đau khổ vì lạc mất Chúa. Sống nơi làng quê nghèo Nagiarét, trong mái ấm gia đình có Mẹ Maria làm “nội tướng”, Chúa Giêsu lớn lên đầy khôn ngoan và nhân đức. Mẹ luôn hiện diện một cách âm thầm bên Chúa Giêsu trên mọi nẻo đường rao giảng Tin Mừng.
Ngay từ đầu sách Tin Mừng, thánh sử Luca thuật lại khung cảnh tiến dâng trẻ Giêsu trong đền thánh, Mẹ Maria gặp gỡ ông già Simêon và đã được tiên báo về vai trò của Mẹ và sứ mạng của Chúa Giêsu: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israen ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2, 34-35).
Lời nói tiên tri không làm Mẹ hoang mang sợ hãi bởi cả cuộc đời của Mẹ đã gắn chặt Chúa Giêsu và Mẹ tin rằng không điều gì xảy ra nằm ngoài kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã từng nếm trải cảnh sống “không có chỗ tựa đầu”, chịu đói khát, bị người đời chống đối và sát hại.
Trong cuộc thương khó, khi Chúa Giêsu vác cây thập giá lên Núi Sọ, đám người theo sau cuồng loạn, hò la, chế giễu. Sự yên bình, tĩnh lặng thường ngày nhường chỗ cho những âm thanh hỗn độn, nhốn nháo. Chen lẫn trong đám đông đang bừng bừng phẫn nộ, Mẹ Maria lặng lẽ dõi theo bước chân của Người Con Yêu. Bỏ ngoài tai những lời nhiếc móc, mỉa mai và những cái nhìn ác cảm, tâm hồn Mẹ hoàn toàn hướng về Chúa.
Khi Chúa Giêsu bị treo trên thánh giá, Mẹ đứng bên dưới lặng nhìn con yêu hiến tế chính mình cho Thiên Chúa. Đâu cả rồi, nhóm thân bằng quyến thuộc? Đâu cả rồi, đám dân ái mộ tôn sùng? Đứng dưới chân thập giá chỉ có mấy người phụ nữ là Mẹ Maria, bà Maria vợ ông Cơlôpát, bà Maria Mácđala và môn đệ Gioan. Họ đứng đó, im lặng thông phần khổ đau với Chúa Giêsu. Đây là giây phút trọng đại Con Thiên Chúa hiến thân vì nhân loại.
Từ trên cao ấy, ta thấy Chúa Giêsu đưa mắt nhìn những con người trung kiên ấy. Một nỗi thân thương tràn ngập tâm hồn và Người thốt lên: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Giờ thì mọi sự đã hoàn tất, tình yêu đã trao trọn, Người có thể yên lòng ra đi. Nơi kia, Cha Người đang dang tay chờ đón lễ vật cao quý nhất được dâng lên. Suốt cuộc đời Chúa Giêsu đã sống theo thánh ý Cha, thì giờ đây Người cũng chết để chu toàn thánh ý đó: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Mẹ Maria đứng đó, can đảm lặng nhìn xác Chúa Giêsu treo trên thập giá, lòng Mẹ những ước ước ao được hiến tế chính mạng sống mình cùng với Con Mẹ. Lời tiên tri của cụ già Simeon năm xưa lại thêm một lần ứng nghiệm: “Này đây một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà”.
Trong Tông thư Kinh Mân Côi Đức Trinh Nữ Maria (số 20), thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói về vai trò quan trọng của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ như sau: “Toàn thể lịch sử cứu độ theo một nghĩa nào đó đã hướng tới lời chào của thiên sứ Gabriel “Vui lên đi, hỡi Đấng đầy ơn phúc!” Nếu như kế hoạch của Chúa Cha là qui tụ vạn vật trong Đức Kitô (Ep 1,10), thì toàn thể vũ trụ một cách nào đó đã được ân nghĩa của Thiên Chúa động chạm đến, ân nghĩa mà Chúa Cha đoái đến Đức Maria và làm cho Mẹ trở thành Thân Mẫu của Con Người. Ngược lại, toàn thể nhân loại được ôm ấp bởi lời thưa “Xin vâng”, nhờ đó Mẹ Maria sẵn sàng để cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện”.
Với tất cả tấm lòng khiêm tốn và phó thác, Mẹ Maria đã đón nhận Chúa Giêsu không chỉ trong những lúc tràn trề niềm vui hạnh phúc nhưng cả những lúc đứng bên bờ vực thẳm của khổ đau. Mẹ không hề tỏ thái độ tuyệt vọng nhưng luôn kiên vững trong niềm tín thác vào tình thương Thiên Chúa. Mẹ đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa thực hiện công trình cứu độ nhân loại. Số phận cuộc đời Mẹ gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu, thăng trầm của đời Mẹ gắn liền với mọi biến cố vui buồn của Con Mẹ. Nhờ thánh giá Chúa mà những hy sinh của Mẹ trở nên ý nghĩa. Nhờ tiếng “Xin vâng” của Mẹ và lời “Vâng phục” của Chúa Giêsu được nên trọn. Chúa Giêsu gieo rắc hạt giống sự sống trên thửa đất tốt của lòng Mẹ. Nhờ những giọt máu thánh Chúa đổ ra hòa với nước mắt của Mẹ làm nảy sinh hạt giống sự sống khai sinh nhân loại mới.
Mang thân phận con người, chúng ta không tránh khỏi những lầm lỗi yếu đuối, phải đau khổ và phải chết. Noi gương Mẹ, ước gì chúng ta biết kết hợp những đau khổ trong đời sống hàng ngày với đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá như phương tiện thánh hóa chúng ta nên giống Chúa Giêsu hơn. Mẹ Maria là Đấng hiệp thông trong công trình cứu độ, Mẹ đã đồng hành với Chúa trong suốt cuộc đời, xin Mẹ dạy chúng ta biết can đảm bước theo Chúa trên mọi nẻo đường Chúa đã đi, biết mở rộng cánh cửa con tim để yêu thương, dám trao ban chính bản thân mình cho Thiên Chúa và tha nhân.
2021
ĐỂ THÁNH THẦN HƯỚNG DẪN
22 11 Tr Thứ Bảy Tuần VII Phục Sinh.
(Tr) Thánh Ri-ta thành Ca-xi-a, Nữ tu.
Thánh Mi-ca-e Hồ Đình Hy, Quan thái bộc (U1857); và Thánh Lô-ren-xô Phạm Viết Ngôn, Giáo dân (U1862), Tử đạo.
Cv 28,16-20.30-31; Ga 21,20-25.
Chiều: (Đ) Lễ Vọng CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG, lễ trọng.
St 11,1-9 (hoặc Xh 19,3-8a.16-20b; hoặc Ed 37,1-14; hoặc Ge 3,1-5); Rm 8,22-27; Ga 7,37-39.
Thời gian thánh 50 ngày của mùa Phục sinh kết thúc với Chúa nhật Hiện Xuống, khi Hội Thánh tưởng nhớ ơn của Chúa Thánh Thần được trao ban cho các Tông Đồ và sự khai sinh của Hội Thánh với khởi đầu sứ vụ cho muôn ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia.
Thật thích hợp nếu cử hành Lễ Vọng Hiện Xuống với hình thức trọng thể, dùng bài đọc và cầu nguyện trong sách phụng vụ. Khác với lễ Vọng Phục Sinh, Thánh lễ này không mang đậm đặc tính của bí tích Rửa Tội, nhưng mang tính cách kinh nguyện sốt sắng và kiên trì của cộng đoàn tín hữu, theo gương các Thánh Tông Đồ hợp nhau lại trong lời cầu nguyện đồng tâm nhất trí cùng với Thân Mẫu Chúa.
ĐỂ THÁNH THẦN HƯỚNG DẪN
Thánh lễ vọng Chúa Thánh Thần chiều nay đưa chúng về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng : “Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông” (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Sách Tông đồ Công vụ kể lại rằng, khi đến Êphêsô, thánh Phaolô đã gặp gỡ một số tín hữu tiên khởi, ngài hỏi họ về Chúa Thánh Thần, thì họ trả lời: Chúng tôi không hề nghe biết có Chúa Thánh Thần. Còn khi đến Athènes, ngài thấy ở một góc phố, có một bàn thờ với hàng chữ: kính thần vô danh.
Với chúng ta cũng vậy, Chúa Thánh Thần là vị Thiên Chúa vô danh, là vị Thiên Chúa thường bị chúng ta quên lãng hơn cả. Chúng ta nói và hiểu biết nhiều điều về Chúa Cha cũng như Chúa Con, nhưng về Chúa Thánh Thần thì chúng ta lại chẳng hiểu biết chi cả. Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại nắm giữ một vai trò quan trọng, đặc biệt trong ngày hôm nay, ngày Ngài hiện xuống, khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của Giáo Hội.
Từ thuở ban đầu, khi tạo dựng vũ trụ thì Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước. Tiếp đến, Ngài luôn hiện diện và hướng dẫn lịch sử nhân loại. Ngài đã thâm nhập vào các tổ phụ, các tiên tri, các vua chúa, các nhà lãnh đạo để xây dựng dân Chúa, mà cao điểm tuyệt vời nhất chính là Đức Kitô.
Thực vậy, Đức Kitô đã được cưu mang bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, trong cung lòng Trinh Nữ Maria, được Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi bờ sông Giócđan. Và hơn thế nữa, luôn được Chúa Thánh Thần cùng bước đi trong mọi giai đoạn của cuộc đời cho đến ngày tử nạn khổ đau và phục sinh vinh quang. Lịch sử cứu rỗi đó còn được tiếp tục qua lịch sử nhân loại, và hôm nay là ngày khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của Giáo Hội, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ để khai sinh ra Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đã thánh hoá các ông bằng lửa, bằng gió và bằng lời.
Với Lễ Hiện Xuống ta thấy nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết : “Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo…” làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo. Nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội. Nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa.
Và vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa : “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm” (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói : “Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa” (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, “mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta”. (Rm 8,22-24)
C húng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Câu trả lời cho câu hỏi Chúa Thánh Thần là gì, Ngài làm điều chi và làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là “nước hằng sống chảy ra như giòng sông” (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: “Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy” (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn : ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như : tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí Thánh Hoá: Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng con người cũ, giết chết việc làm của xác thịt (Rm 8,13) để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Ngài. Thánh Phaolô kê khai các việc của xác thịt như: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (x. Gl 5, 19-21). Chúng ta không thể chiến thắng được, nếu không nhờ Thần Khí. Khi chúng ta nhờ Thần Khí mà chiến thắng các việc của xác thịt trên, thì chúng ta sẽ thu lượm được những hoa quả dồi dào của Thần Khí, đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (x. Gl 5,11-23). Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta biết sự thật, dạy chúng ta biết cầu nguyện, thúc đẩy chúng ta sống mến Chúa yêu người và làm chứng cho Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Kitô được phục sinh vinh hiển, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại vinh quang. Con người và thân xác của chúng ta không còn nô lệ sự hư nát, nhưng sẽ sáng láng vinh hiển, thông phần sự sống bất diệt của Thiên Chúa Ba Ngôi (1Cr 15,42-45).
Chúa Thánh Thần vẫn luôn đào luyện mỗi chúng ta trở nên Kitô hữu thực sự và là sứ giả Tin Mừng giữa lòng đời. Người giúp chúng ta biết nhìn thực tại thế giới này trong ánh sáng của Chúa và Người dạy ta biết phân định, nhận ra những dấu chỉ thời đại. Chúa Thánh Thần cũng không ngừng canh tân chúng ta và ban sức mạnh giúp ta vượt thắng được những khó khăn trong cuộc sống ơn gọi Kitô hữu. Nhưng quan trọng chúng ta cần kết hợp với Người và cộng tác với Người, cách cụ thể là cầu nguyện và thân thưa với Người. Hãy đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và chúng ta sẽ biết phải làm gì, sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần được gọi là ngày khai sinh Giáo Hội. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong mỗi người chúng ta, trong Giáo Hội và trên toàn Thế giới, như một ngọn gió mới tái tạo trái đất và Giáo Hội Chúa. Để rồi nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta biết sống hiệp nhất, yêu thương và trở nên một thân thể duy nhất trong Chúa.
2021
TÌNH YÊU PHỤC VỤ
21 10 Tr Thứ Sáu Tuần VII Phục Sinh.
(Đ) Thánh Cơ-rit-tôp-phơ Ma-ga-la-nô, Linh mục và các bạn, Tử đạo.
Cv 25,13b-21; Ga 21,15-19.
TÌNH YÊU PHỤC VỤ
Tin Mừng hôm nay thường được dùng như một bài huấn dụ đặc sắc về vai trò mục tử và thường được đọc trong nghi lễ khai mở các trách vụ của Giáo hội, nên có vẻ xa lạ với giáo dân và vì thế cũng ít người cảm nhận giá trị linh thánh của sứ điệp Lời Chúa. Nhưng thực tế, Mẹ Giáo hội công bố đoạn Tin Mừng này cho mọi con cái mình, chứ không chỉ dành trong các nghi lễ đặc biệt.
Chúa Giêsu hỏi ba lần: “Này anh Simon con ông Joan, con có yêu mến Thầy không? Và ba lần Phêrô đáp con yêu mến Thầy” (Ga 21,15-17), và cũng ba lần Chúa Giêsu nói: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. Ðiều đó cho chúng ta biết rằng tình thương không chỉ biểu lộ trong lòng mà con biểu lộ trong lời nói và hành động. Ðặc biệt đối với chúng ta, tình yêu với Thiên Chúa cần phải được thường xuyên hâm nóng và xác quyết bằng chính lời nói thành thực và sinh động trong chúng ta. Mỗi lần nghe giảng, đọc sách thiêng liêng, mỗi lần đọc kinh Lạy Cha hay kinh Tin Kính, đó là chúng ta xác quyết lại sự thần phục, sự hiện diện và biểu lộ lòng yêu mến của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô những ba lần như thế, phải chăng để “xí xoá” đi ba lần ông đã chối bỏ Người? Đã hẳn Phêrô yêu mến Thầy, thế nhưng ông đã không dám tỏ ra tình yêu đó bằng hành động, bằng đời sống. Chúa hỏi Phê-rô “có yêu không”, điều đó có nghĩa là Chúa vẫn yêu Phêrô, Chúa đã tha thứ cho Phêrô, Chúa vẫn còn tín nhiệm Phêrô, và muốn ông đáp lại tình yêu của Chúa bằng tình yêu của chính ông. Đó chính là điều kiện để được Chúa tha thứ, và được trao phó sứ mạng: “Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Như trước đây với Madalêna, lần này là Phêrô và sau này là mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu như muốn nói: “Con yêu nhiều thì sẽ được tha thứ nhiều và ngược lại, con được tha thứ nhiều vậy con hãy yêu mến nhiều”. Tiếng gọi lãnh đạo của Chúa là tiếng gọi tình yêu, Chúa Giêsu đã không hỏi Phêrô con đã có chìa khóa lãnh đạo cao cấp chưa? Hay có bằng cấp gì? Tốt nghiệp đại học nào chưa? Song như có lần Chúa Giêsu nói: “Ai yêu mến Ta thì hãy giữ lề luật của Ta” thì bây giờ Ngài nói: “Con yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên con của Thầy”.
Phêrô hiểu rằng cội nguồn của tình yêu không tới từ ông mà đến từ Chúa khi Ngài hỏi ông: “Anh có mến Thầy không?” Chúa Giêsu chính là cội nguồn của lòng nhân ái và Ngài muốn trao ban tình yêu đó cho Phêrô. Chúa Giêsu không chỉ hỏi ông Phêrô câu hỏi này, nhưng Ngài còn hỏi tất cả chúng ta và Ngài muốn trao ban cho chúng ta món quà quí giá đó. Chúng ta mang trong trái tim ước mơ yêu thương Thiên Chúa nhưng nhiều lúc tình yêu đó hời hợt vì bản chất chúng ta yếu đuối và bất trung, và đôi khi chúng ta lại còn nghi ngờ Ngài. Nhưng chính Chúa đã cho Phêrô và cả chúng ta cơ hội để trả lời Ngài: Lạy Chúa, Chúa biết chúng con yêu Chúa không phải vì chúng con hoàn hảo, mà vì Chúa đã yêu thương chúng con một cách nhưng không. Chúng con là những kẻ bất trung, còn Chúa thì luôn trung thành với lời hứa của Ngài.
Khi Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”, Ngài loan báo cái chết tử đạo của ông vì đi theo Chúa tức là vác thập giá để theo Ngài, có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn chính mình và hy sinh cả mạng sống mình vì Nước Trời. Chúa Giêsu là người yêu chúng ta trước nhất, Ngài yêu chúng ta một cách vô điều kiện. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ hồng ân là được theo Ngài và chịu chết tử đạo để làm vinh danh Ngài như thánh Gioan đã viết trong bài Phúc Âm hôm nay: “Người nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”. Ngài đã cho Phêrô hiểu thế nào là một tình yêu hoàn hảo, đó là dâng hiến chính mạng sống của mình cho Thiên Chúa và tha nhân, và biết hướng về tình yêu của Thiên Chúa bằng với tất cả lòng tin cậy. Ðiều đó cũng nhắc nhở với chúng ta là các hoạt động tông đồ trước hết phải đặt nền tảng trên tình yêu gắn bó với Chúa, để sau đó loan truyền tình yêu của Ngài cho những người khác.
Chúa Giêsu quan niệm về lãnh đạo là yêu thương, là phục vụ, rửa chân cho những người mình lãnh đạo, Chúa Giêsu không quan niệm nền tảng và phương pháp lãnh đạo là thao tác bắt người ta làm theo ý mình, song bằng tình yêu giúp nhau thực hiện ý Chúa. Như trong trường hợp của Phêrô, tình thương của Chúa đối với Phêrô và của Phêrô đối với Chúa, tình thương ấy xóa bỏ hận thù, xóa bỏ lỗi lầm xưa và đưa người yếu kém kia trở lại sống trong tình yêu của Chúa.
“Anh em yêu mến Thầy thì hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Lời mời gọi ấy nhắm vào hàng giáo sĩ. Dĩ nhiên, sau cùng là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm liên đới đến vận mệnh phần rỗi của anh em mình, về phận sự chăn dắt, nuôi nấng và đưa anh em về đàn chiên và gìn giữ họ an toàn trong Ðức Tin. Hãy vì yêu mến Chúa mà làm phận sự chăn dắt và yêu người, tức là làm việc Tông Ðồ truyền bá Tin Mừng và làm cho anh em mình nhận biết và phụng thờ Thiên Chúa.
Mỗi Kitô hữu cần lắng nghe và đón nhận sứ điệp Đấng Phục Sinh gởi đến cho mình, cách riêng tư, thân mật và cấp thiết như cách Người đòi hỏi thánh Phêrô. Chúa Giêsu long trọng phúc chuẩn sứ mệnh tông đồ đặc biệt của Phêrô: thủ lãnh giáo hội, kèm theo điều kiện duy nhất cũng rất đặc biệc: tình yêu. Và như thế, có thể nói: Chúa Giêsu chọn Phêrô để gởi cho ông một mệnh lệnh đặc biệt: mệnh lệnh của Trái Tim, từ Trái Tim, trong Trái Tim và nhờ Trái Tim. Hơn ai hết, thánh Phêrô đã hiểu và cảm được sức nặng cũng như tính cấp thiết của mệnh lệnh này. Vị tông đồ đã dốc tâm vẹn lòng, trung thành đi theo Thầy trên lộ trình mục tử và đã hoàn tất đẹp đẽ sứ mệnh được giao.
Kế đến, như đã nói, mỗi Kitô hữu đều được và phải chia sẻ sứ vụ Phêrô trong cung bậc và hoàn cảnh sống đặc trưng của mình. Chẳng phải trái tim ta đã được Chúa Giêsu tái tạo cho nó biết yêu thương đó sao ? Chẳng phải Bí tích Rửa tội đã cho chúng ta chia sẻ chức vụ mục tử của Người đó sao ? Mệnh lệnh Trái Tim đã, đang, vẫn và sẽ mãi không ngừng được gởi đến cho mỗi tín hữu khắp nơi trên hoàn cầu.
Thật vậy, mỗi ngày, Chúa Giêsu vẫn thiết tha gọi mời ta ở lại trong Tình Yêu của Người, bằng cách đón nghe Lời Người và lãnh nhận Thánh Thể Người, để con tim nhân loại của ta có khả năng đón nhận sức yêu vô biên của Người: nó biết yêu đời yêu người, cầm niềm tin đi thắp nụ cười cho những vầng môi héo vì phận đời trôi nổi; biết quảng đại hiến dâng thời giờ, sức khỏe, tài năng Chúa ban mà ân cần phục vụ anh chị em, nhất là những người nghèo hèn bé nhỏ, những chiên bạn, chiên anh, chiên chị khác còn ở xa đàn … Mỗi ngày, ta có biết bao cơ hội để sống chức vụ mục tử theo gương Chúa Giêsu bằng đời sống phục vụ, hy sinh và quảng đại góp phần mình xây dựng giáo hội, giáo xứ, giáo họ, hội đoàn, …
Tình yêu Đức Giêsu luôn luôn kêu gọi ta từ bỏ, hy sinh đến chết. Yêu người khác đến độ trở nên tôi tớ để làm theo ý muốn của họ, đáp lại mọi ước ao của họ. Tình yêu phải chịu lệ thuộc.
Chúng ta đã được Đức Giêsu giáo huấn, được Ngài dẫn vào hiệp thông với Chúa Cha. Chúng ta đã học yêu mến Chúa. Bây giờ chúng ta hãy chọn: chúng ta có biết tự giữ lấy mọi lời đó cho mình không? Tình yêu mến Chúa của chúng ta chỉ là một thứ tình cảm chóng qua hay là một sức mạnh thúc đẩy chúng ta phục vụ.
2021
HIỆP NHẤT
20 09 Tr Thứ Năm Tuần VII Phục Sinh.
(Tr) Thánh Bê-na-đi-nô Xi-ê-na, Linh mục.
Cv 22,30;23,6-11; Ga 17,20-26.
HIỆP NHẤT
Trước khi từ giã các môn đệ thân tín để trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã dâng lời nguyện tế hiến (Chương 17) để cầu nguyện cho các môn đệ thân yêu của Ngài còn ở trần gian.
Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly. Đức Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện, nhưng cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta, những người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).
Hôm nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất, vẫn dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự. Ngài nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người. Ngài nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ, theo Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác. Ngài xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).
Đức Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài được nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b). Bây giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một. Sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Con vừa là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21). Cha và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất. Chúng ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con. Điều này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào trong mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con: “để họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21). Các Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất là sự ở trong nhau giữa Cha và Con.
Trong Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều giữa Cha, Con và các môn đệ. “Con ở trong họ và Cha ở trong Con… Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23). “Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26). Tương quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự giữa Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta. Tuy vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế với thế giới siêu việt của Cha và Con.
Nhưng Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian. Chỉ khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng “Thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21), “Thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23). Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới. Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương, hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.
Mỗi người chúng ta cũng có phần trong lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con” (c.20). Lời cầu nguyện của Đức Giêsu thật tha thiết và cảm động, được xuất phát từ thâm tâm sâu lắng của Ngài. Lời cầu nguyện đặc biệt này đủ để an ủi và động viên các môn đệ, giúp các ông thêm mạnh mẽ và can đảm làm chứng tá cho Ngài giữa bao gian nan thử thách. Đời chứng tá của chúng ta chắc chắn cũng được nâng đỡ và phù trợ bằng sức mạnh chuyển cầu của chính Đức Giêsu bên cung lòng Chúa Cha.
Trọng tâm lời cầu nguyện của Chúa Giêsu chính là “Xin cho chúng nên một” (cc. 21-23). Đây là yếu tố nền tảng để các môn đệ có thể chu toàn sứ mệnh chứng tá giữa trần gian. Yếu tố này cũng là dấu hiệu thiết thực nhất để mọi người tin vào sứ điệp Tin Mừng mà chúng ta mang đến cho họ.
Nên một “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c.21). Chúa Giêsu đã thực sự “ở trong Cha” với một tình yêu tuyệt đối khi Ngài tự nguyện xuống trần gian, hoà mình trong kiếp nhân sinh, để hoàn tất thánh ý Cha qua cái chết và phục sinh của Ngài, nhờ đó cả nhân loại được ơn cứu độ. Chúng ta cũng được Chúa mời gọi hãy thành tâm tìm kiếm và chu toàn thánh ý Chúa Cha, bằng một tình yêu tinh ròng như Chúa Giêsu trong cuộc đời mỗi người, để chúng ta cũng được hoà nhập vào trong tình yêu của Cha và Con ngay từ cuộc sống trần thế này. Chúa Giêsu đã chia sẻ cho các môn đệ vinh quang phục sinh của Ngài. Vinh quang ấy chính là sự sống viên mãn trong tình yêu hiệp nhất với Chúa Cha, và nhờ đó các môn đệ được “nên một như chúng ta là một” (c. 22). Mỗi chúng ta cũng được chia sẻ vinh quang phục sinh của Đức Giêsu bằng đức tin và lòng mến, nếu mỗi ngày sống chúng ta biết trung kiên vác thập giá theo Ngài.
Trong tình yêu hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, có sự hiện hữu của mỗi chúng ta theo chương trình yêu thương của Ngài “Con ở trong họ và Cha ở trong Con” (c.23). Chính sự hiệp nhất trong một tình yêu kỳ diệu ấy, là dấu hiệu căn bản để thế gian nhận ra sự hiện diện gần gũi và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Trong ý nguyện sâu thẳm này, Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta hãy đi sâu vào mối tương quan thân mật với Chúa Cha và với chính Ngài, bằng một đời sống tâm linh tràn sức sống yêu thương. Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể hiệp nhất với nhau trong một gia đình, một cộng đoàn, một giáo xứ . . . Bởi lẽ chính sự hiệp nhất trong một tình yêu duy nhất này, mới có sức xoá tan mọi bất hòa, chia rẽ, để tạo nên một bầu khí chan hòa yêu thương trong an bình và hiệp nhất.
Kiếp nhân sinh chỉ là một cuộc sống tạm gởi, cuộc sống mai hậu mới là viên mãn trường cửu. Chúa Giêsu đã đi trước dọn chỗ cho chúng ta trong cung lòng yêu thương của Chúa Cha nơi Quê Trời vĩnh phúc: “Con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con” (c.24). Hạnh phúc thật sự của chúng ta là có được một vị trí nơi Quê hương Nước Trời, chứ không phải là những thành công, địa vị mau qua nơi trần thế này.