2021
DUNG HÒA
01 21 Đ Thứ Ba Tuần IX Thường Niên.
Thánh Giút-ti-nô, Tử đạo, lễ nhớ.
Thánh Giu-se Phạm Quang Túc, Giáo dân (U1862), Tử đạo.
Tb 2,9-14; Mc 12,13-17.
DUNG HÒA
Thánh Giúttinô không ngừng đòi hỏi sự thật tôn giáo, ngay cả khi ngài trở lại Kitô giáo sau nhiều năm nghiên cứu các triết học ngoại giáo.
Khi còn trẻ, ngài theo trường phái của Plato. Tuy nhiên, ngài thấy Kitô giáo trả lời được những vấn đề quan trọng về cuộc sống và sự hiện hữu hơn hẳn các triết gia.
Khi trở lại đạo, ngài tiếp tục mặc loại áo choàng (mantle) dành cho triết gia, và trở thành triết gia Kitô giáo. Ngài kết hợp Kitô giáo với các yếu tố tốt nhất của triết học Hy Lạp. Theo ngài, triết học là nhà mô phạm (pedagogue) của Đức Kitô, nhà giáo dục dẫn người ta đến với Đức Kitô.
Thánh Giúttinô có tiếng là nhà biện giải tôn giáo (apologist), bảo vệ bằng những bài viết về Kitô giáo phản bác những khích bác và hiểu lầm của người ngoại giáo. Hai bài biện giải của ngài còn truyền lại cho chúng ta, hai bài này được gởi cho hoàng đế Rôma và thượng viện. Vì trung thành với Kitô giáo, ngài bị xử trảm tại Rôma năm 165.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy những người biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê có thái độ sống giả hình. Bởi vì họ đến với Chúa Giêsu và nói những lời khen nịnh Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Nhưng thực ra, lời nói khéo léo của họ lại che đậy một thủ đoạn, một âm mưu gày bẫy Chúa Giêsu. Đó là đường lối của con người, nhất là của hạng người vụ lợi, ích kỷ, tham quyền.
Chúng ta vừa được nghe mấy người Pharisêu và mấy người thuộc phe Hêrôđê đến hỏi Ngài: Có phải nộp thuế cho Xê-da không? – Nếu nói không, Ngài sẽ bị cho là phản loạn, chống lại hoàng đế; còn nói có, thì hẳn Ngài không tránh khỏi sự la ó của dân chúng – đường nào Ngài cũng bị sập cái bẫy hai tròng này!
Nhưng làm sao thử thách được Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu thấu suốt tâm can của họ. Chúa Giêsu dựa trên sự thật là họ đang sử dụng đồng tiền của Xêda thì đương nhiên phải nộp thuế cho Xêda. Điều đó không ai bắt bẻ được Ngài.
Nhưng từ việc “Của Xêda trả cho Xêda”, Chúa Giêsu đã hướng họ đến với điều sâu xa hơn là: “Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Cuộc sống chúng ta là bởi Chúa, vì thế phải quy hướng về Thiên Chúa là lẽ đương nhiên.
Qua đó chúng ta thấy người công chính sẽ phải bị thử thách bởi nhiều thứ. Nhưng nếu họ có một lòng gắn bó với Chúa, họ sẽ vượt qua được.
Thật thế, sau khi giả vờ khen Chúa, họ liền chất vấn Ngài: “Có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Đây là một câu hỏi đầy hóc búa, gai góc, tinh khôn và chắt lọc, dù Chúa có trả lời được hay không, đều bị mắc bẫy của họ. Bởi vì, chúng ta biết lúc ấy nước Do thái đang bị đế quốc Rôma cai trị, mà đứng đầu một đế quốc rộng lớn ấy là vua Xêda đầy quyền uy, danh vọng. Vậy nếu Chúa bảo phải nộp thuế cho vị vua xứ ngoại lương dân này, thì tất nhiên họ sẽ khép tội Chúa là người phản quốc. Về phía dân thì từ lâu họ mong đợi một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi ách nô lệ mà nay họ đang tin vào Chúa, nếu Chúa bảo phải nộp thuế thì chắc chắn họ sẽ không tin vào Chúa nữa. Còn nếu như Chúa trả lời không được nộp thuế, thì Ngài sẽ bị dân người Rôma bắt vì đó là tội gây rối loạn là xúi dân chống lại hoàng đế Xêda.
Chúa Giêsu là “người chân thật”. Vì thế, dù những kẻ đối nghịch có tìm cách nói rước nói nịnh để “gài bẫy Ngài” đến đâu đi nữa, thì Ngài vẫn “không vị nể ai, không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo đường lối của Thiên Chúa mà giảng dạy sự thật” và mời gọi mọi người theo Ngài “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Mặc dù biết rõ ý đồ của họ, Chúa Giêsu vẫn tỏ ra hết sức chân thật; Ngài còn nhân cơ hội này để dạy cho họ một bài học: Ngài bảo họ cho xem đồng tiền và sau khi được biết hình và danh hiệu trên đồng tiền là của Xêda, Ngài nói tiếp: “Của Xêda trả về Xêda, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy Ngài phân biệt rõ hai bổn phận: Bổn phận công dân một nước trần gian và bổn phận đối với Thiên Chúa. Không bao giờ Ngài cho phép con người có quyền nhập nhằng, lẫn lộn hoặc thỏa hiệp giữa hai bổn phận này. Chúa chân thật và Ngài tôn trọng mọi sự trong từng lãnh vực khác nhau. Ngài dạy cho chúng ta biết phải trả về cho Thiên Chúa danh dự uy quyền thuộc về Ngài, đồng thời Ngài cũng khích lệ chúng ta tôn trọng quyền lãnh đạo xã hội.
Và ta thấy đồng thời bổn phận luôn đi đôi với quyền lợi, con người phải vâng phục quyền bính trần gian vì được hưởng những thiện ích mà nó mang lại cho xã hội – nhưng sự vâng phục đó không được ngược lại sự vâng phục dành cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Bởi vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa, con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài. Một quy luật tối thượng là toàn diện cuộc sống con người đều phải lệ thuộc vào Thiên Chúa, nên cũng phải dành cho Ngài vị trí ưu tiên trong cuộc sống của mình.
Chúa Giêsu biết rõ tâm tư không ngay chính của họ khi đặt câu hỏi trên, nên Người nói với họ: “Tại sao các người lại thử Tôi”. Câu hỏi này đưa chúng ta vào sâu trong Cựu Ước để thấy mình chỉ là cát bụi được Thiên Chúa dựng nên, là nắm đất sét trong tay người thợ gốm tài tình là Thiên Chúa, vậy mà giờ đây con người lại đòi trắc nghiệm sự khôn ngoan của Thiên Chúa! Họ quên rằng: “ Lòng mỗi người, chính Chúa dựng nên, việc họ làm, Chúa thông suốt cả” (Tv 32, 15). Sự khôn ngoan đó đã được Chúa Giêsu dùng đồng tiền họ đưa cho Người xem, để lý giải thật khôn ngoan về bổn phận người công dân trần thế và công dân Nước Trời:“Của Xê-da trả về cho Xê-da, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.
Câu trả lời này như lời nhắc nhở mỗi người Kitô hữu trong cuộc đời trần thế, chúng ta không bao giờ được phép xao lãng các bổn phận đạo đời, nhưng biết khôn ngoan dung hòa tất cả trong tinh thần yêu thương, tôn trọng luật Chúa, luật Giáo Hội, luật xã hội để sống tốt đạo, đẹp đời và tâm hồn luôn được bình an.
2021
ĐỒNG HÀNH VỚI MẸ ĐI THĂM VIẾNG
LỄ ĐỨC MA-RI-A THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT, lễ kính.
Hôm nay kỷ niệm ngày Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng 2/7/1627 Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes, S.J.) lần đầu tiên đến giảng đạo tại thành phố Hà Nội (Kẻ Chợ). Các nhà thờ trong thành phố Hà Nội cử hành lễ trọng.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Xp 3,14-18 (hoặc Rm 12,9-16b); Lc 1,39-56.
ĐỒNG HÀNH VỚI MẸ ĐI THĂM VIẾNG
Ngày lễ này đã được Đức Urban VI thiết lập vào năm 1389, vào khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với những chi tiết Phúc Âm. Ngày lễ hôm nay ghi nhớ việc Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Elizabeth, lúc ấy đã cao niên và đang có thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui về những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai chị em. Ngày lễ này – nhằm ngày kết thúc tháng Năm kính Mẹ – cho chúng ta thấy tinh thần chiêm niệm, sự phục vụ, và đức khiêm nhượng thẳm sâu của Mẹ, dạy chúng ta biết mỗi khi đi đâu, chúng ta cũng phải theo gương Mẹ Maria, trở nên một nguồn vui cho toàn thể nhân loại.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria dành cho người chị họ Elisabeth đánh dấu cuộc gặp gỡ giữa hai người phụ nữ tin tưởng vào lời Chúa dành cho hai vị đó và cho con người. Họ đã hợp tác với kế hoạch của Thiên Chúa trong công trình cứu rỗi con người được báo trước qua việc nhập thể và sinh ra của Đức Kitô. Cuộc thăm viếng còn mang một ý nghiã sâu xa hơn một cuộc hội ngộ của hai tín hữu công chính; nó được coi như sự chiếu sáng toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa để cứu độ con người.
Đức Maria là một con người, nên khi đối diện với những biến cố bất ngờ đến với Mẹ và người bà con Elisabeth, hẳn Mẹ cảm nhận một nỗi lo âu và bất định. Nhưng sự chung thuỷ của niềm tin đã lướt thắng những gì ngăn cản Mẹ trên con đường tín thác vào Thiên Chúa.
Đức Maria vội vã đến thăm Elisabeth và Elisabeth lớn tiếng biểu lộ niềm vui khi đón tiếp Maria, được nhìn dưới ánh sáng cao cả mà Yahweh Thiên Chúa đã làm cho con người. Giao ước đầu tiên Thiên Chúa làm cho con cái Israel qua Abraham, tiếp theo là giao ước thứ hai Thiên Chúa làm qua Con Ngài là Đức Giêsu dành cho mọi người. Đức Maria nối kết hai giao ước lại với nhau. Cuộc thăm viếng còn tỏ cho ta thấy một cảnh tượng đầy hạnh phúc, lòng tràn ngập niềm vui của Đức Maria để chia sẻ ơn viên mãn với người chị họ.
Cuộc thăm viếng chỉ dậy chúng ta một sự thật quan trọng mà ta có thể áp dụng vào cuộc sống cá nhân đối với Thiên Chúa. Đức Maria, Đấng đầy ơn phúc (Lc 1:28), đã tìm kiếm mọi sự trên hết để sống cho Chúa và làm mọi sự theo thánh ý (Lc 1:38). Kết quả là cuộc đời của Mẹ với Thiên Chúa phản ảnh hai điều song hành là mến Chúa và yêu người (Lc 10:27-28), và việc thăm viếng Elisabeth trong khi bà cần tới sự giúp đỡ của Mẹ phản ánh tình yêu dành cho Chúa và ước muốn thực hành theo thánh ý Chúa. Cuộc thăm viếng của Mẹ làm tràn ngập niềm vui trong tâm hồn ta bởi đó là dấu chứng Thiên Chúa hoạt động trong con dân Ngài.
Ta thấy lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội để an ủi,nâng đỡ, bênh vực Giáo Hội, chở che Hội Thánh .Mẹ luôn âm thầm hiện diện trong cuộc sống của từng người một để can thiệp, ủng cố đức tin cho con người an tâm vững bước trên cuộc hành trình lữ hành trần thế. Mẹ luôn yêu thương con người vì Mẹ yêu thương Chúa Giêsu. Suốt cuộc đời dưới thế của Chúa Giêsu , Mẹ luôn ở gần kề Chúa để Mẹ con chia sẻ vui buồn và nhất là chia sẻ sứ mệnh truyền giáo . Giáo Hội của Chúa Kitô hơn bao giờ hết luôn tin tưởng, cậy trông vào Mẹ vì chính Mẹ lúc nào cũng hiện diện trong cuộc sống Giáo Hội từng giây từng phút , như Mẹ đã luôn có mặt trong Giáo Hội sơ khai để qua lời cầu nguyện Mẹ củng cố niềm tin cho mọi người và dẫn mọi người tới với Chúa Giêsu Kitô con Mẹ.
Ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng hôm nay cho chúng ta nhìn thấy một khía cạnh trong đời sống nội tâm của Đức Maria, đó là tinh thần khiêm nhượng phục vụ và tình yêu vô vị kỷ dành cho những ai cần đến sự trợ giúp của Mẹ. Biến cố trong mầu nhiệm thứ hai Mùa Vui của chuỗi Mân Côi mời gọi chúng ta hãy hiến thân mau mắn, vui tươi, và chân thành cho người chung quanh. Nhiều khi sự phục vụ tốt nhất chúng ta có thể thực hiện là chia sẻ với họ niềm hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn chúng ta. Nhưng chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này khi chúng ta sống thân mật với Chúa, qua việc trung thành giữ trọn những giờ cầu nguyện trong ngày sống. Việc kết hợp với Thiên Chúa và thực hành các nhân đức siêu nhiên luôn luôn kéo theo niềm hứng thú thực hành các nhân đức nhân bản: Đức Maria đem niềm vui đến cho gia đình bà chị họ, bởi vì Mẹ ‘mang’ Chúa Kitô.
Phụng vụ nhắc nhở ta “hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Đức Maria ngợi khen Cha muôn đời” và “ án lệnh phạt ngươi Đức Chúa đã rút lại, thù địch của ngươi, Người đã đẩy lui.”
Chúng ta đồng hành với Đức Maria trong lời cầu nguyện, và thân thưa với Mẹ bằng những lời trong bài đọc Một hôm nay: Reo vui lên! Nữ Tử Sion! Hãy hò la, hỡi Israel! Hãy vui mừng, hãy hoan hỉ hết lòng, nữ tử Jerusalem!… Có ở giữa ngươi, Giavê Thiên Chúa của ngươi. Anh hùng vạn thắng! Vì ngươi, Người hân hoan vui sướng. Với ngươi, Người làm mới lại Tình Yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui.
Chúng ta đồng hành với Mẹ Maria trên những nẻo đường tình yêu, theo gót Elisabeth là hiện thân của những chị em, những anh em trần gian, và cùng họ thiết lập một mối dây đức tin và ca ngợi. Lúc đó bài Magnificat trở thành bài ca tuyệt hảo cảm tạ Thiên Chúa, không những của cuộc thăm viếng của Đức Maria, mà cả cuộc hành hương của chúng ta trong hi vọng. Hành hương tượng trưng niềm hi vọng của con người trên đường dương thế, con người lữ hành.
2021
YÊU VÀ HIỆP NHẤT NHƯ BA NGÔI
30 19 Tr CHÚA NHẬT IX THƯỜNG NIÊN. CHÚA BA NGÔI, lễ trọng.
Xứ Sở Hạ, họ An Mông và họ Duyên Hà Chầu Mình Thánh.
Không cử hành lễ nào khác, kể cả lễ an táng.
Đnl 4,32-34.39-40; Rm 8,14-17; Mt 28,16-20.
YÊU VÀ HIỆP NHẤT NHƯ BA NGÔI
Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Hoạt động của Ba Ngôi tuy khác biệt nhưng luôn thể hiện trong một tình yêu thương: tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con, tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta cũng chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi. Trước hết chúng ta phải chấp nhận, đó là một chân lý, một mầu nhiệm không ai có thể hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là do Chúa Giêsu đã nói với chúng ta, như lời Ngài đã phán trong Tin Mừng: “Các con hãy rửa tội cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”.
Thánh Augustino diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi bằng một ý niệm rất là thực tế, đó là ý niệm về một “Cộng Đoàn”. Ba Ngôi Thiên Chúa tạo ra giữa các Ngài một “Cộng Đoàn cuả Tình Yêu”, trong đó, chính Tình yêu là nền tảng cốt yếu của sự tương quan và của sự hiện hữu Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Tình yêu này đã, đang và sẽ mãi mạc khải cho con người. Mối liên hệ tình yêu luôn luôn đòi hỏi một chủ thể yêu và một đối tượng được yêu và ngược lại. Giữa hai người, hiện diện tình yêu, và chính “tình yêu này” nối kết họ lại với nhau, cũng vậy trong Chúa Ba Ngôi, mối liên hệ này đã trở nên nhân vị. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, và ngược lại, Chúa Con được Chúa Cha yêu thương: Tình yêu đã liên kết Cha – Con chính là Chúa Thánh Thần, và Chúa Thánh Thần được yêu từ Chúa Cha và Chúa Con.
Ta cứ nghĩ mặt trời là nguồn năng lượng vật chất thế nào thì Chúa Ba Ngôi cũng là nguồn sống thiêng liêng cho chúng ta như vậy. Mặt trời chiếu toả ánh sáng thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng soi sáng tâm hồn chúng ta như vậy. Mặt trời đem đến sức nóng để sưởi ấm vạn vật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ đem lại sức nóng thiêng liêng để sưởi ấm, đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em đồng loại. Mặt trời tiêu diệt vi khuẩn chữa lành bệnh tật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ khử trừ những thói hư tật xấu và loại trừ tội lỗi ra khỏi tâm hồn và cuộc đời chúng ta như thế. Mặt trời đem lại cho chúng ta niềm vui cho chúng ta thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu như thế.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý: Chúa Ba Ngôi không phải là một nguồn năng lượng vô hồn nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương. Với Ngài, chúng ta có thể kêu cầu như chúng ta vốn đã thường làm, mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá, đọc kinh Sáng Danh, hay như lát nữa đây, chúng ta cùng nhau hát kinh Tin Kính…
Cùng với lời tuyên xưng chúng ta hãy sống gắn bó mật thiết với các Ngài, để rồi các Ngài sẽ ra tay nâng đỡ phù trợ cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Và ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có, nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”.
Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến mạng sống.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta “như con ngươi trong mắt Ngài”. Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu “như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi”. Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân.
Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là “hoạ ảnh của Chúa”, nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp để mỗi người chúng ta chiêm ngưỡng Một Thiên Chúa tình yêu, đào sâu thêm về tình yêu giữa Ba Ngôi cũng như tình yêu mà Ba Ngôi đã trao ban cho chúng ta. Đồng thời cũng là dịp để chúng ta tự vấn lương tâm về các mối quan hệ của chúng ta giữa vợ chồng, bố mẹ con cái, gia đình, xã hội, Giáo hội cũng như những mối tương quan khác,… để xem đó có thực sự là mối quan hệ dựa trên tình yêu vô vị lợi mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã yêu thương cũng như tình yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ bày cách cụ thể nhất khi Người xuống thế, chịu chết và sống lại vì nhân loại.
Ước mong đây là dịp thuận lợi để chúng ta xin Ba Ngôi Thiên Chúa tiếp tục dạy dỗ và hướng dẫn ngõ hầu mỗi người chúng ta được nên hoàn thiện trong tình yêu và ân sủng của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
2021
ĐỐI THOẠI TRONG CHÚA
29 18 X Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên.
(Tr) Thánh Phao-lô VI, Giáo hoàng.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
Hc 51,12-20; Mc 11,27-33.
ĐỐI THOẠI TRONG CHÚA
Bối cảnh đoạn Tin mừng Mác-cô hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đối thoại đầy ẩn ý giữa Chúa Giêsu với các nhà hữu trách tôn giáo.
Đối thoại là một trong những phương thế giải quyết mâu thuẫn, đem lại sự hiểu biết và trân quý nhau hơn. Tuy thế, đối thoại chỉ mang lại hiệu quả khi đôi bên đến với nhau với lòng chân thành, cởi mở và tinh thần tôn trọng sự thật. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và giới lãnh đạo Do thái trong bài Tin Mừng hôm nay xảy ra sau khi Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ (Mc 11,15-19), một sự kiện náo động đụng chạm trực tiếp đến quyền hành của những người đứng đầu Ír-ra-en. Vì thế, cuộc gặp gỡ này đã không diễn ra trong bầu khí của một cuộc đối thoại đúng nghĩa, bởi lẽ các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đã đến với thái độ ganh ghét, thù nghịch.
Kết quả là sự thật về Chúa Giêsu đã không được vén mở cho họ, hay nói đúng hơn, chính họ đã khép kín mình và không muốn đón nhận sự thật. Bi kịch của giới lãnh đạo Do thái nằêm ở chỗ họ đã không có đủ lòng chân thành và khiêm tốn. Nỗi sợ mất uy tín, địa vị đã khiến họ không dám nhìn nhận sự thật, đẩy họ đến một câu trả lời vô trách nhiệm: “chúng tôi không biết.” Cuộc đối thoại giữa họ và Chúa Giêsu đã đi vào chỗ bế tắc.
Đã đến lúc Chúa Giêsu tỏ hiện cho muôn dân biết Ngài là ai, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lên Giêrusalem và Ngài thấy cảnh tượng ô uế của đền thờ. Đền thờ là nơi thợ phượng tôn vinh Thiên Chúa, nhưng giờ đây chốn thánh thiêng này đã trở nên lộn xộn và bát nháo bởi cảnh mua bán, đổi chác, trộm cắp và gian lận, cảnh tượng của một cái chợ. Thấy lòng dạ dân chúng trở nên chai đá, một cuộc sống đầy tục hóa nơi chốn thánh thiêng, Chúa Giêsu đã nổi cơn giận dữ, Ngài đã lấy dây thừng đánh đuổi tất cả mọi người ra khỏi đền thờ, nơi mà chỉ để dành riêng cho việc tôn thờ và gặp gỡ Giavê Thiên Chúa.
Chính hành động ấy của Chúa Giêsu càng làm cho các thượng tế, kinh sư và kỳ mục càng thêm thù ghét Chúa Giêsu. Các nhà hữu trách tôn giáo đã để cho cảnh tượng buôn bán, đổi chác bát nháo ấy xảy ra, bởi họ cho rằng, cần có thêm một khoản lợi tức cho đền thờ, nhưng họ lại quên đi giá trị thánh thiêng của nơi thờ tự. Chính hành động của Chúa Giêsu sẽ làm cho Đền thờ mất đi mối lợi tức ấy.
Do vậy, họ đã chặn Chúa Giêsu lại để gài bẩy lên án và kết tội Ngài. Họ chặn Chúa Giêsu và hỏi: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” Họ hỏi thế, không phải vì lòng chân thành muốn biết rõ Chúa Giêsu có phải là Đấng Mê-si-a hay không, nhưng đúng hơn là với một giả tâm muốn gài bẩy để giết Chúa Giêsu. Biết được ác ý của họ, thay vì trả lời câu hỏi thì Chúa Giêsu lại hỏi ngược lại họ. “Phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta? Các ông trả lời cho tôi đi!” Trước một tình thế bất ngờ, họ trở nên luống cuống nên đã họp bàn nhau để tìm câu trả lời. “Nếu mình nói: ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại: ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy?’ 32 Nhưng chẳng lẽ mình nói: ‘Do người ta’?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an thật là một ngôn sứ”.
Quả vậy, trong đời sống con người thường hay tìm cho mình sự tư lợi, tìm cho mình một địa vị trong xã hội. Khi mục đích đời họ là đi tìm những thứ phù phiếm của tiền tài danh vọng, họ rất ghét những ai có và sẽ có tầm ảnh hưởng hơn họ. Bởi lẽ, họ không muốn mình là hạng hai và thứ yếu so với kẻ khác và cũng vì đó mà họ khó đón nhận sự hiện diện của những điều thánh thiêng, và càng khó hơn khi đón nhận những “ngôn sứ” của Thiên Chúa.
Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư đã rơi vào vòng “kim cô” của thế tục ấy, nên họ càng ghét Chúa Giêsu hơn, bởi Ngài có một tầm ảnh hưởng lớn lao trong dân chúng. Chính thái độ và cung cách ấy mà họ đâm ra sợ hãi, họ mới trả lời với Chúa Giêsu rằng: “Chúng tôi không biết”. Họ trả lời không biết không phải vì họ không biết mà là họ không dám biết và không muốn biết, bởi cái biết ấy sẽ ảnh hưởng trên thế lực, địa vị và quyền lợi của họ.
Do vậy, Chúa Giêsu cũng không nói cho họ biết Ngài lấy quyền gì để làm điều ấy, vì lẽ, chính Ngài đã nói rõ ràng với họ rồi “Đừng biến nhà Cha ta thành nơi sào huyệt của trộm cướp”, nhưng họ đã không dám đón nhận sự thật ấy.
Chúng ta thường quan niệm rằng “kẻ không biết không có tội”, vì họ không ý thức được điều họ làm là sai. Tuy nhiên, nếu người đó biết rõ nhưng vì lợi ích cá nhân của mình mà giả vờ như không biết, kẻ đó càng đáng tội nhiều hơn. Các trưởng tế, luật sĩ và kỳ lão trong bài Tin Mừng hôm nay chính là những người như vậy. Họ muốn chất vấn về quyền hạn của Chúa Giêsu là từ đâu mà có, nhưng lại chẳng muốn chấp nhận sự thật rằng Người là Con Thiên Chúa. Để rồi, họ tự dối mình và dối người khi thốt lên “Chúng tôi không biết”.
Có phải thực sự họ không biết hay không? Không hề. Họ không chỉ nhận biết được quyền năng của Chúa Giêsu mà còn nhận ra sự hiện diện của quyền năng ấy sẽ gây bất lợi cho mình. Chính vì thế, họ thà tự nhận mình là những kẻ không biết gì còn hơn là chấp nhận sự thật về quyền thế của Người. Lời nói đó tưởng chừng như vô thưởng vô phạt nhưng thực sự đã tố cáo lòng tin chai đá của những người có uy tín, những người đại diện cho tầng lớp trên trong xã hội Do Thái và sự nhỏ nhen, vị kỉ của họ.
Tuy nhiên, đừng vội xét đoán vì biết đâu được, chính chúng ta cũng là những người như họ. Đôi lúc chúng ta đặt cái tôi của mình quá cao, xem trọng lợi ích của mình một cách quá đáng để rồi im lặng trước bất công của xã hội, hay chọn cách như các luật sĩ, trưởng tế và kỳ lão trong đoạn Kinh Thánh trên – vờ như không biết những điều đó. Quả thật, khi mỗi người đều tự đề cao cái tôi của mình một cách thái quá, những giá trị chung của xã hội sẽ chẳng còn gì quan trọng.