2021
HAI THÁI ĐỘ
29THỨ HAI TUẦN THÁNH
– Kinh Tiền Tụng thương khó II.
– Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
– Các bài đọc Lời Chúa: Is 42,1-7; Ga 12,1-11.
HAI THÁI ĐỘ
Ngày Thứ Hai Tuần Thánh hôm nay, chúng ta được nghe lại đoạn trích Phúc Âm của Thánh sử Gioan với đầu đề: Xức dầu thơm tại Bêtania. Việc xức dầu cho khách là phong tục phổ thông của người Do Thái và thông thường là xức dầu trên đầu của vị khách ấy. Thế nhưng cô Maria trong bối cảnh của đoạn Tin Mừng này, cô đã dùng dầu thơm quý giá xức nơi bàn chân của Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Một hành động khác thường vì một lòng mến phi thường. Vì yêu mến người thầy Giêsu, Maria đã chẳng tiếc bất cứ thứ gì.
Trước đây, cô đã làm hài lòng thầy khi bỏ hết mọi sự bên ngoài mà ngồi bên chân Thầy và lắng nghe Lời Thầy. Giờ đây, cô từ bỏ kể cả chính mình, khiêm nhường và cung kính xức dầu thơm lên chân vị thượng khách mà cô yêu mến.
Chúng ta đang từng bước hiệp thông với Chúa Giêsu trong cuộc Khổ Nạn và Tuần Thánh cũng là cao điểm cho chúng ta chiêm ngắm Mầu nhiệm tự hiến của Chúa Giêsu. Chúng ta cảm suy điều gì về tình yêu lớn lao ấy? Một tình yêu cho đi nhưng không và một tình yêu cho đến tận cùng. Phải chăng cái chết của Chúa Giêsu chỉ đơn giản là một cái chết trên thập tự giá và là cái chết đầy sự nhục nhã? Hẳn là như thế nhưng cao sâu hơn thế đến vô tận. Vì Người là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, là Đấng vô tội, Người mang án tử là để đền tội loài người chúng ta, gánh thay tội lỗi của chúng ta bởi vì yêu thương chúng ta. “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào Thân Thể mà đưa lên cây thập giá” (1Pr 2, 2) . Người đã chết để cho thế gian được sống và sống dồi dào. Còn “Tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã thí mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 14).
Giáo Hội cũng mời gọi mỗi người Kitô hữu, từng bước theo Chúa Giêsu đi trên con đường khổ nạn và Thập giá, từ bỏ mọi thế tục phù vân mà theo Chúa, chính là sống thoát khỏi u mê trong thế giới bạc tiền. Quả thật trong cuộc sống, có những người giống như Giuđa Ít-ca-ri-ốt, không chấp nhận hành động của cô Maria vì giá trị bình dầu thơm mà Cô đổ ra và xức chân Chúa Giêsu là 300 đồng, số tiền rất lớn tương đương với ba trăm ngày công (Ga 6, 7). Mà gia đình cô không khá giả cho lắm, nhưng với Cô Maria đã làm một việc này cho Chúa rất vui, với lòng kính trọng, đó là cử chỉ diễn tả lòng khiêm nhường và việc làm ấy xuất phát từ lòng yêu mến chúa bằng mọi giá, Maria không tiếc nơi Chúa dù tiền bạc hay thời gian hay không bằng lời nói suông, nhưng thể hiện bằng việc làm cụ thể, đồng thời những hành động của cô diễn tả nghi thức mai táng trước hạn. Như Chúa Giêsu nói: “ Hãy để cô ấy yên hầu giữ lại dầu thơm này cho đến ngày mai táng Thầy”.
Khi thấy cô Maria đổ dầu thơm xức chân Chúa, thì ngay lập tức đầu Giuđa Iscariốt nghĩ tới tiền bạc và cảm thấy tiếc tiền tiếc của, thay vì nghĩ đến cuộc thương khó của thầy mình. Tâm trí suốt ngày chăm chăm chú chú đến tiền bạc đã biến ông trở thành kẻ phản bội.
Ngược lại, Maria đã bày tỏ tình yêu trọn vẹn với Chúa mà không so đo tính toán đến giá trị của dầu thơm cô xức cho Chúa. Không những vậy, vì thương mến Chúa mà cô đã thực hiện một hành động mà dường như không người phụ nữ Do thái nào dám làm ở nơi công cộng, đó là cô lấy tóc mà lau chân Chúa. Vì thương mến Chúa mà cô không cần nghĩ đến bản thân mình. Chính tâm tình yêu mến này của cô đã giúp cô tham dự cách trọn vẹn vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, mầu nhiệm chết và phục sinh của Chúa.
Cô Maria ngày nào đã không màng điều gì ngoài việc ngồi bên chân Chúa, lắng nghe Lời Chúa nói, và xức dầu bày tỏ lòng yêu mến dành cho Chúa. Còn chúng ta? Lòng yêu mến nơi trái tim chúng ta có đủ mạnh để có thể vượt lên trên toàn bộ những thứ khác? Lòng mến nơi ta có đủ lớn để ta dám đánh đổi thời gian, có đủ trưởng thành để ta vượt thắng những dò xét của người đời?
Chỉ với một niềm tin yêu đơn sơ nhưng mạnh mẽ, ta đến với Đấng là Tình Yêu và chọn là Đối Tượng duy nhất của lòng ta yêu mến. Đấng tự hạ liên lỉ trong Nhà Tạm cũng là Đấng hằng luôn hiện hữu sống động vượt mọi không gian thời gian, trong từng con người, nơi mỗi người chị, người em hằng ngày sống bên ta, nơi tha nhân, nơi những tâm hồn cùng cực và tầm thường, nơi tất cả những gì gọi là cuộc sống. Điều đó mời gọi chúng ta mau mắn ra khỏi mình, bước đến với từng người mà “xức dầu thơm” cho họ với sự hy sinh trong sáng, lòng nhân ái tinh tuyền, chỉ vì một điều thôi đó là tình yêu chân thật dành cho Thiên Chúa.
Người ta chỉ nhỏ vài giọt dầu thơm lên người để “lấy hương lấy hoa;” chẳng có ai đổ nguyên cả bình dầu thơm, lại là dầu thơm cam tùng hảo hạng, lên chân người khác. Thế nhưng, đó là điều cô Maria đã làm để bày tỏ lòng trân trọng và quý mến của cô với Chúa Giêsu. Maria đổ nguyên cả bình dầu thơm mà không tính toán, cũng chẳng tiếc nuối, vì cô muốn dành cho Chúa Giêsu những gì quý giá nhất của gia đình mình. Lượng dầu thơm quý giá chảy trên chân Ngài chẳng thấm vào đâu so với ơn nghĩa, tình yêu quá lớn Ngài đã dành cho gia đình cô. Có lẽ điều duy nhất Maria hối tiếc là không có thể làm gì hơn nữa để dâng cho Ngài. Sự hào phóng, cho đi mà không tính toán, so đo là dấu hiệu của tình yêu thật sự.
Ngày nay bao người đang tự hỏi trọng tâm đời sống tôi quy hướng về đâu? Tiền bạc, giàu nghèo sang hèn, danh vọng, hạnh phúc ư? Mọi người vẫn mải mốt đi tìm, cái hay, cái đẹp, cái sang, cái hèn, người giầu có địa vị cố tìm cho mình thật hoàn hảo, người nghèo đi tìm manh cơm tấm áo cho bằng mọi người, nhưng Chúa vẫn nhắc nhở: “thật vậy, người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh; còn Thầy, anh em không có mãi đâu”.
Cuộc sống luôn là phù vân, phù vân nối tiếp phù vân nên dù chúng ta giàu hay nghèo, sang hay hèn hãy học mẫu gương cô Maria biết dùng tiền bạc diễn tả tình yêu, hay lời cầu nguyện liên lỷ kết hợp cùng Thiên Chúa. Chúng ta biết đặt Thiên Chúa với một vị trí cao trọng nhất. Mong sao mùa chay Thánh này giúp mỗi người biết sống hy sinh cầu nguyện, cảm nghiệm với lối sống quảng đại hy sinh quên mình, để chúng ta đón nhận Chúa Giêsu phục sinh hằng ban sự sống đời đời cho chúng ta.
Ngày hôm nay, hành động của cô Ma-ri-a lấy dầu thơm xức chân Chúa Giêsu, được chính Ngài công nhận là một hành động mang tính ngôn sứ: “Dầu thơm này có ý dành cho ngày mai táng Thầy.” Dù trước mặt mọi người, hành động của Maria có vẻ khó hiểu, nhưng đối với cô điều đó không quan trọng, bởi vì cô đã hành động theo sự thúc đẩy của tình yêu dành cho Đức Kitô. Chính tình yêu giúp cô đồng cảm sâu xa với Ngài; và ngay từ lúc này, cô đã cùng Đức Kitô đi vào cuộc khổ nạn với Ngài.
2021
THẤY DẤU LẠ NHỮNG KHÔNG TIN
27Thứ Bảy Tuần V Mùa Chay
– Kinh Tiền Tụng thương khó I.
– Các bài đọc Lời Chúa: Ed 37,21-28; Ga 11, 45-57.
THẤY DẤU LẠ NHỮNG KHÔNG TIN
Tin Mừng hôm nay kể lại quyết định thực hiện dã tâm loại trừ Chúa Giêsu của giới lãnh đạo Do Thái, và hướng đến sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu, sứ mệnh cứu độ nhân loại của Đấng Mê-si-a mà các tổ phụ, các tiên tri người Do Thái hằng trông mong chờ đợi.
Chứng kiến hay nghe nói về phép lạ lớn lao ông Ladarô đã chết, được chôn táng trong mồ bốn ngày, nhưng lại hồi sinh bởi lời của Đức Giê-su, có những người tin nơi Đức Giêsu. Nhưng tin là gì? Đâu là những hệ quả của lòng tin trong cuộc sống, trong những lựa chọn, trong hướng đi, trong cách sống, trong tương quan với Chúa và với người khác? Chúng ta cũng đã nhận ra bao “dấu lạ” Chúa làm trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta có tin không? Nếu có tin, thì đức tin đó là đức tin nào? Có biến đổi sâu xa tương quan của chúng ta với Chúa và với “mọi sự khác” không? Thiên Chúa đối với chúng ta là ai, Đức Ki-tô là ai? Niềm tin này có trở thành lẽ sống của chúng ta không?
Như thế, dấu lạ thì chỉ có một lần hay một vài lần thôi, nhưng tin là một hành trình kéo dài suốt đời và đầy khó khăn. Cũng tương tự như hai người trẻ nam nữ, giống như mỗi người chúng ta và Hội Dòng, sau một thời gian tìm hiểu và đến một thời điểm xác định nào đó, được mời gọi trao ban lòng tin cho nhau, nhưng phải sống niềm tin trọn đời. Và đó là một hành trình không dễ dàng và đòi hỏi phải làm mới lại lòng tin yêu không ngừng.
Sau sự kiện anh La-da-rô ở làng Bê-ta-ni-a đã chết được bốn ngày, người ta đã chôn anh trong mộ đá; rồi Chúa Giêsu đến thăm gia đình anh, và trước sự chứng kiến của nhiều người, Chúa Giêsu làm cho anh sống lại đã khiến nhiều người tin. Một số người khác thấy dấu lạ La-da-rô sống lại và quyền năng siêu phàm nơi Chúa Giêsu người Na-da-rét, thì đem lòng đố kỵ và ganh ghét; họ đi thuật lại cho các thượng tế và người Pha-ri-sêu.
Sắp sửa đến lễ Vượt qua, một đại lễ quan trọng của người Do Thái; đền thánh Giê-ru-sa-lem là trung tâm của Do Thái giáo; vì thế, dịp lễ này toàn dân sẽ tập trung về đây để thanh tẩy và mừng đại lễ. Các thượng tế và người Pha-ri-sêu nghe kể lại về dấu lạ Đức Giêsu Na-da-rét làm cho người chết sống lại ở Bê-ta-ni-a, thì lo sợ những người tin vào Chúa Giêsu sẽ nổi dạy để ủng hộ Người; như thế, bạo loạn sẽ xảy ra và làm cớ cho quân đội Lamã đang đồn trú gần thành thánh can thiệp và mạnh tay đàn áp. Họ lo sợ và triệu tập Thượng Hội Đồng bàn mưu tính kế giết người; trong Thượng Hội Đồng, thượng tế Cai pha đã xảo quyệt hiến kế: “thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.” Và họ quyết định giết Đức Giêsu.
Với lòng dạ nham hiểm, độc ác; giới lãnh đạo tinh thần Do Thái đưa ra kế sách để vừa loại trừ một đối thủ tầm cỡ đang được nhiều người mộ mến; vừa củng cố được địa vị và đảm bảo quyền lợi, bổng lộc do đế quốc La Mã ban tặng; đó là giết Đức Giêsu Na-da-rét.
Xét về chiều kích xã hội: những giáo huấn và việc làm của Chúa Giêsu đang nhắm đến tái lập một xã hội công bình, chính trực, dựa trên nền tảng là giới luật yêu thương, tha thứ; những điều này đối lập với lối sống ích kỷ, tham lam, vụ hình thức, vốn đã ăn sâu vào tiềm thức người Do thái qua những truyền thống lầm lạc của tiền nhân, khiến cuộc sống đầy dẫy những bất công, tội ác.
Xét về chiều kích tâm linh, nhiều người Do Thái tin vào Chúa Giêsu vì họ thấy phép lạ Người làm; nhưng hơn thế nữa, họ đã nghe truyền tụng về Người và trực tiếp nghe giáo huấn của Người. TrangTin Mừng hôm nay mặc khải cho chúng ta công trình cứu độ mà Chúa Giêsu đã thực hiện để cứu chuộc nhân loại. Ở nơi Chúa Giêsu lời giáo huấn chuyển tải chân lý dẫn đến hạnh phúc đời đời của mỗi người; còn gương sáng: những cử chỉ trìu mến, yêu thương và khát vọng ban hạnh phúc cho nhân loại được thể hiện qua những lo toan, vất vả và khổ đau khi Chúa Giêsu thi hành sứ mệnh Chúa Cha trao cho, nhất là thể hiện lòng thương xót tha thứ cho những người tội lội, những kẻ yếu đau tật nguyền, khi Người dùng quyền năng giải thoát họ khỏi khổ đau và quyền lực ma quỷ; sau cùng Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống để minh chứng Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ trần gian; Người sẽ tái lập công lý và hòa bình đích thực cho nhân loại.
Các thượng tế, kỳ lão và người pha-ri-sêu quyết định loại trừ, giết Người vì Người không thuộc về thế gian, Người đối lập với lòng hận thù, ganh ghét, đố kỵ, tham lam, ham hố quyền bính và lợi lộc của họ; nhưng Người trở nên nhân chứng sống động trong lịch sử Cứu Độ nhân loại của Thiên Chúa.
Thượng tế Cai-pha đề nghị giết Chúa Giêsu để loại trừ khả năng một cuộc nổi loạn đậm chất chính trị trần gian có thể xẩy ra và hậu quả là cả dân Do Thái và thành thánh Giêrusalem có thể bị quân La-mã tàn sát và hủy diệt. Mưu đồ gian ác của thượng tế Cai pha trong Thượng Hội Đồng Do Thái đã trở thành lời tiên tri về sứ mệnh cứu độ của Đấng Mê-si-a, Đấng phải chết thay cho toàn thể nhân loại để nhân loại nhờ Người mà được sống. Chúa Giêsu không chỉ chết thay cho dân mà còn qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát khắp nơi về một mối; vì chính Người đã hoàn tất công trình Cứu độ và ban phát ơn cứu độ cho mọi người.
Trong cuộc Thương Khó, chúng ta thấyy đã bày tỏ cho tôi tình yêu đến cùng của Chúa dành cho tôi, dù tôi là ai và đang ở trong tình trạng nào. Tôi được mời gọi tôi nhận ra nơi những gì Chúa Giêsu mang lấy trong cuộc Thương Khó, có chính bản thân tôi, như tôi là, nhỏ bé, giới hạn, yếu đuối, tội lỗi; tôi hiện diện cách trọn vẹn, được đón nhận cách trọn vẹn và được bao dung cách trọn vẹn trên đôi vai của Chúa Giêsu, trong ánh mắt của Chúa Giêsu, trong trái tim của Chúa Giêsu.
2021
BIẾT CHÚA
26Thứ Sáu Tuần V Mùa Chay
– Kinh Tiền Tụng thương khó I.
– Các bài đọc Lời Chúa: Gr 20,10-13; Ga 10,31-42.
BIẾT CHÚA
Trước thảm họa là khổ đau và tội lỗi của nhân loại, ta thấy Chúa Giêsu đã được Đức Chúa Cha sai đến trên trần gian làm người cứu chữa và đem lại sự sống mới cho nhân loại. Chúa Giêsu ý thức rất rõ sứ mệnh với tất cả những gì mà Ngài phải gánh chịu Ngài đón nhận với tất cả tâm tình yêu mến, phó thác toàn thân cho Chúa Cha, hoàn toàn để cho Chúa Cha hành động và hoàn tất kế hoạch cứu rỗi của Ngài.
Chúa Giêsu đã nói : “Cha Ta hằng luôn làm việc và Ta cũng luôn làm việc” (Ga 5,18). Thiên Chúa hằng luôn làm việc, Ngài làm việc gì? Ngài không ngừng trao ban tình thương và sự sống cho mọi loài Ngài đã tạo dựng nên. Vì Ngài chỉ cần rút hơi thở là tất cả trở về cát bụi hư vô (Giob 34,14). Ngài chăm sóc muôn loài, muôn vật: chim trời, cá biển, hoa cỏ đồng nội… (Mt 6, 26 – 30) bằng một tình yêu muôn thuở. Như Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng hằng luôn làm việc : Người không ngừng loan báo cho con người rằng họ được Thiên Chúa yêu thương, Người chạnh lòng xót thương những kẻ bé nhỏ nghèo hèn, khổ đau vì bệnh tật, tội lỗi… Người làm việc không mệt mỏi vì chạnh thương con người “như đàn chiên không người chăm sóc” (Mt 9, 39). Người chia sẻ và cảm thông với mọi nỗi vui buồn sướng khổ của con người.
Ðây là lần thứ hai những người Do Thái muốn ném đá Chúa Giêsu vì Người xưng mình là Con Thiên Chúa. Sự xung khắc giữa hai bên, một bên vì sự thật, bên kia vì mê muội, càng ngày càng gia tăng. Chúa Giêsu cương quyết thi hành sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Người bất chấp mọi nguy hiểm, kể cả nguy cơ bị giết chết. Người Do Thái cũng nhất quyết loại trừ Chúa Giêsu vì họ cho Người phạm thượng. Cuộc đối kháng sẽ đi đến cao trào vào ngày lễ Lá khi Chúa Giêsu công khai vào thành Giêrusalem với tư cách là Ðấng Mêsia. Về phía các đối thủ của Chúa Giêsu, họ cũng lập một kế hoạch để trừ khử Người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Do Thái khăng khăng buộc tội Chúa Giêsu, họ cho rằng Người đã nói phạm thượng khi xưng mình là Con Thiên Chúa. Họ không thèm đếm xỉa đến những việc tốt lành Chúa Giêsu đã thực hiện, cũng không thèm nghe những lời người khác làm chứng về Chúa Giêsu để xét xem Người có phải là Ðấng Mêsia hay không? Càng đối chất với Chúa Giêsu, họ càng trở nên ương ngạnh, ngoan cố. Vì tự ái và để bảo vệ tư lợi, họ không còn quan tâm đến tính cách khách quan của sự kiện, đầu óc họ bây giờ chỉ còn một ý nghĩ duy nhất chiếm ngự đó là phải khử trừ Chúa Giêsu bằng bất cứ giá nào. Sự giận dữ nung đốt lòng họ, biến họ thành những kẻ gian ác, như hình ảnh những tá điền hung dữ mà Chúa Giêsu đã mô tả trong các dụ ngôn Người giảng dạy trước đây.
Người xưa có nói: “Giận mất khôn”, người Do Thái vì giận Chúa nên không còn kể gì sự khôn ngoan hay rồ dại nữa. Ðã biết bao lần Chúa Giêsu nhắc đến Chúa Cha. Người cố tình nhắc đi nhắc lại nhiều lần để mong họ thức tỉnh mà suy xét lại. Biết họ giận dữ, Người vẫn tiếp tục nói, không phải Chúa muốn chọc giận họ mà là muốn họ ăn năn sám hối và được cứu rỗi. Sứ mạng Chúa Cha đã trao phó cho Người, Người phải thi hành đến cùng. Chúa Giêsu càng thiết tha giảng dạy cho họ, họ càng tức điên lên, Chúa Giêsu càng nói họ càng tức giận và cuối cùng, không dằn được cơn giận họ đành tóm lấy Chúa Giêsu để trừng trị cho hả dạ. May thay, Chúa Giêsu đã lánh ra khỏi chỗ họ mà đi sang bên kia sông Giordan.
Khung cảnh bên kia sông Giordan lắng dịu và khách quan hơn, ở đó có nhiều người đến với Chúa Giêsu, những người này là những người thành tâm thiện chí, họ muốn tìm ra sự thật về vị Thầy Giêsu mà dân chúng xôn xao bàn tán bấy lâu. Dư luận nói tốt về Người cũng có, mà dư luận nói xấu về Người cũng chẳng thiếu, họ bình tâm đứng giữa hai luồng dư luận và để tìm hiểu những lời ông Gioan đã nói về Chúa Giêsu, họ tin vào sự chân thật của ông Gioan, bởi ông được mọi người công nhận là một ngôn sứ đích thực. Ông đã nói nhiều điều về Chúa Giêsu, và những điều đó đã xảy ra đúng như lời ông nói.
Ta thấy Lời chứng của một người chân thật thì phải là một sự thật, thế thì chắc chắn Chúa Giêsu phải là Ðấng Mêsia mà Kinh Thánh đã từng tiên báo. Dù có nhiều điều họ chưa hiểu tường tận, nhưng dựa vào lời chứng của Gioan, họ đã tin vào lời Chúa Giêsu và họ đã tìm đến với Người. Tấm lòng rộng mở của họ đã dẫn họ đến với sự thật.
Hai cách hành xử của hai nhóm người trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa đọc lại trên đây là những gợi ý quý báu cho chúng ta khi phải nhận định đánh giá các nguồn dư luận quanh ta hàng ngày về Chúa Giêsu. Là những người yêu chuộng sự thật, chắc chắn chúng ta biết mình sẽ chọn con đường nào để đạt tới chân lý, để đến với Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là cứu cánh duy nhất của cuộc đời và chúng ta cần Người để được cứu độ. Từ nhận thức đó tôi khao khát được biết Người, mà muốn biết Người tôi phải tìm hiểu, tiếp xúc với Người, cùng sống với Người trong cuộc sống, lắng nghe Người nói gì với tôi, làm gì cho tôi. Tôi phải dành thời gian để đối thoại với Người, cùng Người bàn bạc, nhận định và xin ý kiến của Người.
Để biết Người, tôi phải nghe và đọc Kinh Thánh vì Người là trung tâm của mạc khải Kinh Thánh. Đặc biệt trong Tin Mừng, tôi sẽ được chiêm ngắm con người của Đức Giê-su Kit-tô: Tôi sẽ được nghe Người nói, nhìn những việc Người làm… Và điều quan trọng nhất là tôi phải đặt niềm tin nơi Người, tôi sẽ thấy Người vẫn tiếp tục hành động trong cuộc sống của tôi như xưa kia Người đã hành động. Đó là những hành động đầy chăm sóc và thương yêu. Hãy để cho giáo huấn của Người và tình yêu của Người biến đổi trái tim tôi, để đi đến xác quyết tôi sẽ là môn đệ của Người, để tiếp tục gieo rắc tình yêu của Người cho cuộc đời thêm tươi đẹp.
2021
LUÔN LUÔN LẮNG NGHE – LUÔN LUÔN THẤU HIỂU
25Thứ Năm Tuần V Mùa Chay
LỄ TRUYỀN TIN CHÚA NHẬP THỂ, lễ trọng
– Trong Thánh Lễ, phần Kinh Tin Kính, quỳ gối khi đọc câu “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần… và đã làm người”.
– Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
– Các bài đọc Lời Chúa: Is 7,10-14;8,10; Hr 10,4-10; Lc 1,26-38.
LUÔN LUÔN LẮNG NGHE – LUÔN LUÔN THẤU HIỂU
Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ngôi Hai làm người để cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công trình cứu độ đựơc khởi đầu cách âm thầm, giản dị tại một làng quê nghèo, với một thôn nữ bình thường chẳng mấy người biết tới.
Sứ Thần đến Nazareth và cung kính thưa với người nữ ấy rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (Thông điệp: Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Trước lời cầu ngỏ của thần sứ, Mẹ đã thưa: “Xin vâng – Fiat”. “Xin hãy thực hiện nơi tôi những điều Chúa muốn”. Mẹ hoàn toàn tự do để lựa chọn giữa việc chấp thuận hay chối từ nhưng sự từ chối đã không xảy ra. Lời thưa xin vâng của mẹ có một ý nghĩa sâu xa mà Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn vào đó như một quy chuẩn căn bản để thực hiện sự khiêm tốn nội tâm. Khiêm nhường ở đây không phải chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản như trong xã hội hiện nay người ta vẫn hay đề cao.
Ta thấy nền tảng của sự khiêm tốn nơi mẹ chính là sự tự hư vô hóa chính mình để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm ngự. Mẹ thuộc trọn về Chúa, không còn giữ lại chút gì cho mình và đãhoàn toàn để cho Thiên Chúa điều hướng. Cha Tennyson, một nhà tu đức đã nói: “Khiêm nhường là căn rễ của mọi nhân đức, là cửa ngõ đưa dẫn đến sự hoàn thiện”. Thánh Phêrô trong thư thứ nhất của Ngài cũng đã dạy chúng ta: “Anh em hãy trang điểm mình bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho ai sống khiêm nhường” (1P5,5).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9, 12. 16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Việc Thánh Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Chúa Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có “Thiên Chúa hiện diện ” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài.
Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria ; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”.
Khi so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường quả quyết rằng : “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống”. Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình : “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ.
Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân. Một lời thật ngắn nhưng âm vang cả đời. Một lời vừa biểu lộ sự hiến dâng cộng tác tích cực, vừa thể hiện niềm yêu mến tin tưởng phó thác. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23).
Trong lĩnh vực tôn giáo, “Đức Vâng Lời” lại còn quan trọng hơn gấp bội phần. Đức vâng lời được thể hiện qua việc lắng nghe tiếng Chúa. Tiếng Chúa qua Lời Chúa và các giới răn. Thực hành lời Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa một cách trọn vẹn là chúng ta đang giữ nhân đức vâng lời.
Đức vâng lời còn được thể hiện qua việc vâng nghe sự dạy bảo của các vị bề trên coi sóc linh hồn chúng ta. Đó có thể là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục hay cha mẹ anh chị của chúng ta. Đối với các cộng đoàn dòng tu, vâng lời các vị bề trên không chỉ là nhân đức mà còn thực hiện một trong ba lời khấn.
Việc tuân giữ đức vâng lời không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là khi không hiểu ý bề trên (như trường hợp của Đức Mẹ) hay khi sự vâng lời đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận hy sinh, thậm chí là phải đổ máu (như trường hợp các thánh tử đạo). Vì vậy, chúng ta cần phải cố gắng luôn và trong mọi hoàn cảnh hãy thưa với Thiên Chúa như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu : “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria, nhân loại đã bước sang một trang sử mới là trang sử Cứu Thế. Ngày hôm nay, để viết lên những trang sử đẹp, rất cần nhiều tiếng thưa xin vâng trong gia đình, Giáo Hội và xã hội. Xin Chúa giúp mọi người chúng ta biết noi gương Mẹ, chấp nhận hy sinh để luôn thưa xin vâng trong những điều đẹp ý Chúa. Amen.