2021
ÂM THẦM LẶNG LẼ PHỤC VỤ
26 17 Tr Thứ Hai Tuần XVII Thường Niên.
Thánh Gio-a-kim và thánh An-na, song thân Đức Trinh nữ Ma-ri-a, lễ nhớ.
Chân phúc An-rê Phú Yên, Thầy giảng (U1644) Tử đạo.
Xh 32,15-24.30-34; Mt 13,31-35.
ÂM THẦM LẶNG LẼ PHỤC VỤ
Trong Kinh Thánh, các thánh sử Matthêu và Luca cung cấp cho chúng ta phả hệ của Ðức Giêsu. Các ngài đi ngược trở về tổ tiên dòng họ của Người chỉ để chứng minh rằng Ðức Giêsu là cực điểm của các lời hứa trọng đại. Nhưng bên ngoại của Ðức Giêsu thì bị lang qun, chúng ta không có một dữ kiện gì về các đấng sinh thành ra Ðức Maria. Ngay cả thánh Gioankim và Anna cũng xuất phát từ một truyền thuyết được viết lại sau khi Ðức Gisu về trời khoảng hơn một thế kỷ.
Tuy nhiên, đức tính anh hùng và thánh thiện của các ngài được suy đoán từ bầu khí của toàn thể gia tộc Ðức Maria. Chúng ta dựa trên truyền thuyết về thời kỳ thơ ấu của Ðức Maria hoặc suy đoán từ các dữ kiện trong Phúc Âm, Ðức Maria là một thể hiện của biết bao thế hệ những người siêng năng cầu nguyện mà chính ngài là một người đắm chìm trong cc truyền thống đạo đức của người Do Thái.
Các đức tính nổi bật của Ðức Maria khi ngài thi hành các quyết định, khi liên lỉ cầu nguyện, khi trung thành với quy luật tôn giáo, khi bình tĩnh trước những khủng hoảng và khi tận tâm với người bà con – tất cả những điều này cho thấy một gia tộc khắng khít, yêu thương nhau biết nhìn đến các thệ hệ tương lai trong khi vẫn duy trì truyền thống tốt đẹp của quá khứ.
Thánh Gioankim vá Thánh Anna, dù những tên tuổi này có thật hay không; đã đại diện cho một chuỗi thế hệ của những người trung tín thi hành bổn phận, kiên trì sống đức tin để tạo nên một bầu khí thuận tiện cho sự giáng trần của Ðấng Thin Sai, nhưng họ vẫn âm thầm không ai biết đến.
Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ kính thánh Gioakim và thánh Anna, Song Thân của Đức Maria hôm nay, Chúa Giêsu nói:
Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. (c. 16)
Trong bối cảnh phụng vụ, lời này của Chúa Giêsu được ứng nghiệm cho đôi mắt và đôi tai của “ông bà ngoại” của Người, nghĩa là của thánh Gioakim và của thánh Anna. Tuy nhiên, lời này của Chúa Giêsu cũng liên quan đến đôi mắt và đôi tai của chúng ta.
Thực vậy, qua kinh nghiệm cuộc sống, nhất là khi chúng ta có dịp đến phục vụ những người tàn tật, những người mù, những người câm điếc, chúng ta mới nhận ra rằng sự kiện chúng ta thấy được và nghe được, là một ơn huệ; và khi nhận ra đôi mắt và đôi tai của chúng ta là một ơn huệ, chúng ta được mời gọi nhận ra Đấng ban ơn để tạ ơn và ca tụng, và chia sẻ ơn huệ mà chúng ta có cho người khác, nhất là cho những người tàn tật, không có cùng một ơn huệ như chúng ta.
Tuy nhiên, ngay trước đó, Chúa Giêsu còn nói tới một bệnh mù khác, một bệnh điếc khác: “họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe, không hiểu” (c. 13). Như thế, mối phúc mà Chúa Giêsu nói tới, không chỉ là khả năng thể lý nhìn thấy sự vật và nghe được âm thanh.
Thật vậy, đôi mắt của chúng ta được dựng nên, có “ơn gọi” không phải là nhìn thấy những điều hữu hình, nhưng qua những điều hữu hình, nhận ra những thực tại vô hình. Thực vậy, chúng ta được mời gọi nhìn thấy sự vật không chỉ như là sự vật, nhưng còn là những quà tặng, những ơn huệ, những dấu chỉ, nói lên sự hiện diện của ai đó, của tình thương, nói lên Đấng ban ơn, nói lên chính Đấng tạo dựng.
Và nhất là khi nhìn thấy một người, đôi mắt của chúng ta không được dừng lại ở vẻ bề ngoài, ở ngoại hình, ở trang phục, không được coi người người này là đối tượng để mình thỏa mãn nhu cầu, thỏa mãn lòng ham muốn; nhưng đôi mắt của chúng ta được mời gọi nhìn người khác trong sự thật, nghĩa là người đó là một ngôi vị tự do và có lòng ước ao, có ơn gọi riêng, có quá khứ và những vấn đề riêng, có hành trình riêng cần tôn trọng; nếu sự thật là người ấy có những hành vi phạm lỗi đáng lên án, thì chúng ta được mời gọi nhận ra một sự thật khác lớn hơn: người ấy còn là một ngôi vị bất hạnh đang đau khổ, và có khi người này ở trong bất hạnh mà không biết. Đó cái nhìn của Người Cha nhân hậu đối với người con hoang đàng, đó là cái nhìn của Chúa Giêsu về người phụ nữ ngoại tình, đó là cái nhìn của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người chúng ta, với từng người chúng ta.
Đôi mắt của thánh Gioakim và thánh Anna, đôi mắt của các môn đệ và đôi mắt của chúng ta thật là có phúc, như Chúa Giêsu nói: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy”, bởi vì chúng ta được ơn nhận biết Chúa Giêsu Nazareth là Đức Kitô, Con Thiên Hằng Sống và Ngôi Lời nhập thể. Đôi mắt có phúc là đôi mắt nhận biết Đức Giêsu Kitô; và đôi mắt nhận biết Chúa Giêsu Kitô là đôi mắt sống đúng với ơn gọi của mình.
Cũng vậy đối với đôi tai của chúng ta: đôi tai của chúng ta được ban cho, có ơn gọi không phải là nghe tiếng động hay âm thanh, nhưng là nghe ra sự hài hòa của âm thanh, nghe được giai điệu, kết cấu của âm thanh, truyền đạt cho chúng ta một ý nghĩa, một sứ điệp, truyền đạt cho chúng ta Ngôi Lời, bởi vì “Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 3 và St 1) : Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. (Tv 19, 2).
Thế mà ý nghĩa và sứ điệp, được tạo ra bởi sự liên kết hài hòa theo qui luật giữa các âm thanh, thì hoàn toàn thinh lặng, không có tiếng động. Thiên Chúa nói với con người qua rất nhiều lời nói: lời trong Kinh Thánh, lời từ các chứng nhân của Thiên Chúa, nhưng chính Đức Giêsu Nazareth, Ngôi Lời Thiên Chúa làm nên sự hợp nhất của những lời nói cụ thể này. Như thế, Ngôi Lời không làm cho bất cứ đôi tai nào rung lên, Ngôi Lời chỉ được thốt lên và chỉ được nghe trong thinh lặng.
Thánh Phao-lô trong thư gởi Tín Hữu Roma đã trích Tv 19, nhưng một cách rất lạ lùng. Bởi vì, đối với thánh nhân “Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.” (Tv 19, 5) không là gì khác hơn là việc rao giảng Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô! Thật vậy, ngài đã viết trong thư gởi các tín hữu Roma:
Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe giảng? Có chứ! “Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Rm 10, 17-18)
Theo thánh Phao-lô, sứ điệp của công trình tạo dựng và sứ điệp của các tác viên Tin Mừng là cùng một sứ điệp, đó là sứ điệp “Đức Giê-su Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa”. Như thế, điều mà thánh Phaolô cảm nhận thì thật là lạ lùng! Trình thuật, lời công bố và sứ điệp, vốn là lời sáng tạo như là chúng ta nghe được trong sự thinh lặng của Ngôi Lời, nay bỗng dưng vang vọng trong miệng của thánh nhân, cũng như trong miệng của mọi tác viên loan báo Tin Mừng, trong đó có chúng ta hôm nay.
Như thế, nếu chúng ta nghe ra sứ điệp được truyền đạt “ngày này cho ngày kia” và “đêm này cho đêm kia” kể từ khởi nguyên của thế giới sáng tạo, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp Tin Mừng của Đức Giê-su Ki-tô. Và ngược lại, nếu chúng ta đón nhận sứ điệp Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta sẽ nghe được sứ điệp của ngày và đêm
Hôm nay, khi ngắm nhìn và lặng thầm, trong sâu lắng ta thấy cuộc đời các ngài thật âm thầm đến mức không ai biết đến, cũng như bao người đã đến trong đời rồi đi. Nhưng nhờ sự nổi danh của người con là Đức Maria mà tên tuồi của các ngài lại được nêu bật. Thật đúng như câu nói: “con nhà tông không giống lông thì giống cánh”, có nghĩa là một Đức Maria thánh thiện thì phụ mẫu Gioakim và Anna sinh ra ngài cũng rất đạo đức, đáng được nêu danh cho bao người noi theo.
Sự âm thầm có khi lại có giá trị rất quan trọng đến mức không thể không có. Có các ngài thì mới có Đức Maria. Các ngài có đạo đức thì mới có một Maria thánh thiện. Cũng như phải có những chuyên gia làm sân cỏ âm thầm chăm sóc hằng năm sân bãi, thì các cuộc thi đấu bóng mới được diễn ra tốt đẹp đúng hạn kỳ.
2021
Cỏ Lùng và Lúa
24 15 X Thứ Bảy Tuần XVI Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
(Tr) Thánh Sa-ben Mac-lup (Sharbel Makhluf), Linh mục.
Thánh Giu-se Phê-nan-đet Hiền (Joseph Fernandez), Linh mục (U1838), Tử đạo.
Xh 24,3-8; Mt 13,24-30.
Cỏ Lùng và Lúa
Những ai đã từng biết về nghề nông, hoặc giả biết sơ về việc gieo trồng cây, cũng đều không muốn cỏ dại mọc chen vào cây mà mình đã gieo trồng. Nhất là giống cây ấy là cây lúa, khi được trồng luôn phải được chăm sóc kỹ lưỡng thì mới mong lúa phát triển tươi tốt và được mùa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Mat-thêu kể lại Chúa Giê-su đã dùng dụ ngôn về nước Trời và Ngài đã dùng hình ảnh rất gần gũi với dân chúng là cây lúa và cỏ lùng trong cùng một thửa ruộng. Cây lúa là cây sinh ra lợi ích cho loài người, mang tính tượng trưng cho người lương thiện. Còn cỏ lùng, một loài cây cũng có dáng dấp và sự tăng trưởng tương tự cây lúa.
Chúng chỉ khác đi là không những không sinh hoa trái có lợi cho con người, mà còn làm tổn hại cây lúa xung quanh nó. Một hình ảnh mới nghe qua thì hầu như ai cũng có thể nghĩ ngay đến việc người thợ sẽ phải tức khắc bỏ công ra tìm cách dọn nhổ loài cỏ ấy trong đám ruộng của mình.
Thiên Chúa toàn Chân toàn Thiện toàn Mỹ, đã tạo dựng ra loài người và khởi đầu con người là sự tốt đẹp. Ngài để cho con người tự do trong cuộc sống. Tâm tính của mỗi người phát triển theo tâm sinh lý và môi trường chung quanh cùng với thời gian. Các tâm hồn ấy là những mảnh ruộng chờ sinh lợi hoa trái. Nhưng theo dòng đời trong tâm hồn có thể bị biến đổi, bị biến dạng bởi những điều xấu, như cây lúa tốt lành đã được gieo trồng bị giống cây cỏ lùng chen lấn.Thế nên, trong xã hội có những người có tâm tính tốt lành, nhưng đồng thời có những kẻ thâm hiểm, độc ác.
Mặt khác, trong lời thuật dụ ngôn Thánh Mat-thêu cho thấy, cỏ lùng được gieo trong lúc mọi người đang ngủ, điều này nhắc nhở chúng ta luôn cần khiêm nhường nhìn lại mình, vì sự chủ quan của mình không dễ gì nhận ra khiếm khuyết của bản thân, hoặc có nhận ra, thì lại tìm những lý lẽ tự bào chữa, quên đi mảnh ruộng tâm hồn mình đã dần nhiều cỏ hơn lúa.
Về khía cạnh giáo dục cũng thế, các bậc phụ huynh, bấy lâu nay có quan tâm chặt chẽ đến các trẻ thơ, thiếu nhi ? Đấy là những mảnh đất màu mỡ mà những điều xấu xa luôn được lén lút gieo trồng và phát triển nếu cha mẹ lơ đãng, kém tỉnh táo thì hậu quả thật khôn lường.
Dụ ngôn cũng cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa kiên nhẫn đợi cho đến ngày tận thế phân loại lúa và cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn chờ mong những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa rộng lượng tha thứ không nỡ trừng phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày hoán cải nên tốt. Nếu như lời người đầy tớ trong Phúc Âm, điển hình cho tâm lý chung của loài người, nói thì Chúa trừng phạt ngay những kẻ xấu, còn đâu Kẻ trộm lành, các thánh như Ma-đa-lê-na, Au-gut-ti-nô, …và ngay cả chính ta, có thể cũng không thoát khỏi sự trừng phạt do cái xấu còn tồn tại, do cỏ lùng nhiều hơn lúa trong ta.
Dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự tốt lành để ta hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa nhân lành. Có những sự dữ để ta không phán xét anh em nhưng là để khiêm nhu nhìn lại chính mình, cần ta “thật sự cải thiện lối sống và hành động” như trong bài đọc 1, tiên tri Giê-rê-mia .Chỉ có tình yêu mãnh liệt mới làm Chúa kiên nhẫn chờ đợi sự đổi thay nơi tâm hồn thay đổi từ sự lành ra sự dữ. Chúa không vội trừng phạt vì sự không đón tiếp khi đi qua làng Sa-ma-ri-a như lòng mong muốn nóng nảy của Gioan và Gia cô bê. Chúa không ngoảnh mặt với một Phê-rô chối từ Ngài. Nhưng Ngài trông đợi thật sự cải thiện lối sống và hành động.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn cỏ lùn để dạy chúng ta về tình thương và sự nhẫn nại của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi. Qua đó, Ngài muốn cảnh báo chúng ta, chính Thiên Chúa mới là Đấng phán công lượng tội nhân loại. Nhưng con người hay lầm lẫn bởi tính hay so đo, xét đoán và khắc khe với anh em. Nhưng Thiên Chúa luôn nhẫn nại, Ngài không phán xét ai trong hiện tại vì Ngài tin sự bíên đổi của con người trong tương lai. Không có vị thánh nào không có quá khứ, cũng không có tội nhân nào mà chẳng có tương lai. Hôm nay, anh là tội nhân. Ngày mai, anh có thể là một vị thánh và ngược lại. Nên chúng ta đừng vội ngủ mê trong tính tự phụ không nỗ lực sửa mình để kẻ thù thừa cơ lợi dụng. Hãy tận dụng phút giây hiện tại để vun đắp đức tin, tăng cường đức mến và uốn nắn đời sống để không hổ thẹn khi gặp Chúa trong giờ phán xét.
Chúa dạy chúng ta bài học yêu thương.“Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em”.(Ga 13, 34) Chúng ta hãy tập yêu thương mọi người, nhất là những người đang sống xung quanh chúng ta, cố gắng nghĩ tốt về họ, nói tốt về họ, tập quên đi những sai sót của họ như Chúa Giê-su yêu thương chúng ta. Nước Trời chỉ dành cho những người biết chiếm lấy bằng sức mạnh từ Thiên Chúa. Sức mạnh đó chính là sự kiên nhẫn, tha thứ, yêu thương, chờ đợi . . .để chúng ta đủ kiên nhẫn để chịu đựng những đau khổ mà người ác tâm gây ra cho mình. Chúng ta cần mặc lấy tâm tình yêu thương và cứu độ của Đức Giêsu : «Tôi đến không phải để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi». (Mt 9,13). Chúng ta có yêu thương họ thì mới giúp họ được và có khả năng sống với cả những người khác ý với mình.
Giáo Hội vốn không phải là một xã hội hoàn hảo. Giáo Hội tự bản chất là thánh thiện, nhưng lại gồm những con người tội lỗi, đó là ý nghĩa của dụ ngôn mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay. Chúng ta có một Giáo Hội gồm nhiều vị thánh, nhưng cũng có vô số tội nhân. Những tội nhân vẫn có thể trở thành các thánh trong giây phút, còn các vị thánh thì trở nên thánh thiện hơn; các tội nhân cần sự tha thứ của chúng ta; còn các thánh thì khơi dậy sự cảm phục và quyết tâm cải hóa của chúng ta. Người Pháp thường nói: “Ðể hiểu mọi sự, thì cần phải tha thứ mọi sự”. Chúng ta luôn được mời gọi để nhìn Giáo Hội như một đoàn người đang lữ hành, trong đoàn người này, có người đang cố gắng tiến đến gần Chúa, có kẻ lại xa rời Ngài.
Làm người Kitô hữu chính là nhập cuộc vào đoàn người lữ hành ấy với cố gắng, với thiện cảm và nhất là với cảm thông. Những kẻ cuồng tín cũng giống như một vụ cháy rừng. Lửa bốc cháy và tiêu diệt cả những mầm non: lửa cần thiết cho cuộc sống, nhưng lửa cần phải được làm chủ và sử dụng vào mục đích. Yêu mến Giáo Hội là luôn thức tỉnh để nhận ra những tiêu cực và tệ đoan trong Giáo Hội. Ðó là sự thức tỉnh của thánh Phanxicô Assisiô thời Trung cổ.
Thế nhưng, con đường canh tân mà thánh nhân đã chọn không phải là nổi loạn hoặc lìa bỏ Giáo Hội, mà là canh tân chính bản thân bằng cuộc sống hy sinh, từ bỏ, và nhất là cảm thông. Ðó là cách thế tốt nhất để đương đầu với cỏ lùng chen lẫn lúa tốt trong cánh đồng Giáo Hội.
2021
Lạc quan
23 14 X Thứ Sáu Tuần XVI Thường Niên.
(Tr) Thánh Bi-git-ta, Nữ tu.
Xh 20,1-17; Mt 13,18-23.
Lạc quan
Người phụ nữ kính sợ Chúa sẽ được ca tụng, con cái bà khen ngợi bà diễm phúc, và chồng bà cũng ca tụng bà (Cn 31.30.28 ). Thánh nữ Brigitta là một góa phụ đã sống hết mình vì Chúa Kitô. Người đã dưỡng dục, giáo huấn tám người con luôn biết sống theo giới luật của Chúa và tuân theo ý của Ngài.
Thánh Brigitta sinh năm 1303 tại Thụy Điển trong một gia đình có thế giá và rất bậc đạo đức. Được đào tạo trong bầu khí thánh thiện, đạo đức, thánh nhân sớm cảm nghiệm tình thương của Chúa: Ngài ham thích, say mê chiêm ngắm và suy nghĩ về cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Lớn lên, vâng lệnh song thân, thánh nữ kết hôn với quận công miền Névécie, tên Ulf Gusmarsson. Thánh nhân đã sống đời gương mẫu bằng lời nói, bằng lời cầu nguyện, Ngài đã khôn ngoan, khéo léo lôi cuốn người chồng sống tột đỉnh các nhân đức. Thánh nhân cũng là người mẹ rất đạo đức khôn ngoan đã giúp đỡ, giáo dục đoàn con luôn biết yêu thương kẻ khó nghèo. Chồng của thánh Brigitta vào dòng Citeaux và chết ít lâu sau đó, thánh nhân đã bắt đầu sống đời sống rất khắc khổ vào năm 1344.
Thánh nhân được Thiên Chúa yêu thương, đã sống một cuộc đời rất khó nghèo, Thiên Chúa đã mạc khải vén lộ cho Ngài rất nhiều điều bí nhiệm. Thánh nhân đã lập một dòng ở Vadsténa theo luật dòng Saint-Sauveur. Thánh Brigitta đã hành hương Roma và trở về thì Ngài mắc một chứng bệnh nan y. Năm 1373 sau một năm vật lộn với bạo bệnh, thánh nhân đã trút hơi thở cuối cùn và trở về với chúa trong an bình.
Sau thời gian sống hết mình vì Chúa, Ngài đã được Thiên Chúa yêu thương làm nhiều phép lạ qua bàn tay của Ngài. Thánh Bônifaciô IX đã nâng Ngài lên bậc hiển thánh vào ngày 7 tháng 10 năm 1391. Lạy Thiên Chúa từi bi nhân hậu, Chúa đã tỏ cho thánh Brigitta những bí nhiệm cao sâu trên trời khi thánh nữ suy niệm cuộc khổ nạn của Đức Kitô con Chúa. Xin cho chúng con d9ượic vui mừng hoan hỷ trong ngày Đức Kitô ngự đến vinh quang (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Brigitta, nữ tu).
Nếu nói theo nhãn quan của những người canh tác ruộng nương thì người đi gieo hạt giống trong dụ ngôn hôm nay là một người làm ruộng nghiệp dư. Bởi lẽ chẳng nông dân trần thế nào lại muốn tốn hạt giống, để liều lĩnh gieo hạt vào những nơi xem ra không thể mang lại kết quả khả quan được! Gieo bên vệ đường, gieo nơi sỏi đá, gieo vào bụi gai thì làm sao hạt giống có thể phát triển mà sinh bông kết trái được?
Nhưng. Khi bước qua lãnh vực tâm linh mà nhìn nhận thì chúng ta thấy Chúa quả là Người gieo giống rất hào phóng, nhân lành và lòng đầy tình thương. Thật vậy. Lời Chúa là hạt giống đã được Đức Giê su gieo vào thế gian cho mọi người, không phân biệt màu da, sắc tộc, không phân biệt ngôn ngữ, văn hóa…Nhưng hạt giống ấy có phát triển và sinh hoa kết quả được hay không lại là do thái độ cũng như tâm tình của người lãnh nhận.
Lời Chúa hôm nay là dịp để chúng ta nhìn lại bản thân mình. Để xác định xem mình là loại thuở đất nào khi hạt giống Lời Chúa được gieo vào? Vệ đường, sỏi đá hay bụi gai?
Đích thân Chúa Giê-su giải thích rằng hạt giống trong dụ ngôn chính là Lời Chúa, hạt giống Lời Chúa. Hẳn rằng mọi hạt giống này đều có phẩm chất tốt, có sức ban sự sống, được gieo cùng thời điểm và từ một người gieo là Chúa Giê-su. Nhưng kết quả thì khác nhau: hạt thì bị quỷ dữ lấy đi, hạt thì khô héo ở trên đá sỏi, hạt thì chết nghẹt trong bụi gai; chỉ có những hạt rơi vào đất tốt thì sinh hoa kết quả đáng mừng. Dụ ngôn ngầm ý rằng kết quả khác biệt như thế là do từng loại đất, nghĩa là do điều kiện tâm hồn, do cách thế đón nhận Lời Chúa của từng người khác nhau.
Lời Chúa ban sự sống, sức mạnh cho những tâm hồn biết rộng mở và đón nhận. Và Lời Chúa sẽ vô ích cho những tâm hồn chai cứng, sỏi đá, nông cạn… Nơi mỗi người nếu như có nhiều những gai góc bóp nghẹt, sỏi đá cằn khô thì làm sao Lời Chúa sinh trưởng được. Trong thế giới này có quá nhiều sỏi đá làm bóp nghẹt sự sống con người: phá thai, tham nhũng, giết người,… khiến cho nhiều người không thể kiềm chế bản thân dẫn đến những đam mê bất chính, tội lỗi, trụy lạc…
Bổn phận của những Kitô hữu chúng ta cần biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và cầu nguyện không ngừng để ma quỷ không cướp mất Lời đã được gieo vào lòng mỗi người.
Chúa Giêsu dường như muốn gieo chính niềm lạc quan ấy vào tâm hồn các môn đệ khi đưa ra dụ ngôn người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá sỏi, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng kết quả của mùa gặt vẫn gấp trăm, gấp ngàn. Qua muôn thế hệ, hạt giống Nước Trời vẫn được gieo vãi: có hạt rơi vào vệ đường, sỏi đá, bụi gai của những chống đối và bách hại, hạt giống ấy vẫn nẩy mầm tươi tốt sinh nhiều bông hạt. Người môn đệ Chúa Giêsu luôn tiếp tục gieo vãi hạt giống Lời Chúa, họ luôn được mời gọi đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa và kiên trì, dù thành công hay thất bại. Trong thư 1Cor. thánh Phaolô đã diễn tả đúng tinh thần lạc quan và kiên trì của người gieo giống: “Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng Thiên Chúa cho mọc lên”.
Vệ đường, sỏi đá, bụi gai vẫn tiếp tục cản trở công việc gieo trồng, nhưng người nông dân của Nước Trời không vì thế mà bỏ cuộc. Có những gieo vãi qui mô ồ ạt, nhưng cũng có những gieo vãi âm thầm: âm thầm trong thinh lặng hằng ngày, âm thầm trong những khước từ, âm thầm trong những bách hại dưới mọi hình thức, nhưng đó vẫn là sự âm thầm cơ bản nhất trong bất cứ sự gieo vãi nào, hay nói theo Ðức Phaolô VI trong Tông huấn Loan Báo Tin Mừng: đó là một sự công bố thinh lặng Tin Mừng, nhưng rất hiệu nghiệm.
2021
LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH
22 13 Tr Thứ Năm Tuần XVI Thường Niên.
THÁNH MA-RI-A MA-ĐA-LÊ-NA, lễ kính.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Dc 3,1-4a (hoặc 2Cr 5,14-17); Ga 20,1-2.11-18.
a
LOAN BÁO TIN MỪNG PHỤC SINH
Maria Mađalêna hay còn gọi là Maria. Sau khi được Chúa trừ cho khỏi bảy quỷ, ngài đã theo Chúa trên hành trình đi rao giảng (x. Mc 16,9; Lc 8,1-3) Thánh nhân là nhân chứng đầu tiên của biến cố Đức Giêsu phục sinh (x. Ga 20,1-18) kể lại những gì Chúa nói với ngài (x. Ga 20,18). Ngài đặt cho tước hiệu Apostolorum Apostola – Tông đồ của các Tông đồ. Vì ngài đã báo tin Chúa sống lại cho các Tông đồ, và các Tông đồ lại loan tin ấy cho toàn thế giới.
Maria Mađalêna, hay “Maria Mácđala”, người được Ðức Kitô chữa khỏi bảy quỷ (Lc 8,1-3). Maria Mađalêna bị “nhận diện sai lầm” trong 20 thế kỷ vì người ta cho rằng cô là người phụ nữ tội lỗi đã lấy nước mắt rửa chân Ðức Giêsu (x. Lc 7,36-50). Và người ta cũng lầm lẫn Maria Mađalêna với Maria thành Bêtania, em của Martha. Ba người tên Maria (Ngoài Đức Maria – Mẹ của Chúa Giêsu) mà Tân ước đề cập là ba nhân vật khác nhau.
Hẳn mọi người còn nhớ vào năm 1969, trong triều đại giáo hoàng của Chân phước Phaolô VI, Tòa Thánh không phê bình về nhận xét của Thánh GH Grêgôriô Cả, mà chỉ bỏ điều đó bằng cách tách biệt người phụ nữ tội lỗi trong Phúc Âm theo Thánh Luca với bà Maria ở Bêthania và Maria Mađalêna qua Sách lễ Rôma.
Do đó, tai tiếng vẫn cứ “lờn vờn” bị gán cho Thánh Maria Mađalêna. Sau thời gian quá lâu, cách tin này trở thành “thâm căn cố đế” không chỉ trong Giáo hội Tây phương mà còn trong một số Giáo hội Tin lành đã từng theo truyền thống Công giáo Rôma. Cách hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là cô-gái-điếm-sám-hối vẫn được nhiều văn sĩ và họa sĩ hồi thập niên 1990.
Thậm chí ngay cả ngày nay, cách hiểu sai đó vẫn được truyền bá. Điều đó được phản ánh trong bộ phim của Martin Scorsese – phỏng theo tiểu thuyết “Cơn Cám Dỗ Cuối Cùng của Đức Kitô” (The Last Temptation of Christ) của Nikos Kazantzakis, trong phim “Phúc Âm theo Chúa Giêsu Kitô” (The Gospel According to Jesus Christ) của José Saramago, trong “Siêu Sao Giêsu Kitô” của Andrew Lloyd Webber, trong “Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô” của Mel Gibson, trong “Màu Thập Giá” (Color of the Cross) của Jean-Claude La Marre và trong “Sách Sự Sống” (The Book of Life) của Hal Hartley.
Vì hiểu sai về Thánh Maria Mađalêna là gái điếm nên người ta mới chọn bà làm bổn mạng của “các phụ nữ hư hỏng”, vì có một truyền thuyết lâu đời trong Giáo hội nói rằng bà là người phụ nữ tội lỗi vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu được thuật lại trong Lc 7:36-50, và Viện tế bần Mađalêna đã được thành lập để “cứu vớt” các chị em từ nhà thổ. Bà còn được coi là bổn mạng của những người bị vu khống
Maria Mađalêna là một trong những người đã giúp đỡ Chúa Giêsu và nhóm Mười hai bằng các phương tiện của họ (Lc 8,2-3). Maria Mađalêna là một trong những người đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu với Ðức Mẹ và Gioan tông đồ. Khi táng xác Chúa, Maria Mađalêna và Maria vợ ông Clêôphas đã ngồi trước mộ thánh của Chúa Giêsu. Maria là một trong những nhân chứng “chính thức” đã được chọn để chứng kiến sự Phục sinh và loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh.
Thánh nữ Maria thành Magđala (Mácđala hay Mađalêna) là người được gọi đầu tiên trong số các phụ nữ được Chúa Giêsu chữa bệnh, nay theo và phục vụ Người (Lc 8,2).
Trong Tin Mừng có nói nhiều về những người mang tên Maria, cũng được Chúa chú tâm đặc biệt, ít nhất là có ba người, đó là các bà Maria thành Béthania (miền Giuđê), bà Maria thành Magđala (miền Galilê) và người đàn bà tội lỗi vô danh trong Tin Mừng Thánh Luca (Lc 7).
Phụng vụ Giáo Hội La Mã, kể từ thời Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả, đều coi Maria này là người đàn bà tội lỗi, rửa chân cho Chúa Giêsu (Lc 7,36-50) và là chị của Mátta và Lagiarô (Lc 10,38,50 ; Ga 12,1-8). Thế nhưng khoa Thánh Kinh ngày nay không xác tín điểm này.
Điểm chắc chắn không ai tranh cãi là Maria Magđala đã đứng dưới chân Thánh Giá của Chúa Giêsu (Mc 15,40-41). Bà hiện diện nơi cuộc táng xác Chúa (Mc 15,47) và vào buổi sáng phục Sinh, bà cùng mấy phụ nữ đã đi ra mồ Chúa (Mc 16,1-8). Chính bà là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra và sai đi báo cho các Tông Đồ tin mừng Phục Sinh (Mc 16,9 ; Ga 14-18).
Việc Chúa Giêsu Phục sinh đã biến đổi hẳn ý nghĩa và tình cảm của con người; bà Maria Mađalêna chính là đại diện; trước cái chết: nếu không tin việc Phục sinh, chúng ta đau buồn than khóc trước cái chết của một người thân và tiếc nuối đi tìm thân xác họ, khi đã có niềm tin Phục sinh, chúng ta sẽ không còn than khóc và sẽ không tìm người sống nơi kẻ chết nữa.
Tình cảm của bà đối với Chúa Giêsu rất đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc và cả thế giới này không còn ý nghĩa gì đối với bà nữa: bà không tìm gì khác ngoài xác của Chúa Giêsu, không nhận ra ai khác (các thiên thần, chính Chúa Giêsu mà bà tưởng là người giữ vườn). Khi Chúa gọi tên, bà nhận ra Chúa, sau đó vui mừng chạy đi báo cho mọi người. Tóm lại, đối với Maria Chúa Giêsu là tất cả, mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ, gặp lại Chúa là gặp lại niềm vui.
Maria Mađalêna và các chị em lúc ban đầu đi ra thăm mộ với những bước đi nặng nề, sợ hãi tâm hồn lạnh lẽo đang than thở khóc lóc… bỗng trở nên vui tươi, rạng rỡ vì gặp Ðấng Phục Sinh…
Bà quá vui mừng và muốn giữ Ngài lại cho riêng mình. Nhưng Chúa Giêsu thúc giục bà hãy loan tin Ngài đã phục sinh: “Ðừng giữ Ta lại… hãy đi gặp anh em Ta và hãy báo tin.”…
Theo mệnh lệnh của Đấng Phục sinh, Mađalêna hoan ca reo vui ra đi loan báo cho các môn đệ: Thầy đã sống lại và “Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20,18).
Sứ điệp tin mừng Phục sinh là niềm vui khôn tả nhưng luôn khẩn cấp không thể chần chừ trì hoãn vì Chúa Giêsu đã chết, sự chết làm tiêu tan tất cả và Ngài đã Phục sinh thông ban cuộc sống mới cho chúng ta: Cuộc sống được ra khỏi bóng tối của thế gian và những sự ràng buộc của nó, ra khỏi mùa đông lạnh lẽo đầy sự chết của ngôi mồ biểu tượng quyền bính của thần chết và bước vào ánh sáng của mặt trời công chính vừa bừng dậy sau giấc ngủ của đêm dài, bước trong sự ấm áp của nắng xuân Phục sinh.