2021
THÂN PHẬN NGƯỜI NGÔN SỨ
30 21 X Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên.
(Tr) Thánh Phê-rô Kim Ngôn, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
Lv 23,1.4-11.15-16.27.34b-37; Mt 13,54-58.
THÂN PHẬN NGƯỜI NGÔN SỨ
Thánh Phêrô kim ngôn sinh trưởng tại một thị trấn nhỏ miền Imôla, nước Ý. Ngài sống vào thế kỷ thứ 5. Giám mục Cornêliô thuộc giáo phận Imôla đã dạy dỗ và phong cho Phêrô thừa tác vụ phó tế. Ngay từ nhỏ, Phêrô đã hiểu được rằng người ta chỉ thực sự vĩ đại khi biết mặc lấy tinh thần của Chúa Kitô và làm chủ các đam mê của mình.
Khi đức tổng giám mục Ravenna, nước Ý, qua đời, đức thánh cha Sixtô III đã chỉ định Phêrô lên thay thế ngài. Lúc ấy khoảng năm 433. Với cương vị là linh mục và giám mục, thánh Phêrô đã làm việc rất có hiệu quả. Ngài đã loại bỏ hết các thói tục của dân ngoại vốn tồn tại trong giáo phận suốt nhiều năm qua. Ngài nâng đỡ niềm tin của các Kitô hữu trong giáo phận của ngài.
Thánh Phêrô nổi danh nhờ tài giảng thuyết. Từ ngữ “Chrysologos” có nghĩa là “lời vàng.” Qủa vậy, các bài giảng lễ và các huấn từ của thánh Phêrô thật vắn gọn và súc tích; và sứ điệp của thánh nhân quả thật có giá trị hơn vàng. Thánh Phêrô thuyết giảng với lòng nhiệt thành bốc lửa đến nỗi người ta phải nín thở mỗi khi nghe ngài. Trong các bài giảng của mình, thánh Phêrô khuyến khích mọi người hãy năng đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể hơn. Ngài muốn mọi người nhận thức rằng Mình Thánh Chúa Kitô chính là lương thực hằng ngày nuôi sống linh hồn ta.
Đức tổng giám mục tốt phúc này cũng ra sức hoạt động cho sự hiệp nhất Giáo hội. Ngài đã giúp người ta phân biệt những điều thuộc và không thuộc đức tin Công giáo. Ngài cũng cố gắng gìn giữ hòa bình. Thánh Phêrô kim ngôn qua đời năm 450 tại Imôla, quê hương ngài sinh trưởng. Vì những bài giảng thuyết tuyệt vời kèm theo những giáo huấn rất mực sâu sắc, thánh Phêrô kim ngôn đã được đức thánh cha Bênêđictô XIII tôn nhận là Tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1729. Ngày nay người ta còn giữ lại được khoảng 180 bài giảng thuyết của ngài.
Thánh Phêrô kim ngôn đã rao giảng một sứ điệp đơn sơ dễ hiểu. Chúng ta hãy nên giống ngài qua việc đem Tin mừng của Đức Chúa Giêsu ra thực hành với lòng yêu mến và quảng đại. Đó là sứ điệp mà mọi người sẽ hiểu biết và trân quý.
Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận, hoặc chối từ.
Tin Mừng theoThánh Matthêu thuật lại cho chúng ta biết, sau một thời gian bôn ba khắp nơi giảng dạy và chữa bệnh cho thiên hạ, hôm nay Chúa Giêsu cùng các môn đệ trở về quê nhà Nagiarét với hy vọng giúp ích được gì cho những người thân vì Người không muốn cảnh “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”. Thế nhưng Người đã thất vọng ê chề vì thái độ khinh miệt và cứng lòng tin của người dân địa phương. Lửa nhiệt tình nơi Chúa đã bị dập bởi một gáo nước lạnh và Người không ra khỏi vòng cương tỏa của con người với quan niệm “Bụt nhà không thiêng”.
Họ tra hỏi về nguồn gốc thân thế gia đình, anh em họ hàng của Chúa Giêsu. Họ tự đặt câu hỏi và tự trả lời: “Bởi đâu ông ngày được như thế. Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao?”Sởdĩ Chúa Giêsu không được đón nhận vì gia đình cha mẹ của Người chỉ là dân lao động bình thường chẳng có gì đặc biệt. Điều đó cho thấy họ ngầm phủ nhận thiên tính của Chúa Giêsu.
Khi giảng dạy ở vùng dân ngoại, Chúa Giêsu được nhiều người ngưỡng mộ vì những lời lẽ khôn ngoan và các phép lạ kèm theo. Thế nhưng tại quê nhà, Chúa Giêsu gần như “bó tay” không thể nào làm phép lạ tại đó. Người đã bị thất bại ngay trên “sân nhà”. Số phận của Chúa Giêsu cũng không khác gì những ngôn sứ khi xưa. Người sẽ phải gánh chịu những phản ứng của người đời, bị từ chối, ganh ghét và bị sát hại. Số phận của Chúa Giêsu là số phận của một người Tôi Tớ đau khổ, sẵn sàng gánh chịu mọi sự khinh miệt của con người, nhất là người gần gũi hàng xóm láng giềng và cả những môn đệ thân tín nhất.
Giáo hội, hiện thân của Chúa ở trần gian cũng phải chịu số phận như Chúa. Giáo hội đã nỗ lực rất nhiều với công tác truyền giáo để trở thành dấu của tình thương Thiên Chúa cho nhiều người. Thế nhưng thực tế cho thấy ở những nơi được xem là xứ đạo “gốc”, hạt giống Tin Mừng lại thiếu điều kiện để nảy mầm và đơm bông kết trái.
“Gần chùa gọi bụt bằng anh”, đôi lúc chúng ta cũng có thái độ giống người đồng hương của Chúa Giêsu khi tỏ ra coi thường quyền năng, những ơn lành và tình thương của Thiên Chúa. Không có gì đau đớn bằng sự phản bội của những người thân. Chúng ta có thể trách móc những người đồng hương của Chúa, nhưng chính chúng ta cũng phải đấm ngực ăn năn vì thái độ thờ ơ của chính mình. Hàng ngày Chúa vẫn thi ân giáng phúc, Chúa vẫn bao bọc chở che, vỗ về an ủi nhưng chúng ta không nhận ra những ơn ấy mà chỉ lo chạy theo tiếng gọi của thế gian, của đam mê xác thịt. Chúng ta sống bên cạnh nhau như những người “quen biết xa lạ” để rồi đánh mất ý nghĩa cao quý của mối tương giao huynh đệ với tha nhân, đánh mất niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.
Là môn đệ của Chúa, chúng ta cũng không thể tránh khỏi những phản ứng tiêu cực của người đời,sẽ gặp thất bại, bị bách hại, bắt bớ… Óc địa phương, óc kỳ thị, dửng dưng ích kỷ đã ăn sâu vào tâm thức khiến chúng ta không bỏ được những thói xấu ấy. Thêm nữa nhìn xã hội hôm nay, người ta chuộng “hàng ngoại”, chạy theo những gì là “đẳng cấp”, “kỹ thuật số” làm sao để được hưởng thụ vật chất cho thật nhiều mà quên rằng giá trị đích thực của cuộc sống là tin vào Thiên Chúa. Người ta dễ dàng chạy theo những phong trào, những lối sống “không ngày mai” mà quên rằng nơi Chúa Giêsu mới đem lại niềm hạnh phúc đích thực.
Có thể ở bên ngoài chúng ta không từ chối Chúa nhưng tận sâu trong đáy lòng và ước muốn, chúng ta không còn tin nhận quyền năng và tình thương của Chúa nữa. Nhân loại đang phải đối đầu với một cơn cám dỗ khốc liệt về niềm tin. Ngay trong gia đình cha mẹ và con cái không còn tin tưởng lẫn nhau. Ngoài xã hội đâu đâu cũng nhan nhản những chuyện bất công và những thói xấu cũng đang len lỏi vào cả trong Giáo hội. Với lời Chúa hôm nay, chúng ta không khỏi giật mình. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, hãy tự trách mình trước để có thái độ sống xứng hợp Tin Mừng.
Mỗi người chúng ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu có còn sống động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì quá quen thuộc như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng ta đã trở thành mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin nhận Chúa và không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?
2021
PHỤC VỤ VÀ TIN NHƯ MÁTTA
29 20 Tr Thứ Năm Tuần XVII Thường Niên.
Thánh nữ Mác-ta, lễ nhớ.
Lễ nhớ có bài đọc riêng:
1Ga 4,7-16; Ga 11,19-27 (hoặc Lc 10,38-42).
PHỤC VỤ VÀ TIN NHƯ MÁTTA
Matta đã phục vụ Chúa Giêsu qua các bữa ăn ngon, khi Người đến thăm gia đình Matta. Chúng ta có thể nhận thấy Matta đã phải bận rộn sửa soạn bữa ăn cho Chúa Giêsu và các môn đệ của Người như thế nào. Đến nỗi Matta phải xin Chúa Giêsu nhắc cho cô em Maria phụ giúp mình một tay, vì Maria đang ngồi bên chân Chúa Giêsu mà nghe lời Người: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo em con giúp con với!” Chúa Giêsu rất hài lòng với công việc phục vụ dễ thương của Matta. Tuy vậy, Người muốn cho Matta hiểu rằng việc nghe lời Chúa và cầu nguyện thì có tầm quan trọng hơn.
Chính vì thế, ta thấy Chúa Giêsu đã dịu dàng nói: “Matta, Matta, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện! Chỉ có một chuyện cần mà thôi! Maria em con đã chọn phần tốt nhất!” (Lc 10, 42).
Chúa Giêsu yêu quý Mácta, Maria và Lagiarô.” Câu nói độc nhất này trong Tin Mừng của thánh Gioan cho chúng ta biết về sự tương giao đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Mácta, người em Maria, và Lazarô của Thánh nữ.
Có vẻ như Chúa Giêsu là người khách thường xuyên đến nhà Mácta ở Bêtania, một ngôi làng nhỏ bé cách Giêrusalem chừng hai dặm. Chúng ta thấy ba lần đến thăm của Ðức Giêsu được nhắc đến trong Phúc Âm Luca 10,38-42, Gioan 11,1-53, và Gioan 12,1-9.
Nhiều người dễ nhận ra Mácta qua câu chuyện của thánh Luca. Khi ấy, Mácta chào đón Chúa Giêsu và các môn đệ vào nhà của mình, và ngay sau đó Mácta chuẩn bị cơm nước. Sự hiếu khách là điều rất quan trọng trong vùng Trung Ðông và Mácta là điển hình.
Thử tưởng tượng xem Mácta bực mình biết chừng nào khi cô em Maria không chịu lo giúp chị tiếp khách mà cứ ngồi nghe Chúa Giêsu. Thay vì nói với cô em, Mácta xin Chúa Giêsu can thiệp. Câu trả lời ôn tồn của Chúa Giêsu giúp chúng ta biết Người rất quý mến Mácta. Chúa Giêsu thấy Mácta lo lắng nhiều quá khiến cô không còn thực sự biết đến Người. Chúa Giêsu nhắc cho Mácta biết, chỉ có một điều thực sự quan trọng là lắng nghe Người. Và đó là điều Maria đã làm. Nơi Mácta, chúng ta nhận ra chính chúng ta thường lo lắng và bị sao nhãng bởi những gì của thế gian và quên dành thời giờ cho Chúa Giêsu. Tuy nhiên, thật an ủi khi thấy rằng Chúa Giêsu cũng yêu quý Mácta như Maria.
Lần thăm viếng thứ hai cho thấy Mácta đã thấm nhuần bài học trước. Khi ngài đang than khóc về cái chết của anh mình và nhà đang đầy khách đến chia buồn thì ngài nghe biết Ðức Giêsu đang có mặt ở đấy. Ngay lập tức, ngài bỏ những người khách ấy cũng như gạt đi mọi thương tiếc để chạy đến với Ðức Giêsu.
Cuộc đối thoại của ngài với Chúa Giêsu chứng tỏ đức tin và sự can đảm của ngài. Trong cuộc đối thoại, Mácta khẳng định rõ ràng là ngài tin vào quyền năng của Chúa Giêsu, tin vào sự Phục sinh, và nhất là tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa. Đức Giêsu nói với cô rằng Ngài là sự sống lại và là sự sống và sau đó đã cho Lazarô sống lại từ cõi chết.
Hình ảnh sau cùng của Mácta trong Tin Mừng đã nói lên toàn thể con người của ngài. Lúc ấy, Chúa Giêsu ít lâu sau đã trở lại Bêthania để ăn uống với các bạn thân của Người. Trong căn nhà ấy có ba người đặc biệt. Chúng ta đã từng nghe người em trai Lazarô đã tạo nên cả một sự khuấy động khi anh được làm cho sống lại. Còn Maria là người gây nên cuộc tranh luận trong bữa tiệc khi cô dùng dầu thơm đắt tiền mà xức lên chân Chúa Giêsu. Nhưng về phần Mácta, chúng ta chỉ được nghe một câu rất đơn giản: “Mácta lo hầu hạ.” Cô không nổi bật, cô không thi hành những việc có tính cách phô trương, cô không được hưởng phép lạ kỳ diệu. Cô chỉ đơn thuần hầu hạ Chúa Giêsu.
Chúng ta không biết nhiều hơn về Mácta và những gì xảy ra cho cô sau đó. Theo một truyền thuyết không đáng tin lắm, thì Mácta cùng với Maria đến giảng Tin Mừng tại nước Pháp sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Nhưng thật là tuyệt vời nếu điều quan trọng nhất có thể nói được về chúng ta là “Những người ấy đã phục vụ”? Thánh Mácta được đặt làm quan thầy của các người phục vụ và đầu bếp.
Khi người em là Lazarô chết, Matta và Maria buồn sầu báo tin cho Chúa Giêsu. Giữa những đau khổ thử thách đó, Matta vẫn giữ được bình tĩnh. Matta đã thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Dù rằng em cô là Lazarô đã chết, Matta vẫn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu cách tuyệt đối: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. (Ga 11, 27).
Với niềm tin của Matta, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho Lagiarô sống lại sau khi chôn cất trong mồ đã bốn ngày.
Mừng lễ thánh nữ Matta hôm nay, chúng ta nguyện xin Chúa qua lời cầu bầu của thánh Matta, ban cho chúng ta sống theo mẫu gương của thánh nữ, luôn ân cần đón tiếp Chúa và sẵn sàng hy sinh phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và tha nhân. Đón tiếp Chúa bằng việc lắng nghe lời Chúa, suy gẫm và cầu nguyện. Đón tiếp Chúa Giêsu Thánh Thể để có sự sống của Ngài hun đúc tinh thần tông đồ, nuôi dưỡng đời sống đạo. Đón tiếp Chúa với lòng yêu mến chân thành, sẽ giúp chúng ta được gần bên Chúa, gần gũi tha nhân. Đồng thời, theo gương thánh nữ Matta, chúng ta sống đức tin mạnh mẽ giữa những cơn thử thách của cuộc sống. Nhờ đó, chúng ta cố gắng vượt qua những thử thách hiện tại và hướng đến sự phục sinh vinh quang với Chúa Kitô.
2021
Kho Tàng Quí Giá
28 19 X Thứ Tư Tuần XVII Thường Niên.
Thánh Giu-se Men-ki-o Ga-xi-a Sam-pe-đơ-rô Xuyên (Melchior Garcia Sampedro), Giám mục (U1858), Tử đạo.
Xh 34,29-35; Mt 13,44-46.
Kho Tàng Quí Giá
Có câu chuyện vui như sau: Có hai bố con nọ được nhà vua trao cho một mảnh ruộng để cày cấy mà sinh sống. Một hôm đang cuốc xới trên thửa mộng, ông bô cuốc phải một vật cứng, khi khám phá ra thì đó là một cái cối giã bằng vàng và một cái chày. Ông quyết định đem nộp lại cho nhà vua, vì lòng thật thà và nghĩ rằng ruộng đất này là của nhà vua ban cho. Nhưng cô con gái thì khôn ngoan hơn nói với cha rằng: “Cha đừng nộp cho nhà vua, kẻo nhà vua sẽ đòi cả cái chày nữa”.
Quả thật, đúng như dự tính của cô gái, nhà vua đòi cái chày thì ông trả lời: “Không có, vì chì có bấy nhiêu”. Nhà vua không tin và bắt ông giam vào ngục. Khi nghe biết sự khôn ngoan của cô gái, nhà vua cưới cô làm vợ. Nhưng sống trong một thời gian, không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhà vua nói với hoàng hậu: “Trong 24 giờ nữa cô phải rời khỏi đây và cô có thể mang theo cái gì mà cô thấy quí nhất!”. Cô gái nghĩ dễ thôi, vì là hoàng hậu rồi, nên mới nói với các quan cận thần hầu rượu cho vua uống say rồi lấy vải quấn lại và mang theo về nhà quê.
Tỉnh dậy, nhà vua ngạc nhiên vì không phải mình ở đền vua mà là nhà tranh vách đất nghèo nàn. Nhà vua hỏi tại sao? Hoàng hậu cười đáp: -Vì vua đã cho phép mang cái gì quí nhất thì tôi đã mang theo ông đó.
Đó chỉ là cái khôn ngoan thế gian mà thôi, nhưng luật pháp Chúa mới là sự khôn ngoan của Nước Trời. Hai dụ ngôn ta vừa nghe có cùng một ý nghĩa: Nước Trời rất quý giá nên đáng cho người ta bán tất cả để đổi lấy. Nước Trời quý hơn tất cả, bởi chỉ có Nước Trời mới tồn tại vĩnh viễn, còn mọi giá trị khác, dù là đức vua có quý giá mấy thì rồi cũng sẽ hư mất. Vì “lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì?”.
Trong Tin Mừng hôm nay, với hai dụ ngôn có nội dung gần như nhau, một lần nữa, Chúa Giêsu muốn đề ra cái nghịch lý ấy: vì Nước Trời, con người phải bán đi tất cả, phải chấp nhận mất tất cả. Thế nhưng Nước Trời là gì? Chúa Giêsu xem ra đã không mất giờ và dài dòng trong những lý thuyết khô khan. Với các môn đệ, Ngài nói như một mệnh lệnh: “Hãy theo Ta” và họ đã bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Với người thanh niên giàu có, Ngài mời gọi: “Hãy về bán tất cả tài sản, phân phát cho người nghèo, và trở lại đi theo Ta”.
Hãy đi theo Ngài, vì Ngài là tất cả. Hãy đánh đổi mọi sự để được sống với Ngài. Chúa Giêsu chính là hiện thân của Nước Trời: nơi Ngài, con người tìm được kho tàng quí giá nhất; nơi Ngài, con người được sống và sống sung mãn. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào”. Các môn đệ được kêu gọi trước tiên để sống với Ngài. Ðược sống với Ngài, đi theo Ngài, lấy Ngài làm lẽ sống, đó là nội dung đích thực của tư cách làm môn đệ.
Kitô giáo do đó thiết yếu chính là Chúa Giêsu Kitô. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho Ngài và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sống, để dù khi ăn, dù khi uống, dù làm bất cứ việc gì, luôn luôn tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phấn đấu, mất mát.
Dù sống trong hoàn cảnh nào, bất cứ người môn đệ nào của Chúa Kitô cũng đều cảm nghiệm được lời tiên báo của Ngài: “Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghét bỏ”. Không bị bách hại công khai, thì cũng bị chống đối hay loại trừ, đó là số phận của người Kitô hữu.
Thánh Augustino sau bao phen đam mê lạc thú, nhưng cuối cùng cũng đã phải thốt lên: “Lạy Chúa, linh hồn con khắc khoải sao xuyến cho đến khi con tìm được Chúa”! Và tìm được Chúa như lời thánh Têrêsa Avila nói: -Chỉ có Chúa mới là giá trị tuyệt đối cho mọi cuộc tìm kiếm và một mình Chúa là quá đủ rồi.
Chúa Giêsu khéo léo mượn hình ảnh kho báu và viên ngọc quý, vốn là những gì ai cũng muốn có, để hướng đến một kho báu, một viên ngọc quý giá khác, đó là chính Chúa. Thật vậy, Chúa là kho báu, là viên ngọc quý mà mọi người đều choáng ngợp, và tìm mọi cách “chiếm hữu” cho được. Mọi sự trên trần gian này sánh với Chúa đều vô nghĩa. Các tông đồ đã nhận ra Chúa là tất cả, nên đã sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo. Các tu sĩ cũng vậy, một khi cảm nhận chỗ đứng tất yếu của Chúa trong cuộc đời mình, đã không thể làm gì khác hơn là rũ bỏ mọi sự để hoàn toàn sống cho Chúa, thuộc trọn về Chúa. Đây cũng là cảm nhận của những ai sau một thời gian đánh mất Chúa, lại tìm được Ngài qua ơn trở lại, như thánh Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld…
Cuộc đời chúng ta cần thiết đó là Chúa Giêsu, kho tàng mà chúng ta tìm kiếm đó là Nước Trời. Làm Kitô hữu có nghĩa là chọn Chúa làm gia nghiệp và sẵn sàng đánh đổi tất cả để sống cho và vì Ngài. Làm Kitô hữu có nghĩa là đặt Ngài vào trọng tâm cuộc sông; để dù khi ăn, khi uống, hay làm bất cứ việc gì, luôn để tôn vinh Ngài. Làm Kitô hữu là sống cho Ngài và sống bằng chính sức sống của Ngài, để có thể nói như Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Một cuộc sống như thế chắc chắn đòi hỏi nhiều hy sinh, phân đấu, mất mát.
2021
Bài Học Kiên Nhẫn
27 18 X Thứ Ba Tuần XVII Thường Niên.
Xh 33,7-11;34,5b-9.28; Mt 13,36-43.
Bài Học Kiên Nhẫn
Cứ vào mỗi độ mùa mưa dầm thấm đất, trên những cánh đồng mênh mông đã được cầy xới cẩn thận, nhà nông tay bưng thúng thóc, tay vung hạt vàng vãi đều trên mặt đất sình lầy còn áng lên đầy chất màu mỡ – người ta gọi đó là xạ lúa. Không như những ruộng lúa cấy luôn thẳng tắp thừng hàng, gọn gàng từng khóm, lúa xạ mọc chi chít trên khắp mặt ruộng có khả năng hạn chế cỏ mọc rất nhiều. Tuy nhiên chẳng đồng ruộng nào mà không có cỏ, hoặc ít, hoặc nhiều: cỏ lớn, cỏ bé, cỏ lá dài, cỏ lá tròn, lá đơn, lá kép, rễ cọc, rễ chùm… thôi thì đủ loại, nhưng đáng ngại nhất vẫn là cỏ lùng.
Dụ ngôn về cỏ lùng thoạt tiên gợi lên cho chúng ta một trong những thảm kịch lớn của nhân loại. Ở thời đại nào cũng có những người muốn thanh tẩy xã hội bằng các cuộc sàng lọc không tiếc xót: từ Tần Thủy Hoàng đến Hitler, Pônpốt qua các cuộc chiến hiện nay. Khi người ta muốn loại bỏ cỏ lùng, thì người ta cũng nhổ đi cả cây lúa tốt tươi.
Cỏ lùng có hình dáng chẳng khác gì cây lúa nên dù là nông dân “chính hiệu con nai vàng”, dạn dày kinh nghiệm cũng khó lòng mà phân biệt được. Cỏ cũng phát triển lớn lên, ôm đòng giống hệt cây lúa, và chỉ cho đến lúc trổ bông người ta mới biết được đâu là cỏ, đâu là lúa; nhưng như thế, để không làm tổn hại đến lúa, người ta chỉ còn cách chờ đến mùa gặt – lúa gặt được thì cho vào kho lẫm, còn cỏ thì phải đốt đi.
Trên cánh đồng trần gian, tình trạng cũng không khác mấy, người lành, kẻ xấu cùng sống cạnh nhau trên hành tinh này. Có đủ thứ loại người xấu mà người ta có thể nhận ra rõ ràng vì các hành động và thái độ sống không đẹp của họ; nhưng đáng ngại nhất vẫn là những người xấu mà khoác vẻ bề ngoài tốt lành với những công việc và cách sống rất ư là “đẹp”. Tuy nhiên, sự phá hoại và tội ác tiềm ẩn của họ rất ghê gớm mà khó ai có thể nhận ra; hoặc những hành động ‘đẹp’ của họ lại ẩn chứa những thói kiêu căng, tự mãn, hay nhắm kiếm cho mình một lợi ích cá nhân nào đó lớn hơn…. Vì sự khó nhận ra như thế nên việc xét đoán con người không thuộc thẩm quyền con người mà chỉ ở nơi Thiên Chúa, và điều duy nhất con người nên làm là kiểm điểm chính bản thân mình để loại đi cỏ dại ở nơi chính mình.
Mặt khác, dụ ngôn “cỏ lùng – lúa tốt” mà Đức Giê-su đưa ra trong trình thuật Tin mừng hôm nay nhắm đến một điều còn lớn hơn, đó là lòng từ bi, thương xót, kiên nhẫn, bao dung, quảng đại của Thiên Chúa. Chúng ta thường có khuynh hướng chung là muốn tiêu diệt sự dữ ngay tức khắc: “Sao Chúa không phạt cho nó méo miệng khi nó nói xấu bôi nhọ con trong khi con vô tội!” “cầu cho nó ra đường xe đụng bởi nó độc ác làm hại mọi người!”, hoặc “cái thứ xấu xa như ngữ ấy sống làm gì cho chật đất.”….Và dường như trong những tư tưởng, những mong ước xem ra rất là “hợp lý và tự nhiên” ấy lại tiềm ẩn một tư tưởng báo thù – ‘xin Chúa Trời báo oán!’ Nhưng Thiên Chúa là “Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương. Người không xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lối của ta.” (Tv.) Và tư tưởng của Thiên Chúa thì khác xa với tư tưởng con người.
Vì không như những cánh đồng trần gian, cỏ muôn đời là cỏ mà lúa vạn kiếp vẫn là lúa, nơi cánh đồng tâm linh con người, cỏ vẫn có khả năng cải tạo thành lúa tốt (gương những vị thánh như Maria Ma-đa-lê-na, Phao-lô, Au-gus-ti-nô, Inhaxio…) mà lúa cũng có thể biến thành cỏ dại. Do đó mà Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi, và Người luôn mong chờ nơi cánh đồng của Người một mùa gặt bội thu.
Thiên Chúa đã ban ân sủng cũng như Lời của Người cho con người. Tâm hồn con người như một cánh đồng bao la huyền nhiệm đón nhận ân sủng và hạt giống Lời Chúa. Hạt giống ấy có được phát triển phong nhiêu, sinh nhiều hoa thơm trái tốt hay không là tùy tình trạng của mảnh đất tâm hồn này. Mảnh đất tâm hồn con người có được cày xới, chăm chút bằng sự giáo dục đúng đắn của gia đình, của xã hội và của giáo hội, thì dù ma quỉ có gieo cỏ lùng là những gương xấu, những chủ trương, triết thuyết sai lầm lôi kéo…cũng không thể lấn át được sự phát triển của hạt giống tốt trong tâm hồn.
Vì vậy, mỗi Ki-tô hữu phải được bồi dưỡng, trang bị cho mình những kiến thức thánh kinh, luân lý và giáo huấn của Giáo hội, nuôi dưỡng bằng các bí tích và đời sống cầu nguyện để có một đức tin mạnh mẽ, lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam, làm lẽ sống để lấn át và tiêu diệt cỏ lùng. Đồng thời xin Chúa ban cho chúng ta có được tấm lòng nhân hậu và trái tim đầy tình yêu thương của Chúa, để chúng ta biết mong muốn điều tốt lành nơi anh chị em mình, để chúng ta biết kiên nhẫn, biết thứ tha trước những lỗi lầm, khuyết điểm của tha nhân; và xin cho mỗi Ki-tô hữu là hạt giống tốt, nên như gương sáng, như muối, như men cho đời thêm phong phú đẹp tươi.
Cảm nghiệm sâu sắc về nỗi yếu hèn và khốn khổ của mình, con người mới cảm thấy cần cảm thông, kiên nhẫn và tha thứ cho người khác hơn. Ðó là bài học thực tiễn mà có lẽ mỗi người chúng ta cần đào sâu, đồng thời cầu xin để mỗi ngày chúng ta phát hiện ra những tia sáng tình thương của Chúa và chia sẻ tình yêu với những người xung quanh.
Ta mong muốn “cánh đồng” thân hữu của mình chỉ toàn những “lúa đồng” thuần chủng. Thế nhưng, sớm muộn rồi “cỏ lùng” cũng xuất hiện: một người bạn chơi xấu, một người thân phản bội… Thay vì chua chát, cay đắng hay trở nên tiêu cực, thất vọng, ta được mời gọi nhìn nhận một sự thật: thế giới là tình trạng “vàng thau lẫn lộn,” ánh sáng đan xen với bóng tối, người tốt ở chung với kẻ xấu. Hơn nữa, nếu thành thật với mình, ta cũng phải nhìn nhận ngay trong tâm hồn mình có tình trạng lúa tốt chen lẫn với cỏ lùng, sự trung tín đi liền sự phản bội, các đức tính tốt ở sát bên các nết xấu. Sự thật này dạy ta đừng vội vàng xét đoán, phân loại người khác khi chỉ thấy một phần hay một giai đoạn cuộc sống của nhau.
Dụ ngôn vừa phác họa cho bạn một cuộc sống hiện thực vừa gợi lên tinh thần lạc quan bạn phải có. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi học tính kiên nhẫn và nhân hậu như chính Thiên Chúa, người chủ ruộng của dụ ngôn. Ngài kiên nhẫn chờ đợi đến mùa gặt là ngày chung cuộc mới xét xử người xấu.
Qua dụ ngôn cỏ lùng, có lẽ Chúa Giêsu còn muốn nói đến một thảm kịch khác sâu sắc hơn, đó là thảm kịch của lòng người. Trong đáy thẳm tâm hồn, ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co xâu xé giữa một bên là khả năng hướng thiện và một bên là sức mạnh của tối tăm. Cỏ lùng vẫn cố gắng vươn lên trong cánh đồng tâm hồn chúng ta. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy một cách chính xác khi Ngài nói: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, còn sự ác không muốn thì tôi lại làm”. Sức mạnh của tội ác, của ma quỉ, của sự dữ trong tâm hồn mỗi người chúng ta là một thực tại không thể chối cãi được. Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đã chẳng dạy chúng ta cầu nguyện: Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ đó sao?