2021
Sống Niềm Tin
04 26 Tr Thứ Tư Tuần XVIII Thường Niên.
Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, Linh mục, lễ nhớ.
Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giuse.
Ds 13,1-2.25-14,1.26-29; Mt 15,21-28.
Sống Niềm Tin
Thật ít người có được sự quyết tâm mạnh mẽ để vượt qua các trở ngại và đạt được các kỳ công. Thánh Gioan Maria Vianney (còn được gọi là Cha Sở họ Ars) là một người có quyết tâm: Ngài muốn trở nên một linh mục. Nhưng trở ngại lớn nhất là ngài không có căn bản học vấn cần thiết.
Sau thời gian nhập ngũ và trở lại chủng viện, ngài không hiểu nổi các bài học bằng tiếng Latinh nên bị đuổi ra khỏi trường. Nhờ sự giúp đỡ kiên nhẫn của Cha Balley để dạy riêng ở nhà, sau cùng Gioan được nhận trở lại và được thụ phong linh mục với nhiều cay đắng.
Hầu như chẳng giám mục nào muốn có một linh mục như Gioan, do đó, họ đưa ngài về một giáo xứ hẻo lánh, chỉ có 40 gia đình nhưng có đến 4 quán rượu. Khi ngài đến tỉnh Ars nước Pháp, lúc ấy đã 31 tuổi, hầu như chẳng ai thèm lưu ý. Tỉnh này nổi tiếng là nơi đầy ải các linh mục. Giáo dân thì thờ ơ với việc đạo đức và thoải mái với nếp sống cố hữu của họ.
Không bao lâu họ thấy có những thay đổi. Khi nhìn trộm qua cửa sổ họ thấy cha sở gầy gò ốm yếu cầu nguyện suốt đêm. Có người thấy ngài vất bỏ các bàn ghế đắt tiền và thay chiếc giường nệm êm ấm bằng các khúc gỗ sần sùi. Cũng có người thấy ngài chia sẻ quần áo cho người ăn xin, và chính ngài chỉ ăn có hai củ khoai mỗi ngày. Một vài người tò mò đến nhà thờ nghe giảng, và họ thấy tiếng nói của ngài như xé vào tai nhưng có sức đánh động tâm hồn. Từ tò mò dẫn đến nghi vấn. Có thể nào đây là một linh mục đích thực? Và nhà thờ bắt đầu đông người trở lại.
Cha Gioan đã trở nên một phần tử của cộng đồng nhỏ bé ấy. Mỗi ngày ngài đi thăm các giáo dân và lắng nghe những ưu tư của họ. Ngài không hiểu tiếng Latinh nhưng ngài rất hiểu các nỗi khó khăn của đời sống người dân. Do đó, sau mười hai năm, hầu như mọi người trong tỉnh đều tham dự Thánh Lễ hàng ngày và các nông dân vừa lần chuỗi vừa cầy cấy nơi đồng áng.
Sự thay đổi không phải dễ dàng. Những dèm pha, đàm tiếu, chụp mũ Cha Gioan cũng không thiếu. Ðối phó với những người ấy, ngài chỉ im lặng và nhẫn nhục chịu đựng.
Công việc giải tội là thành quả đáng kể nhất của Cha Gioan. Khi mới chịu chức linh mục, ngài không được phép giải tội vì học lực quá kém. Nhưng ở họ đạo Ars, điều giáo dân lưu tâm là ngài có khả năng thấu suốt linh hồn họ, khuyên bảo họ một cách chân thành với tấm lòng quý mến.
Dân chúng từ khắp Âu Châu đổ về tỉnh nhỏ xíu ấy chỉ để xưng tội. Trong những tháng mùa đông, ngài phải mất từ 11 đến 12 tiếng đồng hồ để đưa người ta về với Thiên Chúa. Trong mùa hè, thời gian giải tội lên đến 16 tiếng. Ðó là chưa kể cảnh giáo dân, vì quá ái mộ ngài nên họ luôn rình rập để cắt áo, cắt tóc và lấy trộm mũ của ngài làm kỷ niệm. Nhưng các điều ấy không tệ hại cho bằng cứ phải nghe những câu chuyện đau lòng trong toà giải tội. Nếu một người không quyết tâm sống ơn gọi linh mục thì không thể nào chịu đựng nổi sự hy sinh bền bỉ như vậy.
Với thân hình mảnh khảnh nhưng gánh nặng quá lớn vì yêu quý các linh hồn, sức khoẻ của ngài ngày càng sa sút. Theo lời khuyên của các bác sĩ, ngài tìm cách trốn khỏi giáo xứ để có chút thời giờ tĩnh dưỡng, nhưng cả xứ biết tin đã tìm cách chặn đường ngài. Bất chấp điều ấy, ngài lên đường trở về quê nhà nhưng cả đoàn người hành hương lại theo ngài đến đó. Biết rằng không thể nào được yên thân, ngài trở về họ đạo.
Ngài từ trần ngày 4 tháng Tám 1859 sau cơn bệnh nặng, hưởng thọ 73 tuổi. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1925 và năm 1929, ngài được đặt làm quan thầy chính thức của các cha xứ.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa”.
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào đức tin của những người bị coi là dân ngoại, để biết tôn trọng đức tin chân thành của họ và còn để rà xét lại đời sống đạo và đức tin của mình. Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội và ân phúc, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi đó là những điều tự nhiên, may mắn, hơn là nhận ra tình yêu thương ban tặng của Chúa. Giống như người Do Thái, chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ của mình, từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không hoán cải đời sống, thì cũng sẽ có ngày người từ đông chí tây được mời vào dự tiệc nước Thiên Chúa, còn chúng ta bị loại ra ngoài.
Kế đến, hãy học nơi tấm gương tin tưởng kiên trì và khiêm tốn của người phụ nữ Canaan hôm nay: đừng bao giờ thất vọng trước sự im lặng của Thiên Chúa. Vì để tôi luyện, thử thách đức tin của chúng ta, đôi khi Chúa dường như im lặng hoặc từ chối lời kêu cầu của chúng ta; nhưng nếu chúng ta cứ kiên trì, cứ nài xin, chắc chắn Chúa sẽ ra tay và cho chúng ta được như sự thỉnh cầu.
Người phụ nữ hôm nay quả là tấm gương cho các bậc làm cha mẹ. Nhiều người, nhiều gia đình đang rơi vào cảnh cùng quẫn, đau khổ vì vợ chồng đau yếu, con cái ngỗ nghịch hư hỏng ; nhiều người đã ngã lòng vì thấy lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời. Họ trách Thiên Chúa: Tôi đi lễ mỗi ngày, đã đi xin khấn ở nhiều nơi mà vẫn chẳng được…
Nhiều người thì xin những người đạo đức, thánh thiện thêm lời kêu khấn cho mình. Đó là điều tốt, thế nhưng đừng quên chính bản thân cần phải hoán cải, cần lắng nghe để nhận ra tiếng nói và sự chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống. Hãy tin tưởng, kiên trì để thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con và gia đình con. Chúa sẽ nghe lời chúng ta.
Nhiều người trẻ vì bị mê hoặc bởi khoa học công nghệ, bị mãnh lực của đồng tiền chiếm trọn cả thời giờ và ưu tư, khiến họ không còn chỗ cho Thiên Chúa. Họ đã để cho đức tin của mình bị mờ nhạt, èo uột khi rời xa gia đình hoặc khi lăn xả vào vòng quay của xã hội. Họ đánh mất thói quen cầu nguyện mỗi ngày, bỏ qua việc xưng tội rước lễ, xa rời với những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ. Những dấu hiệu ấy cho thấy một đức tin đang bị khô héo, mất sức sống. Chúng ta cùng cầu xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, đặc biệt cho những người đang lung lạc đức tin vì thử thách, và xin Chúa giúp chúng ta luôn tin tưởng, cậy trông nơi Chúa dù lúc vui hay lúc buồn, khi thành công hay thất bại. Chúng ta tin rằng, Thiên Chúa luôn ở bên và sẵn sàng cứu giúp chúng ta.
2021
ĐÓN NHẬN CHÚA VÀ CHIA SẺ CHO ANH EM
03 25 X Thứ Ba Tuần XVIII Thường Niên.
Ds 12,1-13; Mt 14,22-36.
ĐÓN NHẬN CHÚA VÀ CHIA SẺ CHO ANH EM
Trong Tin Mừng hôm nay, khi các môn đệ xin Chúa giải tán dân chúng về các làng mạc để họ tự mua thức ăn, Ngài đã truyền lệnh cho họ: “Các con hãy liệu cho họ ăn”. Rồi với năm chiếc bánh và hai con cá do các môn đệ mang đến, Ngài đã nuôi trên 5,000 người được ăn no nê mà còn dư 12 thúng bánh vụn.
Buổi chiều hôm đó, thấy một đám đông đang có nguy cơ đói lả, các tông đồ cảm thấy bất lực trước một nhu cầu quá lớn là lo cho cả ngàn người ăn. Vì thế, các ông đã muốn chọn một giải pháp dễ dãi, thoái thác trách nhiệm nên các ông nói với Chúa : Thưa Thầy, đã muộn rồi, ở đây lại thanh vắng, chúng ta nên giải tán đám đông, để họ tự đi mua thức ăn. Chúa Giêsu đã không đồng ý với giải pháp đó. Ngài ra lệnh cho các tông đồ : Chính anh em hãy cho họ ăn. Các tông đồ, với sự giới hạn của mình, dường như bó tay trước nhu cầu quá lớn như thế. Các ông đã thưa với Chúa về giới hạn nhỏ bé của mình : Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, tức là chỉ đủ cho một phần ăn.
Đối với Chúa Giêsu, ít hay nhiều không quan trọng, nhưng quan trọng là các tông đồ có dám nhường phần ăn của mình cho người khác hay không, phần còn lại Chúa sẽ làm. Thế là chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá do sự quảng đại chia sẻ của con người, Chúa Giêsu đã cầm lấy…, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ trao cho đám đông. Chi tiết này cho thấy, một lần nữa, Chúa Giêsu lại muốn có sự cộng tác quảng đại của các tông đồ. Chúa trao cho các ông để các ông tiếp tục trao cho người khác. Như thế lương thục, của ăn cứ liên tục được trao tặng qua các môn đệ, phục vụ đến mọi người, và sẽ mãi là như thế.
Từ năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ là đóng góp của con người, cùng với sự cộng tác của các môn đệ, Chúa Giêsu đã nuôi năm ngàn người ăn no mà vẫn còn dư thừa đến mười hai giỏ đầy bánh vụn. Phép lạ này được thực hiện để báo trước một phép lạ lớn lao hơn, đó là phép lạ Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện. Ngài đã biến máu thịt mình nên của ăn nuôi dưỡng nhân loại. Với phép lạ Thánh Thể tại nhà tiệc ly và vẫn còn kéo dài đến ngày nay, Đức Giêsu cũng vẫn đang cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói : Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn, mà uống, vì này là mình và máu Thầy sẽ đổ ra vì anh em, hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
Với việc biến mình trở nên lương thực làm của ăn, của uống cho con người, Chúa Giêsu đã làm thỏa mãn mọi đói khát thể xác và tâm hồn cho con người mọi thời và mọi nơi. Chỉ nhưng ai đến lãnh nhận lương thực này, ăn mình và uống máu Ngài, thì sẽ không bao giờ còn bị các cơn đói khát, thèm muốn của thế gian đe dọa nữa. Nói như thánh Phaolô trong bài đọc hai : Khi gắn bó với Đức kitô qua việc nghe Lời Ngài và ăn lương thực của Ngài ban tặng, thì không một đau khổ, nghèo đói nào có thể làm lung lạc tinh thần của chúng ta : Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô, dù là gian truân khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Tức là tất cả những nghèo đói, thèm khát, đau khổ của thế gian sẽ không làm gì được chúng ta, một khi chúng ta ở trong tình yêu với Chúa Giêsu.
Trong chúng ta, có những người đang nghèo túng của ăn, cơm áo. Bên cạnh đó, có rất nhiều người giàu của cải nhưng lại đang nghèo đói tinh thần. Có nhiều gia đình thèm muốn có một bữa ăn xum họp cả nhà mà không được ; có nhiều gia đình mong một ngày yên ổn không cãi vã, không to tiếng mà cũng không tìm ra ; có những người quá mệt mỏi với công việc, mong được một ngày nghỉ ngơi, thoát khỏi những lo toan cũng không thể… và nhiều người khác, tuy ngoài miệng vẫn cười, mà lòng đầy nước mắt và sự bất an. Nhiều bạn trẻ đang khao khát tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc và tìm cho mình một hướng đi, một mục đích sống…
Ngày nay, các đám đông đói ăn ấy được nhân lên đến cả triệu lần, họ không chỉ đói, mà còn chết đói là khác. Ðã và đang có biết bao người làm những việc hy sinh để nuôi sống đám đông ấy, nhưng vấn đề quá lớn lao đối với những giới hạn của con người.
Dĩ nhiên, con người phải làm hết sức có thể để giúp đỡ đồng loại, nhưng với sức riêng, con người không thể giải quyết được vấn đề quá lớn lao ấy, họ cần có sự trợ lực từ bên trên. Thật thế, chúng ta cần phải có những việc làm cụ thể, vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể mang lại cơm bánh cho người đói khát, khi chúng ta cũng trao ban cho họ lời cầu nguyện của chúng ta. Tự sức mình, với năm chiếc bánh và hai con cá, các môn đệ không thể nuôi sống trên 5,000 người; thế nhưng, xem chừng Chúa Giêsu không thể làm phép lạ, nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá ấy.
Người Kitô hữu chúng ta không chỉ làm công tác xã hội. Năm chiếc bánh và hai con cá do đóng góp và san sẻ của chúng ta cần phải đi đôi với niềm tin và lời cầu nguyện. Với niềm tin và lời cầu nguyện, chúng ta hãy xác tín rằng cách nào đó, Chúa hằng nhậm lời chúng ta và chắc chắn phép lạ luôn diễn ra. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Lòng cảm thương của các môn đệ trước đám dân chúng, chỉ dừng lại ở mức tình cảm hoặc chỉ tính toán đủ-thiếu khi chỉ còn có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa Giêsu thì khác, Ngài động lòng thương đám đông và muốn họ ra về sau khi đã được ăn no. Đàng khác, tất cả những gì qua tay Chúa Giêsu, thì dù ít ỏi (năm chiếc bánh và hai con cá) cũng sẽ trở nên sung mãn, dư thừa. Người kitô hữu cần mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu, biết quan tâm chăm sóc thân nhân và những kẻ bé mọn: người nghèo, người bệnh tật, người đau khổ về vật chất cũng như tâm hồn, đồng thời biết cậy dựa vào sức của Chúa trong việc giúp đỡ, bác ái, từ thiện.
Ước gì những cố gắng chia sẻ và trao ban của chúng ta luôn được thực thi bằng tất cả niềm tin và lời cầu nguyện. Ước gì niềm tin và lời cầu nguyện của chúng ta cũng được thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể của chúng ta.
2021
Năng cầu nguyện
02 24 X Thứ Hai Tuần XVIII Thường Niên.
(Tr) Thánh Êu-xê-bi-ô Véc-se-li, Giám mục. (Tr) Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma, Linh mục.
Ds 11,4b-15; Mt 14,13-21 (hoặc Mt 14,22-26).
Năng cầu nguyện
Cuộc đời chúng ta có lúc yên bình, nhưng lắm khi cũng gặp giông bão, khiến chúng ta sợ hãi bất an. Xin Chúa luôn ở bên che chở, chấn an và giúp ta biết chọn lựa hướng sống sao cho đúng ý Người, nhờ đó thuyền đời của ta dễ dàng vượt qua sóng gió hiễm nguy giữa biển đời trần mà đạt đến bến bờ bình an, nhờ sức mạnh ơn ban của Chúa
Trích đoạn tin mừng theo thánh Mátthêu hôm nay bắt đầu với hình ảnh Chúa Giêsu đi tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện: “Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình”, sau khi Ngài đã giảng dạy và chữa lành bệnh tật cho nhiều người. Và rồi đến cuối phân đoạn Mt 14: 22-36, Thầy Giêsu lại tiếp tục sứ vụ công khai của mình. Ta nhận ra sự đan xen giữa cầu nguyện và việc rao giảng. Thực ra sự hoà quyện giữa đời sống cầu nguyện và sứ vụ công khai này được thể hiện trong rất nhiều trích đoạn tin mừng khác nhau. Điều này chứng tỏ rằng cầu nguyện, hay cũng gọi là việc liên kết liên lỉ với Chúa Cha, gắn liền với việc rao giảng Nước Trời. Cầu nguyện và công việc bác ái tông đồ là hai yếu tố không thể tách biệt trong cuộc sống của Chúa Giêsu; và cũng là cho mỗi người môn đệ Chúa.
Cầu nguyện là gì? Câu hỏi này được nhắc đến trong nhiều tôn giáo khác nhau. Ngay cả trong Công giáo cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về cầu nguyện.
Trong thời gian ở Tiền Tập, chúng tôi cũng đã thảo luận về câu hỏi này. Đối với một người anh em, Cầu nguyện là mối tương quan với Đấng Tạo Hóa của chúng ta; “ở đó” ta có thể giãi bày hết những suy tư, lo âu, cho một Người, tuy không hiện diện trong thể xác, nhưng ở bên cạnh ta cách thiêng liêng. Một thỉnh sinh khác nói: Cầu nguyện là một phương thức giao tiếp giữa con người và Thiên Chúa; con người mở lòng mình ra và nâng chính mình lên với Thiên Chúa. Người thứ ba nói: Cầu nguyện là một cuộc trò chuyện yêu thương giữa con người và Thiên Chúa. Như bất kỳ cuộc đối thoại nào, cầu nguyện đòi hỏi sự hiện diện. Chính Thiên Chúa kêu gọi và khởi xướng cuộc gặp gỡ trong cầu nguyện. Con người, về phần mình, đáp trả lại lời mời gọi này. Trong sự đáp trả ấy, chúng ta được mời gọi để mở rộng tâm trí và trái tim của mình nhằm nhận ra những gì Chúa đang nói với ta.
Nơi con người, luôn có sự hiện diện của Thiên Chúa; có nghĩa là mối tương quan với Thiên Chúa không phải là “một phần thêm vào”, nhưng nằm trong căn tính của mỗi người. Nếu chúng ta coi mối tương quan đó là “cầu nguyện”, chúng ta có thể nói cầu nguyện là phổ quát, nghĩa là mỗi người đều được kêu gọi sống mối tương quan với Thiên Chúa.
Tuy nhiên mỗi chúng ta được mời gọi cụ thể hóa rõ nét hơn mối tương quan sống động của chiêm niệm. Do đó trong lòng Mẹ Giáo Hội, chúng ta được thánh hiến để sống và làm chứng cho “cầu nguyện”, cho mối thân tình với Thiên Chúa. Cầu nguyện không tách biệt khỏi việc bác ái tông đồ. Mỗi người Kitô hữu được kêu gọi để đem hoa trái của đời sống cầu nguyện đến với tha nhân. Hoa trái ấy là đức mến, là lòng vị tha, là sự bao dung, vv. Như vậy, với cái nhìn của người có Chúa, mỗi việc bác ái tông đồ, dầu lớn dầu nhỏ, đều xuất phát từ mối thân tình với Thiên Chúa. Ta nhận ra sự đan xen lẫn nhau của đời sống cầu nguyện và sống tình huynh đệ với tha nhân.
Về việc cầu nguyện, nhiều người thường bỏ cầu nguyện với lý do: “Tôi bận quá không có thời giờ rảnh để cầu nguyện với Chúa”… Nhưng thật ra Chúa luôn ở bên ta, ngay trong lòng ta. Chỉ cần ta ý thức sự hiện diện của Chúa Giê-su và thưa chuyện với Người bằng một lời nguyện tắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta có nhiều giờ đi uống cà phê tán gẫu với chúng bạn hay ngồi hàng giờ xem truyền hình… mà lại không thể bớt ra ít phút để vào sa mạc của lòng mình cầu nguyện với Chúa. Mỗi ngày chúng ta có khá nhiều cơ hội để gặp gỡ Chúa, mà vì không ý thức về sự cần thiết của việc cầu nguyện, nên ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội gặp gỡ Người. Chẳng hạn: Những lúc cửa hàng vắng khách, khi chờ đèn xanh đèn đỏ, khi bị kẹt xe hay bất ngờ nhà bị cúp điện… Thay vì bực bội khó chịu, chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa và thưa chuyện với Người về những điều làm ta lo lắng hay đang phải đối phó.
Đôi khi Chúa để chúng ta gặp phải các tai ương, bệnh tật và đau khổ là Người muốn thử thách đức tin của chúng ta như người ta thường nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Cũng như dù đang cầu nguyện trên núi, nhưng Đức Giê-su vẫn dõi mắt theo con thuyền của các môn đệ đang lênh đênh trên biển cả và Người đã đi trên mặt nước để đến cứu giúp các ông, thì ngày nay Người cũng luôn quan tâm đến con thuyền Hội Thánh trong cơn phong ba bão táp hầu kịp thời ứng cứu khi cần. Nếu thực sự tin vào quyền năng của Đức Giê-su, thì chúng ta cũng sẽ không hoảng sợ khi phải đương đầu với các nghịch cảnh, vì tin rằng Chúa vẫn luôn dõi theo chúng ta và sẽ kíp thời cứu giúp chúng ta khi cần. Hãy luôn ý thức: “Có Chúa cùng đi với chúng ta, chúng ta sẽ không còn sợ chi và chắc chắn sẽ đạt đến bến bình an”.
Xin Chúa ban thêm lòng tin nơi chúng ta, để dù trong bất cứ hoàn cảnh thử thách nào, ngay cả những lúc bước đi trong đêm tối của đức tin, chúng ta cũng vẫn an tâm tiến bước trên sóng gió của biển đời. Xin Chúa thương hiện diện và đồng hành mãi với chúng ta mà hướng dẫn để chúng con biết lối tiến bước về bến bờ bình an.
2021
NGÔN SỨ ! NGƯỜI LÀ AI ?
31 22 Tr Thứ Bảy Tuần XVII Thường Niên.
Thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la (Loyola), Linh mục, lễ nhớ.
Thánh Phê-rô Đoàn Công Quý, Linh mục (U1859); và Thánh Em-ma-nu-en Lê Văn Phụng, Trùm họ (U1859), Tử đạo.
Lv 25,1.8-17; Mt 14,1-12.
NGÔN SỨ ! NGƯỜI LÀ AI ?
Thánh Inhaxiô là vị linh mục sáng lập Dòng Tên, sinh tại Loyola (Azpeitia, Tây Ban Nha) khoảng năm 1491 qua đời tại Rô-ma ngày 31.7.1556
Cha Thánh Inhaxiô sinh năm 1491 trong một gia đình thế giá ở lâu đài Loyola xứ Basque, miền bắc Tây Ban Nha.
Cho đến năm 30 tuổi, ngài là một hiệp sĩ ít học, ngang tàng và phóng túng, nhưng luôn luôn trung thành và quảng đại với vương triều. Năm 1521, bị thương tại Pamplona, ngài phải nằm dưỡng bệnh hơn nửa năm trời ở gia đình, và trong thời gian này, nhờ đọc sách và suy nghĩ, ngài quyết tâm noi gương các thánh đi phục vụ Đức Kitô là vị Vua muôn đời.
Khi đã bình phục năm 1522, ngài đến làng Manresa ở đông bắc Tây Ban Nha, sống cô tịch để cầu nguyện gần một năm trong một hang đá. Trải qua nhiều kinh nghiệm thiêng liêng sâu đậm, ngài truyền lại cho hậu thế trong tập Linh Thao, Sau đó, ngài đi hành hướng Giêrusalem để luyện tập đức tin, đức cậy và đức mến. Trở về Tây Ban Nha, ngài tập tễnh dòng Linh Thao giúp các linh hồn, nhưng nhiều lần bị bắt và bị cấm. Ngài quyết định đi Paris học để có thể hoạt động tông đổ hữu hiệu hơn.
Tại đại học Paris, ngài gặp Phêrô Favre, Phanxicô Xavier và 4 người bạn khác, Sau nhiều lần trao đổi và cầu nguyện, ngày 15 tháng 8 năm 1534, tại nhà thờ Montmartre, ngài cùng với các bạn tuyên hứa sống độc thân, nghèo khó và làm việc tông đồ. Sau đó ngài về quê chữa bệnh, rồi đển Venezia miền bắc Ý để gặp lại các bạn.
Năm 1537, ngài chịu chức linh mục. Ngài cùng với các bạn họp nhau tại Vicenza đồng ý đặt tên nhóm là đoàn Giêsu. Trên đường vào Rôma, tại La Storta, ngài cảm nghiệm “được đặt với Chúa Con”. Năm 1539, ngài đệ trình dự án biến Đoàn Giêsu thành một tu hội Tông Đồ, và năm 1540, dự án được Đức Thánh Cha Phaolô III phê chuẩn.
Năm 1541, ngài được các bạn nhất trí bầu làm Tổng Quản tiên khởi của Dòng Tên. Trong cương vị này, ngài huân luyện các anh em mới, và hướng dẫn các anh em hoạt động tông đồ trên kháp mặt đất. Đây giai đoạn ngài chìm sâu vào mầu nhiệm Ba Ngôi và được kể vào số những nhà thần bí nổi tiếng nhất Hội Thánh.
Ngài qua đời ngày 31.7.1556 như một hiệp sĩ trung thành và quảng đại, và được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh năm 1622.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cái chết bi thảm của vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước đó là Gioan Tẩy Giả, người dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến. Cái chết của ông chứng minh cho lòng can đảm dám sống cho sự thật và chết cho sự thật vì yêu luật Chúa.
Sau bao năm ở sa mạc một mình với Thiên Chúa để chuẩn bị sứ vụ, Gioan Tẩy Giả xuất hiện giữa dân chúng, kêu gọi mọi người sám hối và dọn lòng đón nhận Đấng Cứu Thế. Trong bối cảnh đó, ông cũng mạnh dạn lên tiếng can ngăn vua Hêrôđê không được phép lấy vợ của anh mình. Tiếng nói chân thật của ông đã đưa ông đến chỗ bị vua Hêrôđê ra lệnh bắt trói và xiềng ông trong tù. Vua muốn giết Gioan nhưng lại sợ đám đông vì họ coi ông như một vị ngôn sứ. Người ta thường nói: “Sự thật, mất lòng” nhưng với Gioan Tẩy Giả thì “sự thật, mất đầu”. Ông chấp nhận “ thật thà, thẳng thắn thường thua thiệt” để hy vọng cứu được một quân vương khỏi sa lầy tội lỗi. Nhưng vì giữ danh dự trước bá quan và khách mời, ông đã bị Hêrôđê ra lệnh chém đầu để thỏa mãn sự căm thù của một người đàn bà thiếu đạo đức tên là Hêrôđia, vợ của Philipphê, anh vua Hêrôđê mà vua đã lấy làm vợ mình. Gioan Tẩy Giả mất đầu nơi thân xác, nhưng tâm hồn và tiếng nói chân thật của ông vẫn còn vang vọng và là gương sáng trong mọi thời đại. Qua cái chết vì lòng trung thành với lề luật Thiên Chúa, chúng ta nhận ra Gioan Tẩy Giả cũng đã cùng chung thân phận với bao ngôn sứ khác.
Trở lại với Hêrôđê, chúng ta có thể thấy ông là một con người có tính khí bất thường. Ông vừa kính Gioan, vừa muốn nghe Gioan nói, nhưng lại không muốn dứt bỏ người tình Hêrôđia. Ông bắt cá hai tay nên ông loay hoay, luẩn quẩn trong cái vòng tội lỗi để rồi khi thấy Chúa Giêsu bắt đầu nổi danh, ông ngỡ là Gioan Tẩy Giả đã sống lại, người mà ông đã ra lệnh chém đầu trước đây! Ông sợ đối diện với sự thật về đạo lý luân thường, lòng ông luôn thiếu bình an. Ông không còn đủ sáng suốt nhận ra chân lý nên chỉ vì giữ một lời hứa trong lúc có men, ông đã giết oan một ngôn sứ mà Đức Giêsu đã giới thiệu trước: “ Trong số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11, 11a).
Nhìn Hêrôđê, chúng ta cũng tự vấn lương tâm mình trong cách sống đạo trong thế giới hôm nay. Phải chăng tiếng nói luân lý ngày xưa còn được con người quan tâm hoán cải, dù vẫn có những người như Hêrôđê. Nhưng tiếng nói luân lý ngày nay đang bị con người coi thường đến mức báo động. Họ coi có quyền, có tiền là có tất cả. Nguy hiểm hơn là vì không sợ tội nên họ có thể làm tất cả những gì mình muốn, bất chấp luật lệ và công lý. Rất may là chúng ta còn gặp những người như Gioan Tẩy Giả trong gia đình là cha là mẹ sẵn sàng quan tâm dạy dỗ con cái sống đạo hoặc trong các hội đoàn hay những người đầy ơn Chúa, họ sẵn lòng kiên trì đi gặp gỡ, khuyên nhủ và tìm nhiều phương cách giúp những anh chị em Kitô hữu khô đạo hay lạc xa đức tin trở về với Chúa. Giáo Hội rất vui mừng và biết ơn những con người như thế để cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa là cứu anh chị em mình thoát khỏi sự dữ đời đời.
Kết thúc cuộc đời của vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước là đầu lìa cổ và đặt trên mâm. Lý do tại sao thì chúng ta đã rõ theo trình thuật của thánh sử Matthêu. Gioan Tẩy Giả đã can đảm tố cáo tiểu vương Hêrôđê về hành vi cướp vợ của anh mình. Dường như đó là cái giá mà các ngôn sứ phải trả khi thi hành sứ mạng của mình và Gioan Tẩy Giả không là một ngoại lệ. Nếu như việc Gioan được sinh ra báo trước việc Đấng Cứu Thế giáng sinh, thì cái chết của ngài cũng là một lời loan báo về sự chết của vị Ngôn Sứ cao cả thành Nadaret là Chúa Giêsu. Nếu như cái chết nói chung đưa đến cho mọi người sự sợ hãi, thì cái chết của Gioan Tẩy Giả hay các ngôn sứ và đặc biệt là cái chết của Chúa Giêsu lại là dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người, vì nó mở ra con đường sự sống vĩnh cửu cho tất cả chúng ta.
Một cách nào đó, đời sống của người tín hữu là một cuộc tử đạo triền miên. Liệu việc cái đầu của Gioan Tẩy Giả lìa khỏi thân và được đặt trên mâm có trở nên nguồn động lực thúc đẩy chúng ta can đảm hơn, mạnh mẽ hơn nữa để sống và loan báo Tin Mừng ?