2021
Hiệp Thông Huynh Ðệ
11 04 Tr Thứ Tư Tuần XIX Thường Niên.
Thánh Cờ-la-ra, Trinh nữ, lễ nhớ.
Đnl 34,1-12; Mt 18,15-20.
Hiệp Thông Huynh Ðệ
Thánh Clara là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi. Khi mười tám tuổi, được khích động bởi một bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi, ngài cương quyết noi gương các tu sĩ Phanxicô, thề sống khó nghèo, tận hiến cho Thiên Chúa. Gia đình ngài hoảng sợ, dùng võ lực ép buộc ngài phải trở về nhà; nhưng một đêm kia, trong một hành động vừa có tính cách khôn khéo và vừa có ý nghĩa, ngài lẻn ra khỏi nhà qua “cánh cửa người chết” (cánh cửa nhỏ để khiêng người chết ra ngoài), và đến với các tu sĩ Phanxicô.
Trong một nhà nguyện nhỏ bé ở ngoại ô, Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của Clara và trao cho thánh nữ chiếc áo nâu thô kệch làm chiếc áo dòng. Sau đó, thánh nữ sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô cho đến khi có thêm sự gia nhập của các phụ nữ khác, trong đó có cả người mẹ goá bụa của ngài và các phụ nữ thuộc gia đình quý tộc ở Florence.
Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn (các tu sĩ Phanxicô là Anh Em Hèn Mọn). Khi tu hội được thành lập, Thánh Phanxicô đề nghị Clara làm bề trên, nhưng ngài từ chối cho đến khi được hai mươi mốt tuổi. Các nữ tu trong dòng tận tụy trong việc cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị ruồng bỏ.
Họ sống theo một quy luật khắc khổ hơn bất cứ nữ tu hội nào khác trong thời ấy, và tuyệt đối khó nghèo, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Họ đi chân đất, không có giường, mà nằm trên các khúc gỗ được kết lại và chăn mền là vỏ cây gai dệt thành. Gió mưa tha hồ lọt qua các vết nứt ở mái nhà cũng như vách gỗ. Họ ăn rất ít và không bao giờ ăn thịt. Thực phẩm của họ là tất cả những gì xin được. Bất kể sự khắc khổ của đời sống, những người theo Thánh Clara lại là những thiếu nữ xinh đẹp nhất Assisi và lúc nào họ cũng có niềm vui vì được sống gần Thiên Chúa.
Thật vậy, Thiên Chúa đã gìn giữ họ khỏi sự nguy hiểm khi bọn lính hung dữ đến tấn công Assisi và dự định bố ráp tu viện này trước hết. Lúc ấy, dù đang đau nặng, Thánh Clara đã gắng gượng quỳ xuống trước cổng, tay nâng Mình Thánh trong mặt nhật và ngài cầu xin, “Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các nữ tu mà con không thể nào bảo vệ nổi.” Sau đó, dường như có tiếng trả lời: “Ta sẽ luôn gìn giữ họ,” và đồng thời ngay lúc ấy, quân lính cảm thấy vô cùng sợ hãi và họ chạy tán loạn.
Thánh Clara làm bề trên tu viện trong bốn mươi năm mà hai mươi chín năm ngài luôn đau yếu. Nhưng lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói, “Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?”
Thánh Clara từ trần ngày 11 tháng Tám 1253. Chỉ hai năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Alexander IV phong thánh.
Chương 18 Tin Mừng Mátthêu gồm những giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của người môn đệ trong cộng đoàn. Ở đây chúng ta đọc thấy điểm căn bản cho giáo lý về Giáo Hội như một sự hiệp thông, một cộng đoàn, một thân thể của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”. Ðây là yếu tố quyết định cho lời cầu xin của chúng ta, vì chính Chúa Giêsu mới là Ðấng làm cho lời cầu xin của chúng ta được Thiên Chúa nhậm lời.
Một điểm nữa được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay, đó là thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những con người yếu đuối, có thể lỗi phạm.
Lời Chúa dạy về việc sửa lỗi huynh đệ cần được chúng ta lưu tâm: Kẻ phạm lỗi kia là người anh em chúng ta, chứ không phải là kẻ thù. Lời khuyên, sự nâng đỡ, sửa lỗi riêng tư phải là bước đầu tiên; kế đến là việc sửa lỗi chung nhờ sự hỗ trợ của cộng đoàn; cuối cùng là phán quyết của vị đại diện đã được Chúa trao cho tác vụ bảo vệ sự hiệp nhất và hiệp thông cũng như chữa trị những gì làm hại đến cộng đoàn.
Nhận ra lỗi của mình và sửa lỗi cho anh chị em thật là khó. Khó là vì không ai muốn nhận lỗi về mình, và nếu có nhận ra lỗi của mình thì cũng khó chấp nhận sửa sai vì cái “tôi” quá lớn.
Nguyên nhân chính là sự bảo thủ nên dễ nhận thấy lỗi của người khác hơn là lỗi của mình, còn người khác thì dễ nhận ra lỗi của mình hơn là lỗi của họ.
Như vậy, nói về vấn đề sửa lỗi là chuyện rất khó! Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại bảo các môn đệ hãy đi sửa lỗi cho anh em!
Tâm tình mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải có trong khi sửa lỗi cho người khác là: yêu thương chân tình, tôn trọng, tế nhị, kiên trì và cầu nguyện. Làm được như thế thì mới thành công.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kiểm điểm lại thái độ sống của chúng ta: chúng ta đã làm gì để duy trì sự hiệp nhất trong cộng đoàn? Chúng ta đã đối xử ra sao trước tội lỗi của chính mình cũng như của người khác?
Việc sửa lỗi đặt nền tảng trên đức ái, nhằm cứu vãn và xây dựng hơn là để trừng phạt. Vì thế, Chúa muốn phương thức phải được sử dụng nhằm đưa tội nhân trở về với Thiên Chúa. Ðó chính là tình yêu đích thực, là sự hiệp thông mà Chúa muốn nơi mỗi người chúng ta.
2021
Như hạt lúa mì
10 03 Đ Thứ Ba Tuần XIX Thường Niên.
THÁNH LÔ-REN-XÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO, lễ kính.
Hôm nay lễ quan thày Đức Cha Lôrenxô Chu Văn Minh, nguyên Giám mục phụ tá, chúng ta nhớ cầu nguyện cho ngài.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
2Cr 9,6-10; Ga 12,24-26.
Như hạt lúa mì
Chúng ta đã thấy, ngày 7.8 Đức Giáo Hoàng Sixtus II bị chặt đầu trong hang toại đạo đang khi dâng thánh lễ, và cùng với ngài người ta cũng chặt đầu thêm 4 thầy phó tế đang vây quanh ngài, trừ Lô-ren-xô.
Thầy phó tế này là người quản lý tài sản của Giáo Hội Rôma. Người ta cho thời hạn 4 ngày để đem nộp tất cả cho nhà Nước.
Theo truyền thuyết, sau thời hạn 4 ngày, Lô-ren-xô đến toà án cùng với một đám đông dân nghèo của thành phố La Mã, ngài nói với quan toà : “Này, đây là tài sản của Hội Thánh ; hãy nói với hoàng đế, ráng gìn giữ cho cẩn thận, vì chúng tôi không còn có mặt ở đây để gìn giữ nữa.” Người ta bắt trói ngài, quăng lên giường sắt, thiêu lửa riu riu, nhưng nhờ ơn của Chúa ngài không cảm thấy gì cả. Sau một thời gian dài, ngài nói với lý hình : “Lưng của tôi chín rồi ; phải lật qua bụng thôi ! Nếu như hoàng đế muốn có một miếng thịt chín để ăn cho ngon !” Và ngài đã chết trong khi cầu nguyện.
Hạnh các Thánh Tử Đạo tường trình cuộc tử đạo của Lô-ren-xô thật phấn khởi, đượm chút mỉa mai với nét vui tươi của thánh nhân. Chính nét vui tươi can đảm này làm cho Giáo Hội Rôma tin tưởng vào Đức Kitô và phấn khởi lạc quan, không còn sợ những thói dã man của hoàng đế, đồng thời cũng thấy trước ngày tàn của ngoại giáo ; nên tất cả giáo dân ở Rôma rất kính trọng Thánh Lô-ren-xô. Đại thánh đường được xây dựng ngay trên mộ ngài ở đường Tiburtina là một trong 7 đại giáo đường ở Rôma.
Từ thế kỷ thứ IV thánh lễ này được mừng long trọng ngang hàng với lễ thánh Phê rô và Phaolô. Cùng với hai Thánh Tông Đồ này, Thánh Lô-ren-xô được xem như thánh quan thầy của thành phố Rôma. Ngay ở thời Trung cổ, có tất cả 34 thánh đường mang tên ngài trong thành phố này ; và cả Âu Châu gần như nơi nào cũng có Xương Thánh hay di tích giường sắt tử hình của Thánh Lô-ren-xô.
Ngày nay thánh Lô-ren-xô được xem như Thánh quan thầy của người nghèo, vì ngài đã chăm sóc và tôn trọng họ như “kho tàng của Hội Thánh”. Ngài cũng là thánh quan thầy của các quản thủ thư viện, của phòng cháy chữa cháy, của những nghề đụng tới lửa, chỉ vì ngài bị thiêu trên giường sắt nung đỏ
Từ thế kỷ thứ IV, người ta đã mừng lễ kính Ngài với một đêm canh thức trọng thể và từ Roma, việc tôn kính Ngài đã lan khắp Giáo hội rất sớm. Các thánh Ambroise ở Milan, Augustin ở Châu Phi và Maxime ở Turin đều có lưu lại những bài giảng về lễ kính thánh nhân. Và sau thánh Ambroise, thánh Prudence cũng kể lại cuộc tử đạo của thánh nhân (công vụ của Polychrone và các bạn, khoảng năm 550).
Mặc dầu nhiều chi tiết trong cuộc khổ nạn đó mang tính huyền thoại, nhưng lại là nguồn gốc cho các điệp ca trong thần vụ. Thánh Ambroise khi kể lại cuộc tử nạn đó một thế kỷ sau nói rằng thánh Laurent bị thiêu trên một giàn sắt. Xác Ngài được an táng trên đường Tiburtina, nửa thế kỷ sau, hoàng đế Constantin cho xây một thánh đưòng trên mộ Ngài : Đây chính là đại giáo đường thánh Laurent ngoại thành, một trong bảy nhà thờ lớn ở Roma, và là nhà thờ chính trong tám nhà thờ của thành phố Rôma dâng kính thánh nhân.
Chuyện về các hành vi trong cuộc khổ nạn của thánh Laurent kể rằng thánh nhân bị bắt vì không tuân luật thuế quan buộc nộp các tài sản Giáo hội cho chính quyền hoàng đế. Sau khi xin khất lại, Ngài tập hợp những người nghèo khó, ốm đau lại và hai ngày sau, Ngài đưa họ đến trước mặt quan quyền và thưa : “Đây là tài sản của Giáo hội !”.
Thánh nhân liền bị bắt và tra khảo nhiều lần. Ngài đã trả lời các lý hình : “Tôi tôn thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ phụng sự một mình Chúa, nên tôi đâu sợ cái tra khảo của các ông”. Bị đặt trên một vỉ sắt dưới để than cháy, Ngài còn quay lại phía lý hình, đùa : “Anh trở tôi được rồi đấy, bên này chín rồi”. Đức giáo hoàng Damase cho khắc trên mộ ngài : “đòn roi, lý hình, lửa thiêu, hình khổ, xích xiềng, tất cả điều thua đức tin của Lôrensô”.
Niềm tin và lòng bác ái của thánh Laurent cũng như đức can đảm anh hùng của Ngài qua nhiều thế kỷ là nguồn cảm hứng cho lời cầu nguyện của Giáo hội, lòng đạo đức của giáo dân, rất nhiều tranh ảnh, thậm chí cả kiến trúc … quả thế, Philippe II, để thực hiện lời hứa với thánh Lôrensô, đã xây Escorial trong tỉnh Madrid, theo dạng thiết kế một giàn sắt nhắc nhớ dụng cụ tra tấn thánh phó tế Lôrensô xưa. Còn thánh Bênado thế kỷ XII thì dâng tu viện Thoronet vùng Var để kính thánh nhân. Thánh Lôrensô được nhắc tới trong lời nguyện Thánh Thể và có tên trong kinh cầu các thánh.
Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.
Tin Mừng hôm nay dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình như thánh Lôrensô vì tình yêu Chúa.
“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Theo định luật tự nhiên, để có bông hoa đẹp tươi nở khoe sắc lung linh trên cành, thì nguồn gốc trước kia nó từng là một hạt nhỏ xấu xí, khô lóc. Nhưng khi gặp đất và nước, nó trương lên, nứt nẻ rồi bung ra, ngoi lên mầm sống mới, cây từ từ phát triển đến lúc nở hoa sinh trái. Hạt lúa được gieo vào ruộng bùn cũng phải trương lên, hư thối để mọc lên cây mạ, rồi thành cây lúa tươi tốt và cuối cùng sinh bông hạt trĩu nặng.
Đó là một cuộc đánh đổi tự nhiên mà vô cùng lời lãi. Bởi vì “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15, 42-44). Chính Chúa Giêsu đã từ bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, hạ mình đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự, để rồi sinh ơn cứu rỗi, cho muôn người được ơn cứu độ và bước vào sự sống mới.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh hạt lúa thật dễ hiểu để áp dụng cho cuộc đời của Người, đồng thời là qui luật chung cho những ai muốn bước theo Ngài. Người chính là hạt lúa được gieo vào lòng đất. Cuộc thương khó và cái chết của Người dẫn tới sự sống bất diệt, để quy tụ dân Do Thái và dân ngoại thành một cộng đoàn đông đảo được hưởng ơn cứu độ.
Trong cuộc đời người Kitô hữu, nếu tôi sẵn sàng chịu bung vẩy trày xước vì lội ngược dòng đời, để sống theo Lời Chúa dạy, chết đi cho những tội lỗi, nết xấu, thì chính Chúa sẽ biến đổi, làm cho tôi được lại sự sống mới, như thánh Phaolô nói : “Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào (2Cr 9,10).
“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy ; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 25-26). Chúa Giêsu quả quyết: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cái được-mất trong sự bỏ mình hay giữ lấy, Người đã chứng minh bằng luật tự nhiên: “Nếu hạt giống rơi xuống đất không thối đi, nó sẽ chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sẽ nảy sinh hàng trăm những hạt khác”.
Với ý nghĩa này, ta có thể nhận ra lý do phải hy sinh, “chết” đi để được “sống”. Ai chăm lo tìm kiếm lạc thú ở đời này thì sẽ mất đời sống vĩnh cửu. Còn ai dám từ bỏ bản thân vì Chúa và vì Tin Mừng thì sẽ được hưởng sự sống đời đời mai sau. Người môn đệ – “kẻ phục vụ Thầy” cũng phải đi cùng một con đường như Chúa Giêsu để đạt tới vinh quang. Như hạt lúa, chúng ta cũng phải chết đi cho tội lỗi để sinh nhiều bông hạt.
2021
Lòng tin
07 29 X Thứ Bảy Tuần XVIII Thường Niên.
(Đ) Thánh Xit-tô II (Sixtus), Giáo hoàng và các bạn Tử đạo.
(Tr) Thánh Ca-giê-ta-nô (Cajetan), Linh mục.
Thứ Bảy đầu tháng. Ngày đền tạ trái tim vô nhiễm Đức Mẹ.
Đnl 6,4-13; Mt 17,14-20.
Lòng tin
“Trong một sắc chỉ gửi thượng viện, hoàng đế Valêrinô đã ra lệnh gấp rút truy lùng các Giám Mục, linh mục và phó tế. Bạn cũng nên biết rằng Ðức Sixtô đã bị hành quyết cùng với bốn thầy sáu khác”.
Vào đầu tháng 8/258, trước khi bị tử hình, thánh Cyprianô đã viết cho một người bạn như sau: “Trong một sắc chỉ gửi thượng viện, hoàng đế Valêrinô đã ra lệnh gấp rút truy lùng các Giám Mục, linh mục và phó tế. Bạn cũng nên biết rằng Ðức Sixtô đã bị hành quyết cùng với bốn thầy sáu khác”. Thực vậy, ngày 06/8/258, Ðức Giáo Hoàng Sixtô đã bị bắt đang lúc cử hành phụng vụ tại nghĩa trang Callistô. Sau đó, ngài bị trảm quyết cùng với các thầy Janvier, Magne, Vicentê và Etienne. Ngoài ra, thầy Félicissime và Agapit cũng đã bị bắt và bị xử chém tại nghĩa trang Prétextat, trong khi đó, thầy Laurent bị hành hình và chết vào bốn ngày sau. Ðó là một trang sử oai hùng của Giáo Hội Rôma trong thời bách hại.
Thánh Cyprianô đã muốn dựa trên những nhân chứng hùng hồn này để mời gọi các tín hữu Phi Châu hãy can đảm chiến đấu, hãy nghĩ đến cuộc sống vĩnh cửu hơn là cái chết hiện nay. Hãy ra sức tận hiến cho Thiên Chúa. Hãy vui mừng hơn là sợ hãi trong lúc tuyên xưng đức tin và hãy nhớ rằng những chiến sĩ của Thiên Chúa không bao giờ chết nhưng sẽ được đội triều thiên khải hoàn.
Đức Sixtô II là người Hy Lạp, sinh tại Athêna, là người có học thuyết uyên bác, nhưng vốn tính rất khiêm nhu. Nổi danh là vị Giáo hoàng “ôn hòa”, ngài đã dàn xếp ổn thỏa, nối lại quan hệ bị gián đoạn với các Giáo hội Đông phương và Phi Châu về Phép rửa mới cho các Kitô hữu đã chối bỏ đức tin còn tồn tại từ thời các vị tiền nhiệm.
Lúc ấy, hoàng đế Valêrianô phát động một cuộc bách hại rất khốc liệt đối với Giáo hội Công giáo. Nhiều Kitô hữu bị bắt bớ, buộc phải chối bỏ đức tin, nếu không, sẽ bị tịch thu tài sản và kết án tử hình. Đức Giáo hoàng Sixtô II cũng bị bắt và cuộc tử đạo của đức Sixtô II có liên quan đến chuyện Thánh Laurenxô phó tế, phụ tá của ngài chuyên lo việc quản lý công việc bác ái, cứu giúp người nghèo. Khi ngài bị bắt và bị dẫn giải, thầy phó tế Laurenxô xin ngài cho phép được đi cùng, nhưng ngài nói rằng: “Thầy cũng sẽ được hưởng triều thiên tử đạo, nhưng phải ở lại lo giải quyết xong xuôi những công việc bác ái còn lại.”
Quả thật, bốn ngày sau, Laurenxô cũng bị bắt và được yêu cầu đem nộp tất cả tài sản của Giáo hội cho nhà vua. Laurenxô xin trở vế lo việc giao nộp. Thầy gọi mọi người nghèo khổ trong thành đến, phân phát tất cả tài sản cho họ rồi dẫn họ đến trước mặt quan án và dõng dạc tuyên bố: “Đây là tất cả tài sản của Giáo hội”. Thầy bị kết án, bị đưa lên giàn hỏa thiêu trước sự chứng kiến của ngài. Riêng ngài bị chém đầu trên chính ngai tòa của mình ngày 6-8-258, và được mai táng trong phần mộ dành cho các Giáo hoàng tại hầm mộ thánh Calixtô.
Ngày hôm nay, con người đang phải đối diện với biết bao vấn đề phức tạp của cuộc sống, từ chiều kích nội tâm đến thực tế đời thường. Nhiều vấn đề rất khó giải quyết và đi đến chỗ bế tắc không lối thoát. Chính vì thế, mà nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ đành để cuộc sống nổi trôi không định hướng. Lý do căn bản đã đẩy đưa con người đến tình trạng này là do thiếu niềm tin trong cuộc sống.
Thật vậy, sống giữa một xã hội tuy rất phát triển về nhiều mặt, nhưng vì chiều kích tâm linh đã bị xem nhẹ, và đôi khi còn không được bàn tới, nên con người hôm nay nhiều lúc phải choáng váng trước bao vấn đề nảy sinh từ cuộc sống đầy nhiễu nhương phức tạp này. Một xã hội đề cao vật chất và tôn thờ chủ nghĩa hưởng thụ đâu có thể thỏa mãn mọi khát vọng chính đáng của con người.
Có lẽ tiếng kêu than của con người đã thấu tới trời cao, để rồi chính Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã phải thốt lên: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?” (c.17)
Ngày xưa Chúa Giêsu đã phải xót xa vì thái độ thiếu lòng tin của người Do Thái, khi họ cứng lòng trước những lời giảng dạy và phép lạ Người làm. Ngày nay cũng thế, Chúa Giêsu vẫn hiện diện trong Giáo Hội và thế giới qua những giáo huấn và dấu chỉ thời đại, nhưng con người vẫn mải miết chạy theo những sự vật mau qua của trần thế, và bưng tai bịt mắt trước tình yêu thương quan phòng và diệu kỳ của Người.
Mỗi chúng ta cần xét lại bản thân, để xem lòng tin của mình có mềm mại trước những dấu chỉ yêu thương của Chúa không? Hay lại chai đá như dân Israel xưa. Chúa vẫn kiên nhẫn không mỏi mệt với chúng ta. Người mong chúng ta quay trở lại để đón nhận tình yêu thương của Người luôn trải dài trong từng phút giây của cuộc sống mỗi người.
Nếu những yếu tố vật chất của thời đại hôm nay không thỏa mãn khát vọng thâm sâu nhất của chúng ta, thì lòng tin lại có sức mạnh vô song như lời Chúa nói trong Tin Mừng hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (c.20).
Lời Chúa thật xác quyết và mạnh mẽ, nhưng liệu chúng ta có vững tin vào Lời Ngài không? Đấy là yếu tố quyết định cho vận mạng của chúng ta hôm nay và mai sau.
Lòng tin có thể làm mọi sự và thay đổi mọi tình huống trong cuộc sống. Nhiều đoạn văn Tin Mừng đã cho chúng ta thấy những phép lạ xảy ra đều do lòng tin kiên vững của người xin ơn. Chúa cũng chỉ làm phép lạ khi người ta có lòng tin mạnh mẽ vào Người.
Ngày hôm nay và ngay giờ phút này, lòng tin của mỗi người chúng ta đang ở ngưỡng nào trong chương trình yêu thương quan phòng của Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài vẫn luôn chờ đợi chúng ta trong yêu thương, để nâng đỡ lòng tin hèn yếu của chúng ta. Vì cuộc sống thật nhiều gian nan và thách đố, nên nhiều khi chúng ta muốn buông xuôi, muốn ngã lòng, muốn bỏ cuộc. Chúa vẫn có đó để đồng hành và nâng đỡ chúng ta trong cuộc sống từng ngày. Đặc biệt trong Mầu Nhiệm Thánh Thể, Chúa luôn mãi âm thầm đón đợi chúng ta đến với Ngài, để được Ngài tiếp sức và bổ dưỡng thêm lòng tin.
2021
HIỂN DUNG NHƯ CHÚA
06 28 Tr Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên.
CHÚA HIỂN DUNG, lễ kính.
Thứ Sáu đầu tháng. Ngày đền tạ Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Đn 7,9-10.13-14; 2Pr 1,16-19; Mc 9,2-10.
HIỂN DUNG NHƯ CHÚA
Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Dung, bài Phúc âm thánh Matthêu nói về cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi. Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn thấy khuôn mặt vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên. Họ đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày trong khoảng thời gian ba năm. Họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai.
Trong cuốn “Jésus: A Fait De Moi, Un Témoin”, “Chúa Giêsu Đang Sống Qua Nhân Chứng”, cha Emiliano Tardif chia sẻ như sau: “Một sứ giả Tin Mừng trước tiên phải là một chứng nhân có một kinh nghiệm cá nhân về sự chết và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và là người truyền đạt cho kẻ khác, không chỉ là một đạo lý, mà một Đấng-Vẫn- Sống đang ban sự sống dồi dào”. “Không ai có thể trở thành sứ giả đích thực của Tin Mừng, nếu người đó không có kinh nghiệm đời sống mới mà Chúa Giêsu ban cho”.
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao và tại đó, Ngài đã biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời. Áo Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Rồi lại có Môisê và Elia hiện ra và trò chuyện với Ngài.
Chính lúc Chúa Giêsu biến đổi hình dạng, là lúc có sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Elia, tượng trưng cho lịch sử cứu độ. Chúng ta hãy lắng nghe các ngài đàm đạo. Theo thánh sử Lu-ca, các vị đàm đạo về cuộc Xuất Hành Người sẽ hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (Lc 9, 31). Như thế, lịch sử cứu độ (Lề Luật và ngôn sứ) loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và mầu nhiệm
Vượt Qua hoàn tất lịch sử cứu độ. Mà lịch sử cứu độ là gì? Là lịch sử kể lại sự hiện diện, sự quan phòng và cách dẫn đưa của Thiên Chúa giầu lòng thương xót hành trình làm người của những cuộc đời, của một dân tộc, đầy thăng trầm và tội lỗi, bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, không chỉ từ khởi đầu của dân tộc Israel, nhưng ngay từ khởi của loài người (x. St 3). Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Giêsu trở nên chói lọi như mặt trời, như bản văn Tin Mừng tường thuật: “Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Như thế, chính khi lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Giêsu, dung nhan của Ngài trở nên Mặt Trời, Mặt Trời ban ánh sáng, sức nóng và sự sống: “Chẳng có chi tránh được ánh dương nồng” (Tv 19, 7).
Dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ được hiểu như trên, chúng ta được mời gọi đọc lại và nhận ra cuộc đời chúng ta cũng là một “lịch sử cứu độ”, như kinh nghiệm thiêng liêng của hai môn đệ trên đường Emmau (Lc 24, 13-35), tuy đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, nhưng hướng tới Mầu Nhiệm Vượt Qua và được Mầu Nhiệm Vượt Qua hoàn tất, như thánh sử Gioan mong ước: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20, 31). Chính khi nhận ra hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, quá khứ, hiện tại và tương lai của cuộc đời chúng ta hướng tới và được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Kitô, đó sẽ là lúc chúng ta sẽ có được kinh nghiệm chiêm ngắm Dung Nhan chói ngời của Đức Kitô.
Vậy, trên hành trình đi theo Đức Kitô trong ơn gọi gia đình và nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta hãy ước ao và xin Chúa ban cho chúng ta kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng này: Đức Kitô trở nên chói ngời trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta; và ước gì cuộc sống hằng ngày của chúng ta với những đòi hỏi của ơn gọi, là lời diễn tả tâm tình vui sướng: “Lạy Chúa, chúng con ở đây, thật là hay!” Bởi vì, ánh sáng chói lòa của Chúa Giêsu trên đỉnh núi muốn nói cho chúng ta về kinh nghiệm niềm vui và hạnh phúc của lựa chọn cho đi sự sống của mình, đánh liều cuộc đời mình trong một ơn gọi, vì Đức Kitô và vì Tin Mừng, như chính Ngài đã nói sáu ngày trước (Mt 16, 24-26).
Thiên Chúa đã đưa ba tông đồ lên núi, làm họ ngã sấp mặt xuống đất, thì cũng chính Ngài, qua Đức Giêsu Kitô lại nâng họ lên: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Rồi cùng với họ đi xuống núi. Trên đường đi xuống núi lòng họ hoang mang, đầy những câu hỏi, nghi vấn, nhưng Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Bí mật của cuộc biến hình này tạo nên sự tin tưởng cho các tông đồ khi phải đối diện với đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu trên thập giá và của chính các ông sau này.
Sự biến hình của Chúa Giêsu trong vinh quang chính là niềm hy vọng và tăng cường sức mạnh cho chúng ta đang khi cố gắng trung thành với Ngài giữa những cám dỗ, đau khổ và thử thách. Giống như em bé trai thống khổ trong bức tranh vẽ của Raphael, chúng ta không bao giờ thất vọng khi nhìn ngắm vào thập giá của Chúa Giêsu, mà phải luôn tìm kiếm Ngài trong vinh quang. Chỉ qua Ngài, với Ngài, và ở trong Ngài chúng ta mới chiến thắng được thế gian và ma quỉ.
Cuộc biến đổi tích cực nào cũng đòi buộc con người phải hy sinh, phải công tác vào phần của mình một cách chủ động vào trong đó. Như hạt lúa muốn trở thành cây lúa thì phải chấp nhận một sự biến đổi âm thầm trong đau đớn vì sự mục nát và thối đi của mình. Vinh quang phục sinh và phần thưởng trọng đại trên thiên quốc cũng dành cho những ai biết hy sinh quên mình, biến chấp nhận được biến đổi và thanh lọc bởi Lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh.
Biết trước sự yếu đuối và nhát đảm của các môn đệ, Chúa Giêsu đã cho các ông thấy và chiêm ngấm trước vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ lấy lại sau khi đi vào cuộc tử nạn nhằm cứu chuộc con người khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Vinh quang đó cũng sẽ dành cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta nếu chúng ta tích cực và chủ động góp phần vào chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện vì con người và cho con người
Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
Mừng Kính Lễ Kính Chúa Giêsu Hiển Dung hàng năm, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm và sống ý nghĩa của sự cần thiết ‘Hiển dung’ và ‘biến đổi’ cuộc sống hàng ngày của chúng ta nơi dương thế. Nghĩa là, Chúa thách đố chúng ta ‘biến hình’ để rồi được ‘hiển dung’ với Chúa trên Núi Thánh. Ước chi mỗi người chúng ta luôn biết cố gắng thanh luyện và biến đổi đời sống của chúng ta nên tươi tốt và đẹp đẽ hơn trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời trút bỏ mọi cồng kềnh và lỉnh kỉnh vô ích hầu chúng ta có thể nhẹ nhõm bước đi và lên đến đỉnh Núi Thánh trên Nước Chúa Vĩnh Hằng.