2021
THI HÀNH Ý CHÚA
16 07 X Thứ Sáu Tuần XV Thường Niên.
(Tr) Đức Mẹ núi Ca-mê-lô.
Xh 11,10-12,14; Mt 12,1-8.
THI HÀNH Ý CHÚA
Núi Camêlô là nơi ngôn sứ Êlia ẩn trú trong cơn bách hại, để bảo vệ niềm tin cho mình và cho những người muốn trung thành với Chúa.
Dần dần những người muốn dâng mình cho Chúa tụ họp về đây, tập sống đời nhiệm nhặt, ăn chay hãm mình, cầu nguyện. Năm 38, họ xây cất một nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ Maria và chọn Đức Mẹ làm Đấng Bảo trợ cho cả cộng đoàn. Dòng Đức Mẹ Núi Camêlô xuất hiện từ đó, và được Đức Giáo Hoàng Hônôriút thứ 3 chuẩn nhận năm 1226.
Trong thời gian người Hồi giáo tấn công Thánh địa, tàn sát người Công giáo, các đan sĩ dòng phải rời bỏ núi Camêlô, chạy về nước Pháp, thành lập nhà dòng ở đây và cũng đến lập dòng tại nước Anh. Chính nơi đây, nhà dòng được tiếp nhận Thánh Simon Stóckô vào dòng. Và năm 1245, Thánh nhân nhận làm bề trên dòng. Ngài chỉnh đốn lại nếp sống các đan sĩ, đặc biệt củng cố lại lòng sùng kính Đức Mẹ.
Thánh nhân tha thiết kêu xin Đức Mẹ ban cho nhà dòng một ân huệ. Tương truyền ngày 16 tháng 07 năm 1251, Đức Mẹ đã hiện ra với Ngài. Đức Mẹ mặc áo Dòng Camêlô, xung quanh có thiên thần hầu cận, nét mặt tươi cười tay cầm chiếc “áo Đức Bà Camêlô” trao cho Ngài và bảo: “Hãy nhận lấy bộ áo dòng này Mẹ ban cho dòng và cho tu sĩ như dấu chỉ của lòng ưu ái và sự săn sóc Mẹ dành cho các con. Đây là dấu hiệu cứu rỗi. Giải thoát mọi hiểm nguy. Ai chết mà mang biểu hiện bình an này, sẽ khỏi bị lửa thiêu đời đời và Mẹ sẽ cứu họ khỏi lửa luyện tội vào ngày thứ bảy sau khi họ qua đời”.
Ngày lễ kính Đức Mẹ Camêlô hôm nay nhắc lại việc Đức Mẹ ban ân huệ đó. Và gốc tích Áo Đức Bà Camêlô phát xuất từ đây.
Ngoài ra, Đức Mẹ cũng cho Đức Giáo Hoàng Gioan 22 biết: những ai sống theo tinh thần Dòng Camêlô thì sẽ được Đức Mẹ cứu ra khỏi luyện ngục, ngày thứ bảy sau khi chết.
Từ đó, những ai không có điều kiện gia nhập Dòng mà tin tưởng lời hứa của Đức Mẹ, đều xin nhận áo Đức Bà Camêlô và mang trong mình hằng ngày cho đến chết. Việc sùng kính Đức Bà Camêlô ngày càng lan rộng khắp nơi trong Hội thánh. Có thể nói tất cả những ai có lòng mộ mến Đức Mẹ và mong được ơn chết lành đều mang áo nầy!
Năm 1726, Đức Giáo Hoàng Bênêđitô thứ 13 ban hành sắc lệnh mừng lễ Đức Mẹ Núi Camêlô trong toàn thể Giáo hội, để kính nhớ ngày Đức Mẹ hiện ra ban cho áo đặc biệt nầy.
Mừng kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Núi Cát-minh là một trọng trách và vinh dự của dòng Cát –minh. Nhưng, qua dòng tu nầy, Đức Mẹ nhiều lần đã hiện ra dạy bảo, nhắc nhở, và qua Hội Thánh, nhiều đời Đức Giáo Hoàng, nhất là Đức Gioan 22, Đức Mẹ đã ban áo Đức Bà Núi Cát –minh cho những ai tôn sùng Mẹ, hầu phượng thờ Thiên Chúa các chân thành,thì Đức Mẹ sẽ cứu người đó khỏi luyện hình ngay ngày thứ bảy của tuần đầu tiên người ấy qua đời.Như vậy, đủ lý do để cho thấy Hội Thánh lập lễ kính nhớ “sự kiện“ Đức Mẹ Núi Carmelo là có ý nhắc nhở con cái mình tôn kinh Đức Mẹ qua một “ đặc ân “ diễm phúc, vì vậy, được gọi là :”Đức Trinh Nữ Maria diễm phúc núi Cát Minh”.
Vâng, từ Car-me-lo được dịch sang Việt Ngữ là: Cát –minh, có nghĩa là : Ánh sáng tốt lành. Vâng, ánh sáng vốn dĩ là tốt lành, nhưng ánh sáng nhờ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa can thiệp, thì quả nhiên, ánh sáng ấy thật tốt lành, nhờ bởi sự diệu hiền và Từ Mẫu của Mẹ, đấng hằng chăm sóc Đức Kitô, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Như vậy, mỗi dòng tu đều có một đặc sủng riêng của dòng tu đó,(vì: “con đường thiêng liêng”của mỗi người mỗi khác,nhưng đích điểm chính là Thiên Chúa), theo linh đạo của đấng sáng lập dòng, nhưng dòng tu nào cũng nhận Đức Trinh Nữ Maria là bổn mạng thứ nhất hoặc, nhì của dòng tu đó. Theo đó, dòng Cát-minh là dòng tu kín được nhận Đức Mẹ là đệ nhất bổn mạng của dòng mình. Theo đó, qua dòng Cát-minh, nhờ bởi lời cầu nguyện và hy sinh, tức vác Thánh giá hằng ngày của các tu sĩ Cát-minh, Đức Mẹ sẽ tích cực chuyển cầu lên Thiên Chúa,để tình yêu và ân sủng của Ngài sẽ tuôn đổ trên Hội Thánh và chúng ta.
Tin mừng hôm nay Mt 12, 46-50, như muốn làm rõ hơn đặc tính chiêm niệm nơi tâm hồn của Đức Mẹ. Mẹ không những là Mẹ của Chúa Giêsu thật trong thể lý, nhưng cả trong tinh thần, trong tương quan với Thiên Chúa Cha “ Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, người ấy là mẹ tôi” ( x. c.50) và Mẹ Maria là mẫu gương sáng chói điển hình về phẩm tính này.
Chúa Giêsu đang giảng thuyết cho đám đông một bài thật dài vì người Do Thái cho rằng Chúa Giêsu dùng quyền quỷ vương mà trừ quỷ. Bài giảng này nêu bật mặt trong tâm hồn của họ : lòng đầy mới nói ra hoặc cây xấu thì sinh trái xấu. Trước sự cứng lòng của người Do Thái Chúa Giêsu khẳng định : họ chỉ còn thấy một dấu lạ của tiên tri Giona nữa mà thôi. Ấy chính là tiên báo về cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu.
Chúa cũng cảnh báo nếu tâm hồn họ trống rỗng không để Lời Chúa lấp đầy, thì sẽ là nơi cư trú thuận lợi của ma quỷ mà thôi. Đang say sưa với những tư tưởng trên, chợt có người đến báo cho Chúa Giêsu biết : mẹ và anh em Ngài đang chờ bên ngoài, muốn nói chuyện với Ngài ( c. 46-47). Lời nhắn gọi này nói lên sự khẩn thiết mong gặp mặt và cũng có thể là muốn lôi kéo Ngài thoát khỏi đám đông để tìm chỗ nghĩ ngơi, ăn uống… kẻ thưa lời nhắn gọi này cũng nghĩ rằng : Ngài sẽ bỏ dở bài giảng để đi gặp người thân trong gia đình.
Ở đây, chúng ta thấy nổi lên một sự giằng co giữa bổn phận thi hành sứ vụ và tình cảm gia đình. Đôi khi trên bước đường phục vụ. Nước Trời, chúng ta phần lớn bị ngăn cản bởi những người thân. Có người không giữ được ơn gọi tu trì cũng vì vâng lời cha mẹ. Có người không thể tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng là do công việc gia đình, tình cảm…. làm trì trệ.
Ở đây, chúng ta xem Chúa Giêsu có phản ứng thế nào trước lời mời gọi của gia đinh, sau bao ngày xa gia đình để dong duổi trên bước đường loan báo Tin Mừng. Ngài trả lời thẳng thắn với kẻ vừa thưa Ngài rằng : “ Ai là mẹ tôi ? Ai là anh em tôi ? ( c.48). Nghe câu hỏi này, chúng ta chợt sửng sờ. Phải chăng Ngài mất trí, không nhớ ra ai là mẹ, là anh em mình ? Nhưng ở đây Người không mất trí, Người vừa giảng xong một bài giảng đầy khôn ngoan và có logic mà. Lúc đó không biết Đức Mẹ và các anh em họ hàng bà con kia, nghe thấy lời này thì nghĩ gì ? Phản ứng ra sao ? Nhưng có lẽ chúng ta cũng thấy nhói tim, đau lòng… nếu một người chúng ta thương yêu phủ nhận như không quen biết chúng ta. Và kìa cánh tay Ngài giơ ra, hướng về các môn đệ và nói : Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Chắc hẳn các môn đệ hạnh phúc lắm khi nghe những lời này. Thật bõ công theo Thầy bấy lâu, nay được xếp vào những người thân thuộc của Ngài.
Chúa Giêsu nói tiếp : “ Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, Người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” ( c.50). Thế đã rõ câu trả lời của Chúa Giêsu khi xác nhận ai là họ hàng với Ngài : đó là những người thi hành ý Chúa Cha, là những người nghe Lời Chúa và đem ra thực hiện. Chắc hẳn lúc đó Mẹ Maria vui lắm, vì Mẹ biết không những Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu trong máu huyết nhưng còn được Chúa ưu ái đón nhận là Mẹ của Ngài, khi Mẹ “ ghi nhớ lời Chúa và suy niệm trong lòng” ( Lc 2,19). Khi Mẹ ghi nhớ và suy niệm thì chắc hẳn Mẹ đã sống tận căn Lời Chúa, đến nỗi Mẹ đã đứng hiên ngang dưới cây thập giá, đồng công cứu chuộc với con của Mẹ.
Theo đó, Đoạn Tin Mừng hôm nay ( Mt 11, 20-24) là Đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu quở trách những người cứng lòng tại thành Kho-ra-din và Bét-sai-đa. Còn thành Ca-phac-na-um thì cũng bị quở sẽ bị phạt nặng hơn thành Sô-đô-ma.
Theo đó, chúng ta thấy, sự kiện Đức Mẹ Núi Cát-minh và Mẹ đã ưu ái ban áo Đức Bà cho hội dòng nầy quản lý, là Đức Mẹ tuyên bố sẽ “can thiệp” và giúp đỡ cho kẻ cứng lòng biết mềm lòng, ăn năn trở lại cùng Chúa. Như vậy, Đoạn Lời Chúa hôm nay được lên đọc trong Lễ Đức Mẹ Núi Cát –minh, cho thấy một ý nghĩa tiên tri đối với nhân loại hôm nay, trong đó có chúng ta. Thật là có ý nghĩa,mong thay ! Xin cho chúng ta biết chạy đến với Đức Mẹ Núi Cát –minh qua “Áo dòng Đức Bà”, để được sự che chở của Đức Mẹ đấng Từ Mẫu của Con Thiên Chúa và của chúng ta. Amen
Nhân dịp này, chúng ta cùng nhau cảm tạ Thiên Chúa, để tôn kính Đức Mẹ Núi Cát –minh và tri ân toàn thể tu sĩ dòng Cát – minh trong sự thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa, vì nhờ sự cầu nguyện và hy sinh liên lỉ của hội dòng nầy suốt hơn tám thế kỷ qua, con thuyền Hội Thánh bớt nghiêng ngã.
2021
Hãy Ðến Với Chúa
15 06 Tr Thứ Năm Tuần XV Thường Niên.
Thánh Bô-na-ven-tu-ra, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
Thánh Phê-rô Nguyễn Bá Tuần, Linh mục (U1838); và Thánh An-rê Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông), Thầy giảng (U1855), Tử đạo.
Xh 3,13-20; Mt 11,28-30.
Hãy Ðến Với Chúa
Thánh Bonaventura cùng với Duns Scotus và Thomas thành Aquino hợp thành ba nhà tiến sĩ nổi danh của thần học kinh viện.
Ngài sinh năm 1221 tại Bagnoreggio gần Viterbo, nước Ý. Tên gọi của ngài là Gioan; khi còn bé ngài bị bệnh nặng và nhờ thánh Phanxico cứu cho, nên có tên là Bonaventura.
Ngài học triết lý và thần học tại Paris cùng với giáo sư Alexandre thành Hales.Khoảng năm 1243, ngài gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn. Ngài làm giáo sư tại Paris từ năm 1248 đến năm 1257.Từ năm 1257 ngài được bầu làm Bề Trên Cả của dòng cho đến khi qua đời năm 1274.Trong thời gian đó, Dòng phát triển cách lạ lùng và có đến 20.000 tu sĩ.
Trong 17 năm dưới sự dìu dắt của thánh Bonaventura, Dòng đã trải qua một thời gian vừa phẳng lặng vừa sâu sắc, khiến thánh nhân đã được coi như vị sáng lập thứ hai của Dòng. Là người có trí biện biệt chín chắn và vững vàng, ngài đã dung hòa được các khuynh hướng đối lập trong Dòng.
Thánh Bonaventura theo đường lối tu đức như thánh Benado. Theo ngài: “Con người mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa; càng biết rõ mình người ta càng nhận thấy hình ảnh cao quý ấy. Tất cả sinh hoạt của đời sống trọn lành tùy thuộc quan niệm riêng biệt người ta có đối với linh hồn của mình.” Thánh nhân là người đầu tiên trong lịch sử khoa tu đức, đã trình bày rõ rệt ba giai đoạn trọn lành: thanh đạo, minh đạo và hiệp đạo.
Ngoài ra thánh Bonaventura còn huấn luyện các tu sĩ biết chú trọng đến đức vâng lời và khiêm nhường.Muốn đạt tới hai nhân đức ấy, ngài dạy các thầy phải suy niệm và chiêm nghưỡng đời sống Chúa Kitô, nhất là cuộc tử nạn của Người.
Một trong các công việc chính thời còn làm Bề Trên Cả là việc xuất bản tập “Hiến Chương Narbome” mà sau này tất cả mọi bản Hiến Chương mới đều dựa trên đó. Ngài cũng đã viết bộ “Legenda major” là cuốn sách tiểu sử thánh Phanxico rất phổ biến.
Thánh nhân để lại tất cả 45 tác phẩm thần học về đủ mọi phương diện.Các học thuyết của ngài chịu ảnh hưởng rất nhiều của thánh Augustino. Theo quan niệm của ngài, thần học phải dẫn đến nhiệm hiệp tôn giáo, đến cảm nghiệm.
Vào năm 1265, ngài xin từ chối chức Tổng Giám Mục thành York nhưng ngày 18/05/1273 ngài phải nhận chức Hồng Y để đại diện cho Đức Thánh Cha Gregorio X đi dư Công Đồng chung Lyon. Tại công đồng, ngài là một thành viên tích cực tham gia vào các cuộc hội thảo đại kết với Anh Em Hy Lạp. Bản ký kết, thánh nhân qua đời ngày 15/07/1274 tại tu viện Anh Em Hèn Mọn ở Lyon, hưởng thọ 53 tuổi.
Đức Thánh Cha Sictus IV nâng ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1482; Đức Sixtus V nâng ngài lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm 1588 với tước hiệu là “Doctor Seraphicus” (Tiến Sĩ Chí Ái).
Trước những khó khăn, gánh nặng của cuộc sống hàng ngày, con người rất cần được nghỉ ngơi, thư giãn, bồi dưỡng cho thân xác, trí óc và tâm hồn. Nếu không họ rất dễ bị quá tải, suy nhược thần kinh, bị stress và đã có những người đã tự tử vì không đủ sức để tiếp tục sống. Tin mừng theo Thánh Matthêu (Mt 11, 28-30), Chúa Giêsu mời gọi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Chúa, Người sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng và hãy học với Chúa vì Người có lòng khiêm nhường và hiền hậu.
Không có ai dám kêu gọi người ta đến với mình để được an ủi đỡ nâng khi người đó biết mình sắp lìa cõi thế, ngoại trừ một mình Chúa Giê-su; mà lý do để làm thế là vì Ngài “hiền lành và khiêm nhường.” Hiền lành và khiêm nhường, đó là căn tính của Vị Thiên Chúa Làm Người: Ngài chiếu tỏa dung nhan hiền hậu của Chúa Cha, Đấng đầy lòng thương xót. Tin Mừng hôm nay vừa tiên báo cái chết đau thương của Con Chiên hiền lành bị đem đi xén lông và làm thịt, vừa là lời mời gọi mỗi người tin tưởng vào tình yêu của Chúa giữa cảnh đời buồn nhiều hơn vui, vất vả nhiều hơn sung sướng và khổ đau nhiều hơn hạnh phúc này.
Những ai đang phải vất vả mang gánh nặng nề: Gánh nặng của nỗi buồn đau và vấp ngã trong quá khứ; gánh nặng của trách nhiệm và yếu đuối hiện tại; gánh nặng phải mang vì người khác, gánh nặng của kiếp nhân sinh, gánh nặng của ơn gọi đi theo Chúa trong đời sống thánh hiến hay đời sống gia đình và cả gánh nặng của tội lỗi nữa, hãy mang tất cả đến cùng Chúa. Chúa luôn chờ đón để an ủi, xoa dịu những khổ đau cho chúng ta. Đến cùng Chúa chắc chắn chúng ta sẽ được nâng đỡ rất nhiều. Chúng ta tin tưởng bởi Chúa thành tín và giàu yêu thương. Mọi bệnh nhân đến với Chúa đều được Chúa cứu giúp; mọi tội nhân đến với Chúa đều được Chúa thứ tha; và tất cả những người khổ đau nghèo đói đến với Chúa đều được Chúa an ủi, trợ giúp.
Đến cùng Chúa không những chúng ta được trút bỏ những gánh nặng mà còn được học với Chúa, gương mẫu của sự hiền hậu và khiêm nhường. Học với Chúa chúng ta cần lắng nghe Lời của Ngài, Lời Chúa chính là lương thực nuôi sống chúng ta, là ngọn đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường cho chúng ta đi (Tv 119, 105). Hơn nữa, chúng ta cũng cần tìm đến và ở lại với Người trong lời cầu nguyện, suy ngắm và đặc biệt là nơi bí tích Thánh Thể. Bởi Chúa Giêsu đã khiêm nhường trở nên tấm bánh nuôi sống đoàn chiên và ở lại với đoàn chiên của Người.
Học với Chúa để trở nên hiền hậu và kiêm nhường cần thiết biết bao trong cuộc sống. Bởi những cơn giận bộc phát giữa vợ chồng có thể bào mòn tình yêu chân thật. Sự mất kiên nhẫn bực bội, nóng nảy, thù ghét oán hờn làm cho những mối tương quan trở nên căng thẳng, lãnh đạm, lạnh nhạt và mất tin tưởng. Sự hiền hòa và khiêm nhường theo gương mẫu Chúa Giêsu sẽ giúp cho chúng ta làm chủ được bản thân, sáng suốt trong những chọn lựa, đối xứ với mọi người với trái tim yêu thương, thông cảm và tha thứ. Niềm vui, bình an và hạnh phúc sẽ đến với mỗi người, mỗi gia đình và những người xung quanh.
“Những người đang vất vả mang gánh nặng nề”, trước tiên, là những ai đang mệt mỏi và chịu sức ép bởi giáo huấn của những con người “khôn ngoan và thông thái” đã được nói đến ở Mt 11,25. Chúa Giêsu tự giới thiệu về mình như là vị Tôn Sư, nhưng khác với thói đời tầm thường và chắc chắn khác với các kinh sư đương thời, Ngài không tìm cách thống trị hay chi phối các môn đồ. Ngài đi ngược lại xu hướng kiêu ngạo của các bậc thầy trong dân Israel bấy giờ. Những ai đón nhận giáo huấn của Ngài sẽ được Ngài cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.
Chúa Giêsu kêu gọi các đồ đệ mang lấy ách của Ngài. “Mang lấy ách” của Chúa Giêsu tức là chấp nhận những đòi hỏi phát xuất từ giáo huấn của Ngài. Ách của Ngài nhẹ nhàng và êm ái, hoàn toàn khác với ách của Lề Luật mà những kẻ “khôn ngoan và thông thái” bắt buộc người ta phải mang. Thay vì những luật lệ không mang lại niềm vui, Đức Giêsu đề nghị sự phục vụ trong niềm vui và trong tình bạn (9,15).
Trong Chúa Giêsu, những tâm hồn bé nhỏ sẽ được bình an và hạnh phúc như chính Ngài đã khẳng định: “Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,29b-30).
2021
Cần Trở Nên Bé Mọn
14 05 X Thứ Tư Tuần XV Thường Niên.
(Tr) Thánh Ca-mi-lô Len-li (Camillus de Lellis), Linh mục.
Xh 3,1-6.9-12; Mt 11,25-27.
Cần Trở Nên Bé Mọn
Tin Mừng hôm nay nằm trong loạt bài giảng về mầu nhiệm Nước Trời. Chúa Giêsu đã thực hiện nhiều phép lạ nhưng một số dân thành Caphanaum, Khôradin và Bếtxađa tỏ ra cứng tin và không chịu sám hối. Chúa Giêsu liền quở trách họ và khẳng định trong ngày phán xét đất Xơđôm là vùng của dân ngoại sẽ được xử khoan hồng hơn.
Sau đó Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện rằng: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. Cha tôi đã trao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho”.
Trong lời cầu nguyện này, Đức Giêsu tỏ thái độ kính trọng và tôn vinh Chúa Cha là chủ thể sáng tạo. Người cũng là Đấng Khôn Ngoan Thượng Trí biết rõ ai là người xứng đáng lãnh nhận mầu nhiệm Nước Trời. Đây là lời cầu nguyện phát xuất từ trái tim, Chúa Giêsu luôn sống gắn bó mật thiết với Chúa Cha trong từng cử chỉ, lời nói, hành động và hoàn toàn vâng phục ý muốn của Chúa Cha.
Theo quan niệm của Do Thái, người khôn ngoan thông thái ở đây là những kinh sư kiêu căng tự cho mình là công chính, có nhiều kiến thức và am hiểu sách Luật. Họ như chiếc bình đóng kín nên không thể đổ thêm điều gì nữa.
Còn người bé mọn là ai? Họ chính là những người “vô danh tiểu tốt”, tầm thường không được ai biết đến. Họ là những bà góa không ai bảo vệ, những trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người thất học, bệnh tật bị xã hội bỏ rơi. Những người nghèo thường có thái độ đơn sơ khiêm tốn biết mình còn thiếu thốn, họ sẵn sàng mở lòng ra để lắng nghe tiếng Chúa. Họ như mảnh đất khô mong đợi những cơn mưa mùa hạ. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu là vị thánh trổi vượt về tinh thần đơn sơ phó thác. Thánh nữ luôn tin tưởng tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và đã xác tín rằng: “Tất cả những gì Thiên Chúa ban cho con, con đều ưa thích, ngay cả những sự xem ra không tốt lành và không đẹp đẽ bằng những điều Chúa ban cho người khác”.
Người bé mọn là người nhận thức được những giới hạn của chính mình trước ân huệ cao quý đến từ Thiên Chúa. Đây phải là thái độ cần có đối với những ai muốn lãnh nhận mầu nhiệm Nước Trời. Đức hồng y Henri Nouwen chia sẻ cho chúng ta một kinh nghiệm sống gắn bó với Thiên Chúa để lãnh nhận mặc khải Nước Trời: “Có những chuyện bạn hoàn toàn bất lực và không thể tự mình làm được. Hãy bắt đầu bằng việc thú nhận mình không thể tự chữa lành. Bạn phải hoàn toàn nhận mình bất lực để Thiên Chúa chữa lành. Khi chấp nhận mình bất lực là bắt đầu bạn để Thiên Chúa hành động. Hãy xem mình như một hạt giống nhỏ bé được gieo trong miếng đất màu mỡ. Tất cả những gì bạn phải làm là cứ ở đó tin tưởng rằng miếng đất có mọi thứ bạn cần để được lớn lên. Hãy bình tĩnh nhận mình bất lực và tin chắc có ngày bạn sẽ nhận được nhiều đến chừng nào”.
Chúa Giêsu chính là Ađam mới trong sự khiêm tốn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người là lời mặc khải yêu thương của Chúa Cha dành cho nhân loại. Người đã được Cha ưu ái giao phó cho sứ mạng cứu rỗi nhân loại. Đức Giêsu đã chọn con đường tự hủy ra không để kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện. Suốt những năm tháng đi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã đến những người nghèo, đồng cảm với hoàn cảnh của bà góa, đưa về đàn con chiên đi lạc, thao thức tìm kiếm những gì đã hư mất. Một Madalêna tội lỗi, một Giakêu thu thuế, một Phêrô thất trung và một Giuđa phản loạn…tất cả đều được cứu chuộc theo lòng từ bi của Thiên Chúa. Đáng thương thay đôi lúc chúng ta lại không nhận mình là người tội lỗi. Chúng ta xây tháp Babel để được bằng Thiên Chúa, tự mãn với những thành công mà quên rằng không có Chúa, chúng ta không thể làm được điều gì.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống tâm tình khiêm tốn, dám phó thác cuộc đời mình cho sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa. Hãy cám ơn Chúa vì niềm hạnh phúc lớn lao được làm con cái Chúa, được lãnh nhận mặc khải Nước Trời. Hãy đặt bàn tay nhỏ bé của ta trong bàn tay rộng lớn của Chúa để Người dẫn chúng ta đến bến bờ yêu thương, đến chân trời rộng mở và đến nguồn sống đích thực. Hãy xác tín một điều Thiên Chúa thấu hiểu chúng ta hơn chúng ta hiểu biết chính mình. Thiên Chúa quảng đại ban cho chúng ta những điều tốt đẹp hơn những gì chúng ta ước muốn và cầu xin.
Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người; Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự thật của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mọi người, không phân biệt, nhưng từ phía con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái, tự cao, cho mình thuộc một nhóm nhỏ tách rời khỏi đại đa số dân chúng.
Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm Biệt Phái đang đứng trong hành lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo và chống đối Chúa. Họ đến với Chúa bằng con đường của sự thông hiểu về luật Môsê; họ cho rằng chỉ cần am tường lề luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như trong truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.
Con đường Chúa Giêsu mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là Ngài, mà mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nếu cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình, con người sẽ không gặp được Thiên Chúa, nhưng nếu để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, con người có thể đạt tới sự thông hiệp với Thiên Chúa và được cứu rỗi: “Lạy Cha, con chúc tụng Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mạc khải cho những người bé mọn”.
Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Tin Mừng, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người. Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quí báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không có ý loại bỏ những bậc thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái rằng họ sẽ không đến được với Chúa, không có đủ điều kiện để lãnh nhận mạc khải của Chúa. Tuy nhiên, không thiếu những trường hợp có sự hòa hợp giữa thông thái và đức tin Kitô giáo. Thánh Tôma Tiến sĩ là một điển hình. Nói chung, thái độ khiêm tốn để Chúa soi sáng hướng dẫn là điều căn bản cần phải có luôn.
2021
SÁM HỐI
13 04 X Thứ Ba Tuần XV Thường Niên.
(Tr) Thánh Hen-ri-cô.
Xh 2,1-15a; Mt 11,20-24.
SÁM HỐI
Chúa Giêsu lên tiếng chúc dữ một số thành phố như Corazin, Betsaida. Cuộc sống vật chất sung túc làm cho con người sa đọa, đồng thời chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình; chính trong tương quan với tha nhân mà con người nên thành toàn hơn, do đó gia đình và xã hội là nhân tố thiết yếu cho sự phát triển toàn diện con người.
Làng mạc, thành phố, đô thị, tự nó là những xã hội cần thiết để con người xây dựng các tương quan và nhờ đó phát triển nhân cách. Tuy nhiên, thay vì giúp con người phát triển, các đô thi thường lại đày đọa con người vào nỗi cô đơn và chối bỏ mối tương quan với Thiên Chúa. Sự trống rỗng trong lòng người dân đô thị cũng là dấu chỉ sự vắng bóng Thiên Chúa. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người biết rằng chỉ trong Thiên Chúa, con người mới có thể tạo được tương quan đích thực giữa người với người. Loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, con người không những rơi vào sa đọa, mà còn cắt đứt mọi tương quan với tha nhân.
Chúa Giêsu đã đến trần gian loan báo Tin mừng tình thương và Ngài mời gọi con người “Hãy sám hối và tin vào Tin mừng.” Bản thân Ngài chính là tin mừng cứu độ, là nguồn ơn giải thoát. Để củng cố cho lời rao giảng, Ngài đã thực hiện nhiều phép lạ chữa lành, xoa dịu nỗi khổ đau của chúng sinh. Thế nhưng con người với bản tính ích kỷ, lòng dạ kiêu căng đen tối không đón nhận Tin mừng Ngài đem đến đã khiến Ngài phải nặng lời quở trách: “ “Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din ! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa !
Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối….” Kho-ra-din, Bết-xai-đa, Ca-phác-na-um là những thành phố ven biển hồ Ga-li-lê khá phồn thịnh và có trình độ văn hóa; Là những nơi đã in nhiều dấu chân rao giảng của Đức Giê-su, đã chứng kiến phần lớn những phép lạ người làm. Nhưng có lẽ sự kiêu căng và tự mãn bởi giàu sang và tri thức đã khép lòng họ, khiến họ không thể mở lòng đón nhận Tin mừng của Ngài để sám hối và canh tân.
Sám hối – một từ quá quen thuộc, người ta có thể rất hay nói về nó, có thể dùng nhiều từ hoa mỹ để diễn tả, hoặc đọc kinh để sám hối, hay xưng tội để sám hối…,nhưng lại không hiểu hết ý nghĩa của nó.
Vì đã sám hối là phải canh tân, là cuộc sống phải biến đổi. Muốn sám hối người ta phải có lòng khiêm tốn biết mình, nhận ra ân huệ và tình thương Chúa dành cho mình trong cuộc sống, nhận ra tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa và tình thương yêu của Người, nhận ra những sai trái lầm lỗi của mình, thật lòng thống hối và quyết tâm sửa chữa. Giáo lý nhà phật coi sám hối như là một cách tu luyện để được tái sinh: “Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh…đoạn ác tu thiện mới chính là sám hối.” (văn phát nguyện sám hối). Chúa Giêsu mời gọi sám hối – Ngài đã thiết lập bí tích hòa giải, hay còn gọi là bí tích sám hối như một phương thế để người Ki-tô hữu có điểm dừng, có hồi tâm xét mình để biết mình, để hoán cải sửa chữa những lầm lỗi. Thế nhưng có được bao người Ki-tô hữu lãnh nhận bí tích hòa giải trong tinh thần sám hối thực sự, hay coi đó chỉ như hành vi đi “đổ rác”, hoặc để giữ luật, hoặc chỉ vì gượng ép…. Vì thế mà tội xưng xong thì “mèo lại vẫn hoàn mèo” – Không có gì đổi mới, không có gì canh tân.
Kho-ra-din, Bết-xai-đa, Ca-phác-na-um đã được nghe biết Tin mừng của Chúa Giêsu, thấy những phép lạ Người làm, nhưng họ không tin, không sám hối, và Chúa Giêsu nói rằng họ sẽ bị xét xử nặng hơn Tia và Xi-đôn là những thành phố ngoại đạo tội lỗi. Ngày nay Ki-tô hữu chúng ta cũng có rất nhiều cơ hội để nghe và học hỏi Tin mừng của Chúa, đặc biệt qua thánh lễ chúng ta tham dự hằng ngày, hằng tuần; Nhưng lời Chúa có biến đổi cuộc đời ta, có giúp chúng ta sám hối mỗi ngày?
Tin và sám hối là hai việc làm đi đôi, là tương quan hai chiều. Tôi chưa sám hối bởi đức tin của tôi yếu kém, đã khô héo hoặc đã chết. Tin vào Đức Giê-su, vào Tin mừng của Ngài chúng ta không thể tiếp tục ‘đường xưa lối cũ’. Nếu sám hối thực sự, Ki-tô hữu sẽ “nên thánh như Cha trên trời là Đấng thánh”. Sám hối làm cho St. Phê-rô đã từng ba lần chối Chúa được lên tông đồ cả; đã làm cho Madalena – một cô gái điếm trở nên chứng nhân loan báo tin mừng phục sinh đầu tiên, cho St. Augustinh từng rối đạo, mê lầm trong tội lỗi trở nên người bảo hộ đức tin giáo hội qua tổng luận thần học và được tước hiệu Tiến sĩ Hội thánh….
Lắng nghe Lời Chúa, đó là bí quyết để xây dựng cuộc sống xã hội, thắt chặt quan hệ với tha nhân và trở nên thành toàn. Ðó là điều Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: con người không thể xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu loại bỏ Thiên Chúa và những giá trị thiêng liêng ra khỏi cuộc sống.
Sám hối là trở về với Cha, công nhận quyền tối thượng của Người trên cuộc đời mình, sẵn sàng vâng mệnh, thi hành thánh ý của Người trong cuộc sống; là biết nói không với những gì có thể kéo ta xa rời Thiên Chúa. Sám hối là mở rộng tâm hồn mình cho hồng ân Chúa đến như mưa tuôn thấm nhuận làm cho đất khô cằn trở nên phì nhiêu phát sinh hoa thơm trái tốt.
Sám hối tuy là một tiến trình, nhưng nó cần có một khởi điểm. Khởi điểm này là lời đáp trả ban đầu đối với tiếng gọi của Thiên Chúa, một đáp trả dứt khoát chứ không chần chừ, quyết liệt chứ không hứa hẹn. Ngay từ bước khởi đầu, hối nhân để cho ân sủng Chúa thấm vào tâm hồn bị thương tích của mình và chấp nhận chỗi dậy bước đi trong tiến trình chữa lành. Sẽ không có một tiến trình trở về với Chúa, nếu không có bước khởi đầu này. Bước khởi đầu này dù chỉ là một dấu chấm, nhưng là một dấu chấm quan trọng, không thể thiếu, để khởi dẫn cho nhiều dấu chấm khác, làm thành một đường thẳng tắp hướng về trời. Dân thành Tia và Xi-đôn nhanh chóng khởi đầu hành trình sám hối của họ sau khi nghe Lời Chúa, không tính toán, do dự. Đối với họ, hạnh phúc bắt đầu từ bước khởi đầu đó.