2021
THEO CHÚA NHƯ THÁNH MATTHÊU
21 15 Đ Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên.
THÁNH MÁT-THÊU, TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ TIN MỪNG, lễ kính.
Kinh Tiền Tụng các Thánh Tông đồ.
Thánh Phan-xi-cô Jac-ca Phan (Francois Jaccard), Linh mục (U1838); và Thánh Tô-ma Trần Văn Thiện, Chủng sinh (U1838), Tử đạo.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Ep 4,1-7.11-13; Mt 9,9-13.
THEO CHÚA NHƯ THÁNH MATTHÊU
Việc tôn kính thánh Matthêu ở Roma lên tới thế kỷ V. Hồi đó người ta mừng lễ Ngài trong nhà thờ lớn đường Merulana, và đến thế kỷ VIII lễ kính được thiết lập, có cả lễ vọng. Lễ ngày 21 tháng 9 như hiện nay là theo sổ tử đạo của thánh Jérôme, nhưng ở phương Đông mỗi nơi định mỗi khác tùy theo họ thuộc nghi lễ Byzance và Syrie (16 tháng 9) hay Coptes (9 tháng 9).
Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: “Hãy theo Ta”.
Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Ðó là mầu nhiệm đức tin. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha. Thái độ, cử chỉ, hành động của Chúa trong mọi lần mời gọi tông đồ đều làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của mầu nhiệm ơn gọi. Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ: “Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi” (Mt 9, 13) và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9, 12).
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh. Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: “Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế tội lỗi tên là Lêvi (sau này là tông đồ Mátthêu) theo Chúa nhắc chúng ta nhớ lại sự thật: Chúa Giêsu không còn là Chúa, là Ðấng cứu thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Lời xác nhận của Chúa Giêsu không ngừng vang dội và mang lại hy vọng cho con người. Ai là kẻ công chính hoàn toàn vô tội trước nhan Thiên Chúa đến độ không cần tới ân sủng của Thiên Chúa, không cần đến Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót, giàu lòng từ ái, chậm bất bình và hết sức khoan dung nhưng chúng ta đừng vì đó mà lạm dụng và ngồi lì trong tật xấu, trong những tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi để chữa lành, để đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, được sống trong tự do thật của những con cái Thiên Chúa. Chỉ mình Chúa là Ðấng yêu thương vô cùng và quyền năng vô biên mới có thể đối xử đại lượng được như vậy với những tật xấu, những tội lỗi của con người.
Chúa Giêsu khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho dân ngoại xâm, cũng như bị lên án là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Tin Mừng.
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh.
Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
Cuộc sống của người được mời gọi theo Chúa Kitô, như tất cả chúng ta đều thấy, không thể giống như cuộc sống của người anh trong dụ ngôn người con hoang đàng. Anh ta trung thành sống bên cha, làm việc chăm chỉ, và không phung phí tài sản của cha. Tuy nhiên, anh ta thiếu niềm vui và đức ái đối với em trai mới sám hối trở về của anh. Anh ta là biểu tượng rõ nét của loại người công chính nhưng không hiểu được niềm vui được sống bên Chúa và tình thân với tha nhân. Phụng sự Chúa tự thân là một phần thưởng đúng nghĩa, bởi vì phụng sự Chúa là được cùng Người cai trị. Thiên Chúa muốn chúng ta phụng sự trong vui tươi, chứ không miễn cưỡng, bởi vì Thiên Chúa yêu thương người hiến dâng vui tươi. Lúc nào cũng có rất nhiều lý do để vui tươi, tạ ơn và hạnh phúc khi chúng ta được hiến thân cho Chúa và tích cực đáp lại tiếng gọi của Người.
Chúa Giêsu Kitô đến bên từng người chúng ta – cho dù chúng ta đang sống trong độ tuổi hoặc hoàn cảnh nào – và ánh nhìn của Chúa tiếp xúc với ánh mắt chúng ta một cách cá biệt. Người mời gọi chúng ta bước theo. Trong hầu hết các trường hợp, Chúa để chúng ta lại giữa trần gian, công việc, và gia đình. Hãy suy nghĩ về điều Chúa Thánh Thần đã phán, và hãy để bạn biết sợ hãi và tri ân: Người đã tuyển chọn chúng ta trước khi tạo dựng thế gian
2021
Vai Trò Của Người Phụ Nữ
17 11 X Thứ Sáu Tuần XXIV Thường Niên.
(Tr) Thánh Rô-béc-tô Ben-lác-mi-nô (Robert Bellarmine), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
Thánh Em-ma-nu-en Nguyễn Văn Triệu, Linh mục (U1798), Tử đạo.
1Tm 6,2c-12; Lc 8,1-3.
Vai Trò Của Người Phụ Nữ
Rôbertô sinh ngày 4 tháng 10 năm 1541 tại Montepuciano nước Ý Ðại Lợi trong một gia đình đạo đức và thánh thiện. Mẹ Ngài là Cynthia Cervin,Chị ruột của Ðức Giáo Hoàng Marcellô II.Ngay từ lúc còn nhỏ,thánh nhân đã tỏ ra là một cậu bé đạo đức,hiền lành,khiêm nhượng và đơn sơ. Vốn thông minh sẵn có,thánh nhân đã rất thành đạt trong việc học vấn.Lên 18 tuổi, Ngài xin gia nhập Dòng Tên ở La Mã
Ngài dược nhận vào Dòng Tên và được gửi đi du học ở Louvain vào năm 1569.Rôbertô đã được phong chức linh mục ngay sau khi mãn học ở Louvain. Với trí thông minh,với học vấn uyên thâm, Ngài đã được chọn làm giáo sư ngay tại đại học Louvain trong 6 năm liên tiếp.Trong thời gian làm giáo sư đại học, Ngài đã tổ chức nhiều cuộc tranh luận về đủ mọi đề tài và bao giờ Ngài cũng giải đáp các vấn đề ấy một cách rành rẽ và thỏa đáng.Ngài được cử làm giám tỉnh Dòng Tên ở Naples. Năm 1596, Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê IV phong làm Hồng Y,nhưng với lòng khiêm nhượng, Ngài không mang sắc phục Hồng Y. Năm 1602,
Ngài được phong chức giám mục.
Bất cứ giữ chức vụ nào,ở trong cương vị nào,thánh nhân cũng hoàn thành xuất sắc công việc được Bề Trên trao phó.Ngài giảng giải rõ ràng Tin Mừng của Chúa,bố thí và củng cố đức tin,tinh thần đạo đức cho mọi giới trong Giáo Hội.Thánh nhân được đề cử giữ nhiều chức vụ trong bộ truyền giáo và nghi lễ.Ngài phải đương đầu với nhiều cuộc tranh luận về quyền bính của Ðức Giáo Hoàng và về giáo điều Ðức Maria trọn đời đồng trinh.Thánh nhân đã viết rất nhiều sách có giá trị nói về tu đức.
Thánh nhân là hoa quả quí giá ,Chúa ban cho đất nước Ý Ðại Lợi. Ðóa hoa tươi đẹp,Chúa hái về vào ngày 17/9/1621 sau một cơn sốt nặng khi Ngài đang tĩnh tâm hằng năm tại Dòng Thánh Anrê.Ðức Thánh Cha Benoit XV đã phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1930.
Với cuộc đời thánh thiện của thánh giám mục Robertô,nhân loại như nhận ra rằng: thánh nhân đã sống hết mình với bổn phận,trong mọi chức vụ,trong mọi cương vị,thánh nhân đã đem hết tài sức để phục vụ mọi người.Ngài muốn nói với nhân loại:chỉ có tình yêu mới làm được mọi sự . Thánh nhân đã làm mọi sự vì tình yêu,vì sáng danh Chúa.Ngài đã để lại nhiều sách tu đức rất có giá trị . Với những tư tưởng rút ra từ phúc âm,với lòng trung thành với giáo lý chân chính của Chúa Kitô,thánh nhân đã nhắc nhở nhân loại:” hãy gắn bó với Chúa,hãy học hỏi nơi Chúa và chỉ nơi Chúa,nhân loại mới tìm được sự an bình và hạnh phúc”.
Thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Edith Stein trước khi trở lại công giáo đã từng là một triết gia nổi tiếng. Thánh nữ đã trở lại công giáo sau khi đọc tiểu sử của thánh nữ Têrêsa Avila. Và mười hai năm sau khi chịu phép rửa đã vào tu trong dòng Kín. Không giống như thánh nữ Têrêsa, Edith Stein vốn là người đàn bà vụng về trong công việc nội trợ trong nhà dòng.
Tuy nhiên, theo chứng từ của những người còn sống sót trở về từ các trại tập trung Ðức quốc xã, thánh nữ Edith Stein đã luôn giữ vững được tinh thần và là người đứng ra chăm sóc cho các thiếu nhi cùng bị giam giữ với mẹ chúng trong các trại tập trung Ðức quốc xã.
Bí quyết để thánh nữ có thể giữ vững được tinh thần và nâng đỡ những người chung quanh chính là luôn sống giây phút hiện tại và đặt cả niềm phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cũng giống như thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thánh nữ Edith Stein luôn sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại.
Tin Mừng hôm nay nhắc tới tên của một số người phụ nữ đã được Chúa Giêsu chọn làm cộng tác viên của Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc trong chương trình của Ðấng cứu thế. Tuy không được chọn làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ.
Vai trò của họ lại càng quan trọng và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.
Hôm nay ta cũng thấy cách cư xử của Chúa đối với nữ giới. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến, có người đã từng bị quỉ ám, bị người đời khinh khi, xua đuổi, bị dân chúng coi là những người tội lỗi, có mặt trong đoàn truyền giáo của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng trong Giáo hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ mà còn muốn đề cao sự bình đẳng của người phụ nữ, muốn giải phóng người phụ nữ khỏi suy nghĩ hạn hẹp của những người đương thời. Đối với Chúa Giêsu, mọi người bất luận là ai, cũng đều được mời gọi để loan báo Tin Mừng qua cách sống cũng như qua giới tính của mình.
Mỗi phần tử trong Giáo Hội đều có một chỗ đứng, một vai trò riêng. Tất cả đều bổ túc cho nhau, để cùng nhau phục vụ hầu mở mang Nước Chúa. Trong chiều hướng tư tưởng này, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội ý thức và dấn thân cho công việc truyền giáo, không phân biệt giới tính, địa vị, giai cấp, khả năng…tất cả là vì tin mừng Chúa Kitô.
Sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin mừng, không chỉ dành riêng cho nam giới. Theo như thánh sử Luca hôm nay cho biết, thì trong đoàn truyền giáo của Chúa Giêsu, ngoài những môn đệ mà Chúa đã tuyển chọn, còn có các phụ nữ nữa.
Như vậy chứng tỏ Chúa Giêsu tôn trọng phẩm giá người phụ nữ và đánh giá cao phần đóng góp của họ trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta có một quan niệm đúng đắn hơn về người nữ để biết tôn trọng, yêu thương họ. Đồng thời chúng ta cũng cầu xin cho chính những người phụ nữ biết ý thức được phẩm giá cao quý của họ, hầu sống xứng đáng và góp phần tích cực vào những công việc tông đồ trong Giáo hội.
2021
Lòng sám hối
16 10 Đ Thứ Năm Tuần XXIV Thường Niên.
Thánh Co-nê-li-ô, Giáo hoàng, và thánh Sip-ri-a-nô, Giám mục, Tử đạo, lễ nhớ.
1Tm 4,12-16; Lc 7,36-50.
Lòng sám hối
Sau khi Thánh Fabian tử vì đạo thì Giáo Hội thời bấy giờ không có giáo hoàng trong vòng 14 tháng, vì sự bách hại quá mãnh liệt. Trong thời gian ấy, Giáo Hội được điều hành bởi một tập thể linh mục. Cyprian, một người bạn của Cornelius, viết lại rằng Cornelius được chọn làm giáo hoàng “bởi quyết định của Thiên Chúa và của Ðức Kitô, bởi sự chứng thực của hầu hết mọi giáo sĩ, bởi lá phiếu của người dân, với sự đồng ý của các linh mục lớn tuổi và những người thiện chí”.
Trong thời gian hai năm Thánh Cornelius làm giáo hoàng, vấn đề lớn nhất thời bấy giờ có liên quan đến Bí Tích Hòa Giải và nhất là vấn đề tái gia nhập Giáo Hội của các Kitô Hữu đã chối đạo trong thời kỳ bị bách hại. Cả hai thái cực đều bị lên án. Ðức Cyprian, giám mục của Phi Châu, yêu cầu đức giáo hoàng xác định lập trường mà Ðức Cyprian chủ trương, đó là người bội giáo chỉ có thể hoà giải bởi quyết định của vị giám mục (trái với thông lệ thật dễ dãi của Novatus).
Tuy nhiên, ở Rôma, Ðức Cornelius lại gặp một quan điểm đối nghịch khác. Sau cuộc bầu giáo hoàng, một linh mục tên Novatian (một trong những người điều hành Giáo Hội) tự mình tấn phong làm Giám Mục Rôma – giáo hoàng đối lập đầu tiên. Novatian chủ trương rằng, không những người bội giáo, mà ngay cả những người phạm tội sát nhân, tội ngoại tình, tội gian dâm hay người tái hôn thì Giáo Hội cũng không có quyền tha tội! Ðức Cornelius được sự hỗ trợ của hầu hết mọi người trong Giáo Hội (nhất là Ðức GM Cyprian ở Phi Châu) để lên án chủ thuyết của Novatian, dù rằng giáo phái này kéo dài trong vài thế kỷ.
Vào năm 251, Ðức Cornelius triệu tập thượng hội đồng ở Rôma và ra lệnh những người “sa ngã” được hòa giải với Giáo Hội qua “bí tích hoà giải” thông thường.
Một tài liệu từ thời Ðức Cornelius, cho thấy sự phát triển của Giáo Hội Rôma trong giữa thế kỷ thứ ba, mà lúc ấy gồm 46 linh mục, bảy phó tế, bảy trợ phó tế. Số Kitô hữu được ước lượng khoảng 50.000 người.
Thánh Cornelius từ trần vì hậu quả của sự lưu đầy ở phần đất bây giờ là Civita Vecchia.
Thật đúng để nói rằng trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều giáo thuyết lầm lạc được đưa ra vào một thời điểm nào đó. Thế kỷ thứ ba đối diện với một vấn đề mà ít khi chúng ta để ý đến – một khi đã phạm tội trọng thì phải sám hối trước khi giao hoà với Giáo Hội. Những người như Thánh Cornelius và Thánh Cyprian, là công cụ của Thiên Chúa để giúp Giáo Hội tìm ra con đường khôn ngoan giữa hai thái cực của sự nghiêm khắc và sự lỏng lẻo. Họ là những phần tử của một Giáo Hội truyền thống đầy sinh động, nhằm đảm bảo tính cách liên tục của những gì đã được Ðức Kitô khởi sự, và lượng giá những cảm nghiệm mới qua sự khôn ngoan và kinh nghiệm của những người đi trước.
Giáo Hội hôm nay cũng tôn vinh thánh Síp-ri-a-nô,giám mục. Thánh nhân sinh vào năm 200 tại Phi Châu trong một gia đình ngoại giáo, giầu sang,phú quí. Với, dòng dõi quí phái, Ngài chắc chắn có một chỗ đứng vững chắc trong xã hội lúc đó. Nhưng không, Ngài đã trở lại đạo công giáo và với ơn Chúa thúc đẩy, thánh nhân đã bán hết gia sản,phân chia cho người nghèo khó đúng như lời Chúa nói trong bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó.” và cũng đúng lời Chúa thúc giục chàng thanh niên giầu có:” Anh hãy về bán hết của cải,phân chia cho người nghèo.”.
Thánh nhân đã thực hiện lời Chúa cách triệt để vì thế mới theo Chúa có một năm, lòng nhiệt thành truyền giáo của Ngài đã vang dôi khắp nơi,được rất nhiều người biết tới.Thánh nhân được gọi lên chức linh mục và sau đó được đề cử giữ chức giám mục thành Carthage.Phi Châu lúc đó sống trong lo sợ vì bạo vương Ðêciô ra tay triệt để tàn sát các người công giáo. Giữa hoàn cảnh cực kỳ khó khăn như vậy, Ðức Cha cảm thấy phải đảm bảo an toàn, điều khiển Giáo phận âm thầm hơn là đương đầu với kẻ thù cách vô ích. Ngài đã rút vào nơi bí mật để điều khiển Giáo phận. Ngài đã viết nhiều thư mục vụ luân lưu để khích lệ các Kitô hữu đang bị giam cầm, can đảm,trung thành với Giáo Hội và những kẻ chối đạo trở về với Hội Thánh. Cuộc cấm đạo và bắt bớ tạm yên, Ngài phải lo kiếm tiền,kiếm của cải để giải thoát cả trăm ngàn Kitô hữu giáo phận của Ngài đang bị bắt làm nô lệ.Thánh nhân phải đương đầu với bè rối Novatianô và đã viết nhiều sách kêu gọi họ quay trở về với Giáo Hội.
Valêrianô vào năm 257,ban hành sắc lệnh cấm đạo lần nữa cách gay gắt hơn. Thánh nhân bị bắt và bị đầy ở đảo Curubi . Thánh Síp-ri-a-nô bị buộc dâng hương tế thần,Ngài nhất quyết từ chối.Ngày 14/9/258,thánh nhân được phúc tử vì đạo.
Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa”.
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.
Với tình yêu Chúa chân thành, thì một cử chỉ nhỏ mọn cũng trở thành của lễ dâng đẹp lòng Chúa. Vậy, mỗi lần đọc kinh, dâng lễ, hay làm những nghĩa cử chia sẻ cho người khác, hoặc làm những việc khổ chế thân xác để bày tỏ lòng sám hối ăn năn, hay bất cứ việc nhỏ bé nào, bạn hãy làm vì lòng mến Chúa. Thánh Phaolô nhắc bạn rằng giả như bạn có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác để thiêu đốt, mà không có lòng mến, thì chẳng ích gì (1Cr 13,3).
2021
Bi thương nhưng không mất đường hy vọng
15 09 Tr Thứ Tư Tuần XXIV Thường Niên.
Đức Mẹ sầu bi, lễ nhớ.
Lễ nhớ có bài đọc riêng:
Hr 5,7-9; Ga 19,25-27 hoặc Lc 2,33-35.
Bi thương nhưng không mất đường hy vọng
Liền sau lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa được mừng hàng năm vào ngày (14/09) là lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi (15/09), chúng ta không thể nào tách rời Mẹ Maria ra khỏi thập giá Chúa. Danh gọi lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi có thể làm chúng ta dễ hiểu lầm chỉ nghĩ đến khía cạnh sầu bị, đau buồn mà quên đi khía cạnh tích cực được tham dự vào sự đau khổ có sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa. Mẹ Maria âm thầm dâng hiến chính mình cùng với hy tế của Con, được lãnh nhận đặc ân là tham dự vào cuộc cứu rỗi trở nên người Mẹ của toàn thể nhân loại.
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo hội mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Ngẫm nghĩ đến việc mừng lễ Đức Mẹ sầu bi, dường như ta cảm thấy có cái gì đó kỳ kỳ, không ổn thì phải! Đời thuở nhà ai lại đi ăn mừng lễ một người mẹ khi người mẹ đó gặp cảnh sâu thảm, bi thương vì phải chứng kiến cái chết của con mình bao giờ! Ở trong nỗi khổ đau, sầu bi thì làm sao có cái gì để mà ăn mừng?!
Thực ra, hôm nay mừng lễ Đức Mẹ Sâu Bi, Giáo hội nhắc nhớ cho chúng ta biết về giá trị của hạnh phúc, giá trị của niềm hy vọng trong chính nỗi khổ đau và chết chóc. Ngay ở bài đọc 1 trích trong thư gửi tín hữu Do thái hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về niềm hy vọng trong đau thương, hoạn nạn. Tác giả thư Do thái viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Chúa Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính”.
Suy gẫm đoạn lời Chúa này, bấy lâu nay ta không khỏi thắc mắc: Chúa Giêsu Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà xin Cha Ngài khỏi phải chết và rõ ràng tác giả thư Do thái bảo rằng Ngài đã được nhậm lời! Nhưng thực tế, Chúa Giêsu vẫn phải chết tức tưởi trên thập giá! Vậy nghĩa là sao?
Lời kêu xin của Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chấp nhận ở chỗ: Thiên Chúa Cha đã cho Ngài được bình an đón nhận cái chết, và đón nhận cái chết với một niềm tin tưởng, hy vọng, chứ không thất vọng ê chề. Trong đời sống thường ngày, chúng ta đã từng chứng kiến hoặc kinh nghiệm được rằng trước những tai ương, hoạn nạn, khổ đau, nhiều người chưa kịp chết về đàng thân xác, nhưng đã bị hoạn nạn, khổ đau giết chết về đàng tinh thần rồi! Đối với Chúa Giêsu thì khác, hoạn nạn, khổ đau có thể giết chết Ngài về đàng thân xác, nhưng tinh thần của Ngài không bao giờ bị vùi dập, bị giết chết. Tâm hồn Ngài vẫn tràn trề niềm cậy trông và phó thác vào Cha Ngài.
Với Mẹ Maria cũng vậy, dù phải đứng dưới chân thập giá và phải chứng kiến cái chết thảm thương của con Mẹ là Chúa Giêsu, nhưng lòng mẹ vẫn ngập tràn niềm tín thác vào quyền năng và tình thương của Đấng Tối Cao. Về mặt xác thịt con người, chắc chắn lòng mẹ không khỏi tan nát, buồn đau, nhưng trong lòng tin, Mẹ vẫn có được niềm hy vọng hướng về tương lai tươi sáng của sự phục sinh vinh hiển của con Mẹ.
Mẹ Maria không tránh né đau khổ nhưng sẵn sàng đứng bên cạnh con cùng dâng hiến với con trong âm thầm và như vậy được thông phần vào ơn cứu rỗi. Mẹ đã âm thầm nhưng rất mực trung thành hành trình bên cạnh Con Mẹ luôn luôn trong mọi lúc, lúc Con Mẹ mới bắt đầu công việc rao giảng, trong khi rao giảng Tin Mừng và giờ đây kết thúc quan trọng trên thập giá, trên đồi Golgotha.
Mẹ Maria không chỉ là một tấm gương hay là một thí dụ điển hình cho chúng ta. Hơn thế nữa, Mẹ luôn đứng ngay bên cạnh chúng ta trong những lúc sầu khổ và khó khăn của cuộc sống. Là người Mẹ của chúng ta trên Thiên Đàng, Đức Mẹ Sầu Bi luôn an ủi và giúp chúng ta đi qua những giây phút khó khăn trong đời sống. Là Mẹ của Giáo Hội, Đức Mẹ Sầu Bi có thể hiểu được những gì chúng ta đang hoặc sẽ trải qua.
Điều này làm cho chân thánh giá trở thành một nơi chốn tốt đẹp để chúng ta tiếp cận với Đức Mẹ Sầu Bi, mỗi khi chúng ta bị xáo trộn bởi những nỗi lo buồn, thì Mẹ Maria có thể an ủi và giúp chúng ta, thí dụ như: Khi con chúng ta bị bạn bè trêu trọc nơi học đường và bị tổn thương tình cảm, Đức Mẹ Sầu Bi có thể giúp chúng ta và con chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa bằng một cách nào đó sẽ mang lại một sự bình an. Hoặc lúc chúng ta phải thức suốt đêm khi đứa con bị bệnh, Đức Mẹ cũng sẽ thức trắng đêm với chúng ta.
Mẹ Maria đã không có thể chạy trốn hoặc có thể làm giảm đi nổi đau khổ của mình khi Mẹ đứng dưới chân thập giá của Chúa Giêsu. Và đó là điểm mà chúng ta được mời gọi để suy tư. Đức Mẹ đã không cố gắng chối bỏ và không chịu chấp nhận những giây phút đau đớn của sự mất con. Ngược lại Mẹ đã chấp nhận “thập giá” của mình nơi núi sọ; với niềm tin tưởng rằng bằng cách nào đó Thiên Chúa sẽ mang sự cứu rỗi cho nhân loại qua cái chết đau thương của đứa con trai của mình.
Bằng cách này Mẹ Maria cho chúng ta thấy Mẹ đã đón nhận ý của Thiên Chúa như thế nào, cho dù điều đó sẽ làm cho mẹ không vui. Qua việc làm này Mẹ Maria cho chúng ta thấy được ân sủng của Thiên Chúa làm việc như thế nào trong những lúc sầu khổ.
Vì lẽ đó, hôm nay chúng ta mừng lễ với Mẹ: Vui mừng với Mẹ, vì khi gặp nỗi khổ đau tột cùng là phải chứng kiến cái chết thê thảm của con Mẹ, Mẹ vẫn không để nỗi khổ đau ấy bóp chết con tim yêu mến và ngập tràn hy vọng của Mẹ.
Sống ở đời này, ai trong chúng ta cũng phải kinh qua đau khổ. Ta không đau khổ vì điều này thì sẽ đau khổ vì điều khác. Đau khổ vì bệnh tật, vì nghèo đói, vì bất công, vì thiên tai, vì nhân tai. Đau khổ vì bị tù đầy, bị kỳ thị, bị khinh khi, miệt thị. Và đau khổ lớn nhất của thân phận nhân loại chúng ta đó là vì sự chết chóc đau thương. Nhưng đứng trước mọi nỗi đau khổ, Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hay đón Đức Mẹ về nhà mình, đón Mẹ về với tâm hồn mình để Mẹ dạy cho ta con đường tin yêu, hy vọng ngay trong nỗi đau khổ tột cùng.