2021
Tình yêu tự hiến
25 19 X Thứ Bảy Tuần XXV Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
Dcr 2,5-9.14-15a; Lc 9,43b-45.
Tình yêu tự hiến
Sống trên cuộc hồng trần này, mầu nhiệm về khổ đau luôn là điều bí nhiệm. Các nhà hiền triết, các bậc thánh nhân, các nhà tiên tri và tri thức thần bí… từ ngàn đời đã trăn trở tìm kiếm để cho đau khổ một ý nghĩa. Sách sáng thế cho thấy đau khổ là hậu quả tất nhiên của tội lỗi, của việc con người không vâng phục những lời dạy bảo của Thiên Chúa, hay nói khác đi đầu mối của nó chính là sự kiêu ngạo, bất tuân đường lối, thánh ý Người.
Đối với niềm tin Kitô của chúng ta, đau khổ còn luôn có một giá trị trong việc tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa – thánh ý đã muốn cho con người được hạnh phúc nhờ sống yêu thương như chính Thiên Chúa là tình yêu. “Đang lúc mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các mộn đệ rằng: “Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời”” (c. 43b – 44).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu cho các môn đệ lần thứ hai. Các môn đệ không hiểu lời tiên báo, vì đối với các ông lời đó còn bí ẩn., đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa.
Các ông không sao hiểu được là phải. Thầy mình chưa bao giờ chịu khuất phục trước trước một sức mạnh nào từ sóng to, gió lớn, cuồng phong bão tố; các loại bệnh hoạn tật nguyền; các bệnh do quỷ ám, ma nhập; thậm chí còn cho kẻ chết sống lại (Lc. 4, 33-36; 5,12-13; 7,11-16; 8,22-36; 8,49-56; và 9,37-43).
Thế mà bây giờ thầy Giêsu lại nói: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (Lc 9,44). Khi nghe Chúa Giêsu nói thế, các môn đệ hết sức bối rối, lo sợ nhưng không dám hỏi lại Chúa. Các ông băn khoăn: Chả nhẽ một bậc thầy “bất khả chiến bại” như Chúa Giêsu giờ đây lại chịu thua bại vào tay người đời này ư ?
Người ta bỡ ngỡ, kinh ngạc về điều gì? Chúng ta hãy đọc lại những trình thuật bên trên của cùng chương 9: Sau lời tuyên tín của thánh Phê-rô: “Ngài là Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20b), Đức Kitô “tiên báo cuộc thương khó lần nhất”; Khoảng tám ngày sau, Ngài hiển dung trên núi cao (Ta-bo) (Lc 9, 28 – 36); rồi hôm sau, Chúa Giêsu chữa lành bệnh đứa trẻ bị bệnh kinh phong khiến mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Thiên Chúa (Lc 9, 37 – 43) – và chính lúc này đây, Chúa Giêsu “tiên báo cuộc thương khó lần hai” cho các môn đệ, nhưng “các ông vẫn không hiểu.” Tin mừng nói “các ông không hiểu, vì nó còn bị che khuất” (mắt các ông còn bị ngăn cản).
Tại sao mắt các ông lại bị ngăn cản? Thưa, vì những vinh quang đã làm mờ mắt các ông. Dù gì khi theo Chúa Giêsu, các môn đệ hiển nhiên vẫn có những tính toán; như Phê-rô đã có lần thưa với Chúa Giêsu: “Thưa thầy, chúng con đã bỏ tất cả mọi sự mà theo thầy, chúng con sẽ được gì?” (Mt 19, 27). Cũng thế, khi tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, trong lòng các môn đệ vẫn mơ đến một Đấng Kitô – Messia của trần thế ‘đầy quyền lực và vinh quang’ sẽ khôi phục và làm cho Israel trở thành tiếng tăm lẫy lừng; và điều hiển nhiên là các ông sẽ có một tương lai huy hoàng với chức tước và bổng lộc vì lý do đó mà “Mắt các ông bị ngăn cản!”
Và điều Chúa Giêsu nói: “Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời” (c.44b) khiến các ông không thể hiểu được, “không thể lĩnh hội được”. Không chỉ với các môn đệ, ngày nay đối với chúng ta, đau khổ, thập giá vẫn luôn là điều khó hiểu. Nhất là chúng ta không thể hiểu nổi tại sao người công chính cứ gặp gian nan, khốn khó, thất bại và bị bách hại, còn phường gian ác lại cứ nhởn nhơ sung sướng.
Hơn nữa, trước mặt người đời, Thập giá luôn là điều khờ dại; vì con người sự thường ai mà không thích thảnh thơi, dễ dãi, ai mà không thích được thành đạt, ca ngợi, tôn vinh, ai mà không thích sung sướng, vui vẻ…. Nhưng Chúa Giêsu đã cho thấy một chân lý khác – chân lý của “một hạt lúa mì không thể sinh hoa kết trái nếu không phải chịu mục nát và thối rữa đi” và có “gieo trong lệ sầu mới gặt trong hân hoan vui sướng”. Chính vì vậy mà khi các môn đệ đang phơi phới hân hoan, và mơ tưởng những ‘vinh quang phù phiếm’ thì Chúa Giêsu tuyên bố: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”; Đồng thời người cho biết ai muốn làm môn đệ bước theo dấu chân Người không thể không ôm ẵm, vác thập giá hằng ngày mà đi theo Người. (Lc 9, 23). Các môn đệ đã không hiểu không dám hỏi và cũng chẳng muốn đối diện với điều xem ra ‘ngược đời’ ấy.
Và chỉ Thần khí của Đấng phục sinh – Thánh Thần của Thiên Chúa mới làm cho các môn đệ hiểu để rồi như Chúa Giêsu các ngài đã giơ tay ôm ẵm Thập giá để loan truyền Tin mừng tình yêu của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy cảm thông với các môn đệ, bởi lẽ, chính chúng ta, vốn đã được học biết về Chúa Giêsu, về mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài hơn các môn đệ rất nhiều, nhưng thực ra, trong sâu thẳm của lòng và của trí chúng ta, chính chúng ta cũng chẳng hiểu cùng tận tại sao Chúa Giêsu lại để mình rơi vào tình cảnh như thế, tại sao Chúa lại phải đi con đường Thương Khó.
Như các môn đệ sau biến cố ‘vượt qua và Phục sinh’, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần mở trí, mở mắt tâm hồn để hiểu được con đường thập giá tình yêu mà Chúa Giêsu đã chọn để làm giá cứu chuộc muôn người;
Đồng thời xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta đủ tình yêu và sức mạnh để đi trọn con đường thử thách gian nan; Bởi vì như thánh Phaolô, người đã coi cuộc đời này là một trận chiến, một thao trường mà chúng ta phải chiến đấu để dành cho được ngành lá thiên tuế – ngành lá chiến thắng; Do đó mà không có sự dễ dãi, thoải mái hay hưởng thụ ích kỷ cho người môn đệ. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ có cho người biết gieo rắc tình yêu thương, Mà đường yêu thương là con đường hy sinh và dâng hiến.
2021
CHÚA GIÊSU LÀ AI ĐỐI VỚI TÔI ?
24 18 X Thứ Sáu Tuần XXV Thường Niên.
Kg 1,15b-2,9; Lc 9,18-22.
CHÚA GIÊSU LÀ AI ĐỐI VỚI TÔI ?
Trong Tin Mừng mỗi khi trình bày việc Chúa Giêsu đi cầu nguyện một mình thì thường là sau đó, Chúa có những quyết định quan trọng cho sứ vụ cứu thế của Ngài. Trước khi Chúa Giêsu gọi các môn đệ theo Ngài, Ngài cũng lên núi và cầu nguyện suốt đêm. Tin Mừng hôm nay, cũng trình bày việc Chúa Giêsu đi cầu nguyện một mình trước khi Ngài đặt câu hỏi cho các môn đệ về căn tính của Ngài : “Đám đông nói Thầy là ai ?” “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ của Ngài một vấn nạn mà dân chúng đang xôn xao về Danh tánh của Ngài. Có kẻ cho rằng Ngài là một vị Ngôn sứ hoặc là Gioan Tẩy Giả. Nhưng điều mà Chúa Giêsu quan tâm không phải là Danh tánh của Ngài đã được dân chúng thừa nhận hoặc suy tôn, nhưng là: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Chúa Giêsu muốn nghe lập trường của chính các ông. Câu hỏi này đã khiến cho các môn đệ phải suy nghĩ không ít và ông Phêrô đã lên tiếng trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa”.
Các môn đệ đã trả lời cho Chúa Giêsu như một thông tin về đám đông đang nghĩ gì về Chúa. Ngài có thể như là : “Ông Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ vĩ đại Êlia, hoặc là một ngôn sứ nào đó đã sống lại.” Những nhân vật ấy đã từng xuất hiện giữa dân và có ảnh hưởng đặt biệt quan trọng trên đám đông dân chúng đang chịu cảnh áp bức của đế quốc. Phải chăng đám đông dân chúng này đang chờ đợi nơi Chúa Giêsu, sẽ làm một cuộc cách mạng nào đó để giải phóng họ khỏi sự đô hộ ? Kiểu như nhóm nhiệt thành chuyên xách động dân chúng chống lại đế quốc Rôma mà đứng đầu là Baraba, đang nổi lên nơi một vài vùng ?
Chúa Giêsu đang muốn biết các môn đệ, những người thân tín nhất của mình đang nghĩ gì về Ngài nên Ngài đã đặt tiếp câu hỏi : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” Phêrô đại diện anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.” Câu trả lời này mang nội dung đúng hơn và đủ hơn, so với đám đông dân chúng.
Phêrô đã trả lời đúng, vì Chúa Giêsu quả là Đấng Kitô hay còn gọi là Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi từ bao đời. Đấng ấy được xức dầu để lên làm vua của dân tộc Israel. Nhưng có thể Phêrô ngộ nhận về khuôn mặt của Đấng Mêsia đó. Chúa Giêsu không phải là Đấng Mêsia sẽ giải phóng dân Israel khỏi ách đế quốc Rôma, cũng không phải là người muốn lên làm vua trần thế. Nhưng Ngài sẽ phải chịu khổ hình bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại. Như thế, Chúa Giêsu là Đấng Mêsia mang khuôn mặt của Người Tôi Trung đau khổ như được trình bày trong sách ngôn sứ Isaia đệ nhị.
Phêrô và các môn đệ đã đang đi theo Đấng Mêsia nào ? Nếu các ông biết số phận bi đát đang chờ đợi Thầy của các ông, thử hỏi các ông có còn muốn theo Ngài nữa không ?
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: “Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?” Dư luận dân chúng Do Thái chưa nhận rõ Đức Giêsu là Chúa.
Thật đau lòng về con người thời đại ngày nay, con số những người chưa nhận biết Chúa Giêsu dường như ngày càng gia tăng.
Thật đau lòng, bởi nhiều người trong chúng ta, dù đã được rửa tội, là con cái Chúa và Hội Thánh, đọc kinh cầu nguyện, đi lễ, nghe Lời Chúa,…thế nhưng, qua cách sống của chúng ta, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung và mờ nhạt.
Chúa hỏi lại các môn đệ : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Hôm nay Chúa cũng hỏi lại chúng ta câu hỏi đó : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Vì thế, việc nhận ra Đức Kitô vẫn còn là một thách đố đối với với con người thời nay, cách riêng từng người tín hữu Kitô.
Hôm nay Chúa Giêsu, Đấng Mêsia đã sống lại từ cõi chết vẫn đang hỏi mỗi người chúng ta: “Còn con, con bảo Thầy là ai ?” Mỗi người chúng ta sẽ phải trả lời như thế nào trước câu hỏi của Chúa Giêsu mà Ngài vẫn đang hỏi chúng ta trong từng chặng của cuộc đời ? Tôi phải cần biết Ngài là ai đối với cuộc đời của tôi, bởi lẽ tôi sẽ không đi theo Đấng mà tôi không hề biết. Dựa vào từng chặng kinh nghiệm trong cuộc đời, chúng ta có thể khám phá ra khuôn mặt của Chúa Giêsu khác nhau. Có lúc Ngài là Đấng ban phát ơn lành cho tôi. Có lúc Ngài là bạn đồng hành với tôi khi tôi gặp đau khổ, tuyệt vọng và bị bỏ rơi nhất. Có lúc Ngài là người tôi yêu nhất khi tôi quyết định dấn thân vào đời sống tận hiến để phục vụ Tin Mừng.
Trải qua các thời đại cho đến ngày hôm nay, lời giảng dạy và hành động và cả chính con người của Chúa Giêsu đã khiến cho người ta không ngừng thắc mắc: Ngài là ai? Chúa Giê-su không cần các môn đệ nói mới biết ý kiến của người đương thời về Ngài. Điều cần thiết hơn cả là Ngài muốn các môn đệ nói lên chính họ nhìn nhận Ngài là ai. Ngài không muốn các môn đệ nhìn Ngài như người ta nghĩ, người ta tưởng về Ngài, mà trái lại Ngài muốn họ có một hiểu biết đúng Ngài là ai: “là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” và nhất là muốn họ có thái độ dấn thân quả quyết, dứt khoát để đi theo làm môn đệ của Ngài.
Mỗi người chúng ta tự vấn nhận thức và thái độ của mình đối với Đức Kitô: “Giờ này, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?… Ngài còn là Ngài hay thôi?” Tôi đã thực sự biết Ngài và sống thiết nghĩa với Ngài như với Đấng là Thiên Chúa và là Chủ đời tôi? Hay tôi vẫn nhìn Ngài theo cảm nhận chủ quan, theo dư luận, quan điểm của thế gian?
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một hình ảnh về Kitô hữu. Kitô hữu là người vác thập giá của chính mình để đi theo Chúa Giêsu vác thập giá. Vì thế hằng giờ hằng phút trong cuộc đời, chúng ta hãy sẵn lòng chấp nhận mang lấy khổ giá, để đi tới cái chết thiêng liêng, cái chết cho chính mình để rồi được sống lại và sống cho Thiên Chúa.
2021
DẤU CHỈ CHO MỌI NGƯỜI
23 17 Tr Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên.
Thánh Pi-ô thành Pi-e-tren-ci-na (Thánh Piô Năm dấu), Linh mục, lễ nhớ.
Kg 1,1-8; Lc 9,7-9.
DẤU CHỈ CHO MỌI NGƯỜI
Thánh Padré Pio tên thật là Francesco Forgione sinh ngày 25 tháng 5 năm 1887 tại Pietrelcina, Benevento, miền Nam nước Ý Đại Lợi trong một gia đình nông dân. Ðã hai lần, cha của Francesco phải xa nhà, đi làm việc ở Jamaica, Nữu Ước để nuôi gia đình.
Khi được 15 tuổi, Francesco gia nhập dòng Capuchin và lấy tên Piô. Ngài được thụ phong linh mục năm 1910 và bị động viên trong Thế Chiến I. Sau khi bác sĩ thấy ngài bị ho lao, họ đã cho ngài giải ngũ. Vào năm 1917, ngài được bài sai đến làm việc ở tu viện San Giovanni Rotondo, cách thành phố Bari 75 dặm.
Vào ngày 20/9/1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn.
Sau biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y khoa, các giới chức của Giáo Hội và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm 1924 và một lần nữa vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không được phép cử hành Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than trách về sự cấm cách này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924 ngài không còn viết gì thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa Giêsu đều được viết trước năm 1924.
Sau khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ 5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ mà chưa bao giờ họ tiết lộ.
Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ. Theo sự đốc thúc của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây cất bệnh viện được phát khởi năm 1940; một ủy ban gây quỹ được thành lập. Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh viện rất khó khăn về kỹ thuật vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở vật liệu xây cất. Sau cùng, “Nhà Chữa Trị Người Ðau Khổ” được hình thành với 350 giường bệnh.
Nhiều người tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự Thánh Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động. Như Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm kỷ niệm.
Một trong những sự đau khổ của Cha Piô là vài lần những người thiếu đạo đức rêu rao những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ nói tiên tri về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội. Cha Piô qua đời ngày 23 tháng 9 năm 1968.
Hai mươi chín năm sau, các nhân đức và sự thánh thiện của Đấng Đáng Kính Piô được Đức Giáo Hoàng John Paul II công nhận ngày 18 tháng 12 năm 1997 và hai năm sau Đức Thánh Cha đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước ngày 02 tháng 5 năm 1999.
Đức Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận một phép lạ chữa lành chứng sưng màng óc của bé Matteo Pio Colella, 7 tuổi con trai của một bác sĩ làm việc cho nhà “Chữa trị cho Người đau khổ” tại bệnh viện ở San Giovanni Rotondo do sự cầu bầu của Chân Phước Pio ngày 20 tháng 12 năm 2001. Đức Thánh Cha John Paul II đã nâng Chân Phước Piô ở Pietrelcina lên hàng hiển thánh ngày 16 tháng 6 năm 2002 tại quảng trường Thánh Phêrô, Rome.
Dừng lại một chút, ta đọc lại khi khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu, khởi sự bằng việc Chúa nhận phép rửa Gioan trên sông Giođan. Gioan Tẩy Giả khi thấy Chúa đang tiến về phía mình, Gioan đã giới thiệu với dân chúng biết về Chúa Giêsu: “đây chiên Thiên Chúa đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29). Lời giới thiệu của Gioan đã khẳng định sứ vụ và ơn cứu độ của Chúa sắp được tỏ hiện giữa trần gian.
Sau những năm tháng Chúa Giêsu ẩn dật sống dưới mái ấm gia đình Thánh Gia. Người bắt đầu công khai lộ diện công bố Tin Mừng cứu độ giữa dân chúng, danh tiếng Chúa đã vang cùng khắp nơi, vì Người đã đem tin lành đến cho muôn dân, qua những phép lạ Người đã làm cho dân chúng, những lời giáo huấn của Chúa đã cuốn hút khán giả đến lạ thường, dân chúng chỉ còn biết nghe quên cả ăn nghỉ, nhìn thấy đoàn dân đông đảo đi theo Người, khiến Chúa phải chạnh lòng thương họ, chữa lành nhiều bệnh nhân. (Mt 14, 13-21). Người đã hai lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều qua cử chỉ bẻ bánh đầu tiên của Chúa, từ đó mọi người cùng chuyền nhau bẻ bánh và trao cho nhau, cứ thế từ năm chiếc bánh và hai con cá đã được nhận ra hàng ngàn chiếc bánh, hàng nghìn con cá. (Mt 15, 32-39).
Bốn sách Tin Mừng còn ghi chép nhiều phép lạ khác Chúa Giêsu đã làm trong dân chúng. Riêng Tin mừng Thánh Gioan viết câu kết: “Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra”. (Ga 21 ,25)
Những việc Chúa làm trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Hêrôđê cũng biết tất cả những việc Chúa làm, và ông cũng muốn tìm cách để gặp Người. Nhưng điều đáng tiếc Hêrôđê đã không tìm đến để gặp Chúa, vì trong ý nghĩ của Hêrôđê muốn tìm cách gặp Chúa không giống như các trường hợp khác được ghi chép trong các sách Tin Mừng như: niềm tin của người phụ nữ bị bệnh băng huyết lâu năm chen lấn giữa đám đông để mong chỉ đụng được vào gấu áo của Người (Mc 5, 25-34), như anh chàng Bartimê thành Giêricô mù từ thuở mới sinh kêu gào gọi tên Giêsu khi Người đi ngang qua anh ta (Mc 10, 46-52) hay trường hợp ông Gia-kêu nghĩ ra cách trèo lên cây sung để dễ dàng nhìn thấy Chúa (x Lc 19, 1-10).
Đặc biệt hơn với lòng tin của viên đại đội trưởng xin Chúa chữa cho đầy tớ đang nằm liệt bệnh ở nhà (Lc 7, 1-10). Tất cả họ đến gặp Chúa trong tâm tình yêu mến phát xuất tự trong đáy lòng họ. Họ đến với Chúa vì họ tin tưởng vào ơn cứu độ Chúa sẽ ban cho họ.
Với Hêrôđê ông ta muốn tìm cách gặp Người chỉ vì hiếu kỳ, muốn được nhìn thấy Người làm phép lạ để ông ta xem. Cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả vì Gioan đã mạnh dạn lên tiếng về thái độ của Hêrôđê muốn chiếm đoạt vợ của em mình (Lc 3, 19), tuy Hêrôđê nể phục Gioan nhưng ông không biết sửa những điều mình làm sai, qua những lời Gioan đã góp ý với ông, Hêrôđê đã bị nhục dục làm chủ, chỉ vì một lời hứa với con gái người tình, mà ông đã ra lệnh chém đầu Gioan (Mc 6, 17-29).
Đặt trường hợp nếu Hêrôđê có dịp gặp Chúa Giêsu, thì chắc chắn ông sẽ bị Chúa Giêsu phê phán cách kịch liệt hơn. Trong suốt ba năm Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Hêrôđê không được hạnh phúc nhìn thấy Chúa, chỉ một lần duy nhất được diện kiến Chúa khi Người bị bắt giải từ dinh tổng trấn Philatô sang cho Hêrôđê. (Lc 23, 8).
Giữa một xã hội lấy bon chen làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tinh thần nghèo khó. Giữa một xã hội lấy hận thù làm luật sống, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục yêu thương và tha thứ đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người thường buông xuôi, thất vọng, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống lạc quan tin tưởng vào Ðấng luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại. Giữa một xã hội mà sự tử tế đối với nhau đã thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tử tế với mọi người, ngay cả những người thù địch. Sống như thế quả là một đòi hỏi gay go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà là một thể hiện của một cuộc sống mật thiết với Chúa. Không có ơn Chúa, không sống kết hiệp với Chúa, người Kitô hữu không thể đi đến cùng những cam kết sống chứng nhân của họ.
2021
Lệnh Truyền Giáo
22 16 X Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên.
Er 9,5-9; Lc 9,1-6.
Lệnh Truyền Giáo
Ðược Chúa Giêsu tuyển chọn và sống với Chúa, các Tông đồ cũng đã nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Luca thuật lại biến cố Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, Ngài nhắc nhở các ông phải sống khó nghèo và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
So với lần Chúa sai các môn đệ thì lần này có điểm khác biệt là thay vì được sai đi từng hai người, các Tông đồ được sai đi từng người một và được ban cho sức mạnh và quyền năng để trừ ma quỉ và chữa lành bệnh tật. Tuy nhiên, các ông cũng chỉ được sai đi trước để loan báo Ngài sắp đến. Huấn lệnh cho các Tông đồ trước khi lên đường có thể gồm 3 phần: Thứ nhất, trên đường đi các ông không được mang theo gì cả, mặc dù sứ vụ của các ông kéo dài một thời gian, chứ không phải chỉ có một vài ngày; điều đó có nghĩa là các ông phải hoàn toàn từ bỏ chính mình và chỉ tin vào sức mạnh của Lời Chúa. Thứ hai: khi tới nhà nào thì phải kiên trì, không được lùi bước; nói khác đi, các ông phải tin vào sứ mệnh của mình, tin vào sự quan phòng và chờ đợi thời giờ của Chúa. Thứ ba: các ông phải có can đảm trước sự cứng đầu của những kẻ chống đối các ông.
Mỗi thời đại có những cám dỗ riêng. Ma quỉ đã cám dỗ Chúa Giêsu từ bỏ sứ mệnh cứu thế, cũng như cám dỗ Ngài làm những việc lạ lùng, như hóa đá thành bánh, gieo mình xuống từ nóc Ðền thờ để mọi người thấy và tin. Ngày nay, không thiếu những người chỉ muốn dùng tiền bạc để giảng dạy hoặc dùng quyền bính để làm cho người khác kinh sợ. Một cám dỗ khác mà người Tông đồ thời nay thường mắc phải, đó là sự thiếu kiên nhẫn, chờ đợi thời giờ của Chúa. Họ dễ thoái lui rời bỏ nhiệm sở, thay đổi công việc.
Cũng có những người Tông đồ không dám nói rõ những sai lầm của người khác cũng như những gì trái ngược với giá trị Tin Mừng. Thái độ chung của con người thời nay là ích kỷ và hưởng thụ, số người sẵn sàng để Chúa sai đi thật hiếm hoi, số các tệ nạn do sự sai lầm thiêng liêng ngày càng gia tăng, trong khi đó cái tôi tự do được thổi phồng.
Khi danh tiếng của Chúa Giêsu được lẫy lừng khắp nơi về lời rao giảng mới mẻ và uy quyền, về các phép lạ Ngài làm, có thể là xưa nay chưa có ai làm được như vậy. Vì thế, có những người đến xin theo làm môn đệ của Ngài, trong đó có cả kinh sư, luật sĩ nữa, nhưng ý hướng muốn theo Chúa của họ mang tính trần tục, họ muốn theo làm môn đệ của Chúa Giêsu vì họ thấy nơi Ngài có thể làm thỏa mãn những tham vọng của họ theo kiểu trần thế : giàu có, danh vọng, địa vị. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nên Ngài thẳng thắn trả lời cho một vị kinh sư rằng: “Con chồn có hang, con chim có tổ, con người không có chỗ tựa đầu”.
Chúa nói như vậy để diễn tả Ngài không có gì để bảo đảm cho cuộc sống trần gian, vì Chúa nghèo đến nỗi thua một con chim, nó có tổ, thua một con cáo, nó có hang, còn Ngài thì không có nơi tựa đầu, không có mái nhà để ở.
Vì thế, theo Chúa mà đặt những tham vọng lớn lao nơi trần thế, đòi hỏi những thỏa mãn theo sở thích riêng, tìm kiếm những tiện nghi trong đời sống hằng ngày thì không phù hợp và không thực tế chút nào. Chúa Giêsu đòi hỏi người muốn theo làm môn đệ của Ngài, phải quyết liệt từ bỏ mọi sự thế gian, mọi tham vọng trần thế, mọi tiện nghi hằng ngày, để có một tâm hồn tự do thanh thoát mà theo Ngài, thuộc trọn về Ngài, thực thi trọn vẹn sứ mạng Ngài ủy thác. Với một người khác, Chúa Giêsu mời gọi: “Anh hãy theo tôi”, anh vẫn có thành tâm thiện chí để theo Chúa, nhưng anh chưa dứt khoát xa lìa sự ràng buộc của gia đình, bổn phận với cha mẹ cản trở anh: “Xin Thầy cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”, tức là phụng dưỡng cha cho tròn chữ hiếu đã rồi mới đi theo Chúa sau. Chúa Giêsu trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ, còn anh, anh hãy đi loan baó triều đại Thiên Chúa”.
Vậy là Chúa đòi hỏi đi theo Chúa thì phải trọn vẹn cho Chúa, cắt đứt mọi ràng buộc, kể cả sự ràng buộc do mối dây liên hệ tình cảm với gia đình, làm phân tán, cản trở việc theo Chúa, vì: “Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”(Mt 11, 37), vả lại, loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa là cần thiết và cấp bách, là quan trọng hơn, nên phải ưu tiên hơn. Người thứ ba cũng muốn theo Chúa, nhưng chưa dứt khoát, vì còn phải từ giã gia đình nữa. Chúa Giêsu lấy công việc đi cày của người nhà nông để trả lời cho anh ta về điều kiện theo Chúa: người cầm cày đi cày ruộng thì hướng cày phải thẳng, nên người nông phu không được ngoái cổ về đàng sau, làm cho luống cày vênh vẹo, đất không được cày đều, đất sẽ không tốt đối với hạt giống sẽ gieo xuống.
Cũng vậy, việc theo Chúa không được do dự, ngập ngừng, tính toán, làm cho việc theo Chúa bị cản trở, làm cho việc loan báo Tin Mừng bị chi phối không có kết quả. Những điều Chúa đòi hỏi là dấu chỉ người môn đệ thật lòng theo Chúa, theo Chúa vì yêu mến Chúa, chọn Chúa một cách dứt khoát vô điều kiện vì chỉ có Chúa là hạnh phúc của họ, sống với Chúa thì có giá trị gấp ngàn lần những điều họ từ bỏ. Chính Chúa Giêsu cũng đã từ bỏ mọi sự để phục vụ Nước Trời và cứu rỗi các linh hồn đến mức độ chết khổ nhục trên Thập Giá, vì vậy, những đòi hỏi của Chúa Giêsu là điều kiện để các môn đệ nên giống Chúa và trung thành thi hành sứ mạng của Chúa.
Khi chúa gọi chúng ta hay khi chúng ta muốn theo Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta sống thanh thoát, tự do, thong dong cách tuyệt đối về những sự thế gian không còn bám víu sự gì kể cả gia đình ruột thịt của chúng ta, không còn lo toan việc đòi để hoàn toàn theo Chúa và chăm lo việc của Chúa mà thôi. Sống đời sống tông đồ là sống đức tin, sống tin thần phó thác, chấp nhận bấp bênh gắn liền với thân phận Đức Kitô ở trần gian “Con người không có nơi tựa đầu”, luôn gắn bó với Đức Kitô và sứ mạng của Ngài. Chúng ta thực lòng sống theo Chúa Kitô, làm môn đệ Ngài chúng ta luôn quyết chí, sẵn sàng và dấn thân để bảo vệ sự trung thành với Chúa: chúng ta luôn bảo vệ phẩm chất của chúng ta là muối, là men, là ánh sáng cho thế gian.
Người môn đệ theo Thầy không chỉ tin Thầy, đón nhận Thầy mà còn ở với Thầy, đón nhận sự dạy dỗ của Thầy, nên giống Thầy, thuộc trọn về Thầy, làm công việc của Thầy, trung thành cộng tác với sứ mạng của Thầy cách trọn vẹn. Chúa Giêsu cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài như vậy, và còn đòi hỏi dứt khoát hơn nữa, mới trung thành thi hành sứ mạng Chúa trao phó được. Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhìn lại ơn gọi của mình, và kiểm lại phẩm chất của ơn gọi ấy mà sửa sai để trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu cách trung thành và trọn vẹn hơn.
Trên bước đường rao giảng, người môn đệ cũng như Thầy chí thánh luôn quan tâm đến người đau khổ, chữa lành bệnh tật, mang hạnh phúc cho mọi người. Thật thế, người môn đệ của Chúa luôn quan tâm đến những nhu cầu được chữa lành, chia sẻ cho anh em đồng loại như sau này Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ: “Vui với người vui, khóc với người khóc…” (Rm 12, 15), và ở Cửa Đẹp đền thờ thánh Phêrô thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!… anh trở nên cứng cáp” (Cv 3, 6-7).
Lời mời gọi các môn đệ ra đi làm việc trên cánh đồng truyền giáo của Chúa Giêsu ngày xưa cũng là lời mời gọi dành cho mỗi người chúng ta trong cộng đoàn tín hữu và nếu tôi, bạn là người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời mời gọi ấy nhưng đáp trả như Phaolô đã cảm nghiệm và sống sứ mạng: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16). Với ý thức đó, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc”. Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo”.