2021
GIOAN TẨY GIẢ
16 13 Tm Thứ Năm Tuần III Mùa Vọng.
Lc 7, 24-30
GIOAN TẨY GIẢ
Chúa Giêsu khen ông: ‘trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan’; nhưng lời khen lại bị giới hạn khi Người nói thêm: ‘người nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông!’ Điều Chúa Giêsu muốn nói là gì?
Chúa khen ông phải chăng vì: ‘Toàn thể dân chúng đã nghe ông, cả những người thu thuế đều vâng lời Thiên Chúa, và chịu phép rửa của ông’; nhưng sự giới hạn phải chăng là do: ‘còn những người biệt phái và luật sĩ đã khinh chê ý định của Thiên Chúa, vì họ không chịu để Gioan thanh tẩy cho’. Bản văn trình bày là như thế, nhưng qua sự kiện này giúp chúng ta hiểu Chúa Giêsu hơn như thế nào?
Có lẽ chúng ta xem lại câu trả lời của Chúa Giêsu trong trường hợp: ‘Mẹ và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. Người ta báo cho Người biết: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.” Người đáp lại: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.” (Lc 8, 19-21; Mt 12, 46 -50; Mc 3, 31 -35 ); và trường hợp thứ hai: ‘Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” Nhưng Người đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.” (Lc 11, 27-28).
Chúng ta dễ có cảm giác ‘chưng hửng’ với những câu nhận định của Chúa Giêsu thuộc loại này! Bởi ai trong chúng ta cũng cùng một quan niệm với lời phát biểu của người phụ nữ về Đức Maria. Không ai chối cãi vị trí độc tôn của Mẹ, nhưng Chúa Giêsu xem ra không đồng tình cho lắm! Bởi thay vì công nhận việc cưu mang và cho Thầy bú mớm là có phúc thì Chúa Giêsu lại lái sang việc ‘lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa’ mới là có phúc.
Dĩ nhiên Đức Maria là Người hơn ai hết đã ‘lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa’, có nghĩa Mẹ đã ‘cưu mang Lời Chúa’ trước khi cưu mang ‘Ngôi Lời Nhập Thể’. Cũng vậy, khi Mẹ và anh em Người đến tìm Người thì mọi người rất trân trọng. Bởi người ta ‘tâm phục khẩu phục’ Người bao nhiêu thì hẳn mọi người cũng kiêng nể Mẹ và anh em Người bấy nhiêu! Sự ‘kiêng nể’ phát sinh do ‘dây mơ rễ má’ với Thầy!
Vậy mà Người lại lái sang một mối tương quan khác, tương quan của những người cùng ‘lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành’. Khi chuyển trọng tâm sang một tương quan mới thì không phải Chúa Giêsu có ý phủ nhận những tương quan trước là kém quan trọng. Bởi lịch sử không lặp lại, thì những tương quan trước vẫn giữ vị trí quan trọng của nó; nhưng khi hướng sự chú ý của người nghe sang tương quan mới là Chúa Giêsu mở ra những cơ hội mới cho người nghe được tham dự vào tương quan với Thiên Chúa một cách mật thiết hơn, gắn bó hơn như họ từng ngưỡng phục tương quan giữa Mẹ Maria với Chúa Giêsu cũng như anh em họ hàng với Người.
Tương tự như vậy, khi Chúa Giêsu nhận định sự cao trọng của ông Gioan Tẩy giả: ‘trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan’, đồng thời Người cũng mở ra một sự cao trọng khác cho mọi người: ‘người nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông’.
Thật vậy, chính ông được cưu mang trong lúc bà Êlizabét son sẻ già nua! Việc ông nhảy mừng trong bụng mẹ lúc được 6 tháng, khi đặt tên cho ông thì Giacaria, bố ông hết câm! Ông là tiếng kêu trong hoang địa như tiên tri Isaia đã loan báo, ông mặc áo lông Lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu và uống mật ong rừng. Ông rao giảng, làm phép rửa, bị tù đầy và bị chặt đầu trong bữa tiệc vui. Ông là Êlia phải đến trước. Ông là kết tinh của Cựu Ước, là người đã chỉ vào Chúa Giêsu mà giới thiệu: ‘đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian’.
Vì thế, trong số con cái người nữ sinh ra, chưa từng có ai cao trọng hơn ông! Nhưng không phải vì thế mà ông chặn lối tiến đức của người khác. Bởi ‘người nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông’. Vậy ai muốn như ông hay hơn ông thì hãy làm người nhỏ nhất trong Nước Trời.
Gioan Tẩy giả không phải là một cây sậy mềm yếu phất phơ trước gió: ông đã cương trực, nghiêm khắc lên án việc ngoại tình của vua Hêrôđê, dẫu biết rằng sửa lỗi nhà vua là một điều nguy hiểm đến tính mạng của mình. Gioan cũng không phải là người ăn bận gấm vóc lụa là sống nơi cung điện. Ông chọn lối khổ hạnh: sống trong hoang địa, mặc áo da thú và ăn châu chấu. Chúa Giêsu xác nhận căn tính của Gioan: là người còn hơn cả ngôn sứ nữa, là sứ giả của Thiên Chúa, được sai đi trước dọn đường cho Con Một Ngài. Ông xứng đáng được ca tụng là “ngọn đèn cháy sáng” soi chiếu cho mọi người.
Chúng ta hãy nhìn lại sứ mạng ngôn sứ của mình. Thay vì nhát đảm chúng ta mặc lấy tinh thần mạnh mẽ, trung kiên sống theo chân lý, bảo vệ chân lý. Thay vì đam mê hưởng thụ theo xu hướng thời đại, chúng ta chọn sống thanh đạm, giản dị. Sống như thế chúng ta mới thực thi được sứ mạng ngôn sứ của mình, và giới thiệu được Đức Kitô cho người khác.
2021
ĐẤNG PHẢI ĐẾN
15 12 Tm Thứ Tư Tuần III Mùa Vọng.
Lc 7, 18-23
ĐẤNG PHẢI ĐẾN
Gioan Tẩy Giả là người dọn đường cho Đấng Messia nhưng đang bị Hêrôđê giam trong ngục tù. Ở trong tù, Gioan nghe biết hoạt động của Chúa Giêsu. Một mặt ông nghĩ Ngài chính là Đấng Messia mà ông loan báo là sắp đến. Nhưng mặt khác, ông hơi nghi ngờ, bởi vì theo ông thì Đấng Messia là một quan tòa xét xử, trừng trị kẻ ác, thế mà ông chưa thấy Chúa Giêsu xét xử và trừng trị ai cả. Vì thế ông sai môn đệ đến hỏi, xin Chúa Giêsu nói rõ Ngài có phải là Đấng Messia phải đến hay không.
Chúa Giêsu không trả lời thẳng, mà bảo các môn đệ Gioan về kể lại cho thầy họ những điều họ đã thấy Đức Giêsu làm: cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, và kẻ nghèo được nghe Tin mừng. Đây chính là hình ảnh Messia mà tiên tri Isaia đã mô tả. Nhưng không phải là một Messia thẩm phán, mà là một Messia Tôi Tớ phục vụ.
Chúa Giêsu cũng biết rằng hình ảnh Messia Tôi Tớ quá ngược với hình ảnh Messia Thẩm phán mà Gioan vẫn có trong đầu. Cho nên Ngài nhắn thêm với Gioan: “Phúc cho người nào không vấp ngã vì tôi.”
Mở đầu bài tin Mừng là câu nói của Gioan Tiền Hô “ Thầy có thật là Đấng Phải Đến hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (19). Dấu chấm hỏi trong đầu Gioan. Gioan xác định Đấng Phải Đến là Đấng Mêsia, Đấng muôn dân đặc biệt là người Do Thái đang trông chờ. “Thày có thật là Đấng ấy không?”: Có lẽ Gioan cũng thấm nhiễm tinh thần do thái khi cho rằng Đấng Mêsia sẽ xuất hiện trong vinh quang sáng lạn, trong uy quyền rực rỡ, vì thế ông không xác tín lắm, nên sai môn đệ của mình tới thẩm vấn Chúa Giêsu.
Với câu 20 là dấu chấm hỏi của môn đệ Gioan được lập lại y như thầy của mình. Gioan và môn đệ ông khao khát mong chờ Đấng Cứu Thế. Họ xin Chúa 2 điều: thứ nhất, xin xác nhận Người có phải là Đấng Phải Đến mà họ đang trông đợi? Thứ 2: Nếu Người không phải là Đấng ấy, thì nói cho họ biết, họ phải đợi ai? Đây là sự khao khát kiếm tìm chân lý.
Ngay lúc đó, Chúa Giêsu đang chữa bệnh. Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật trong thể xác và trong tâm hồn. Ngài xua trừ ma quỷ, tháo gỡ xiềng xích trói buộc của Satan nơi con người và ban ơn cho nhiều người nhận ra ơn cứu độ đã đến (21) trong hình ảnh mở mắt người mù. Những việc làm của Chúa chứng minh và trả lời cho vấn nạn của Gioan và môn đệ ông đang thắc mắc.
Khi thấy họ khao khát kiếm tìm chân lý, Người bèn trả lời họ như trả lời về danh phận của mình “ Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người mù được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và kẻ nghèo được nghe Tin Mừng ” (22).
Đây là sứ mệnh của Đấng Mêsia – Đấng đến từ Thiên Chúa – Đấng vì yêu nhân loại và đã đến để cứu rỗi nhân loại. Đấng đã nhập thế, nhập thể. Người sống kiếp phàm nhân và nên giống con người về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi. Đấng đến cứu chữa những gì đã hư mất và quy tụ con cái Chúa tản mác khắp nơi về một mối – Đấng xoa dịu và chữa lành thương tích nơi thân xác và trong tâm hồn con người _ Đấng trả lại sự sống mà xưa kia Adam – Eva đã đánh mất trong vườn địa đàng – Đấng dẫn con người vào nguồn hạnh phúc của Thiên Chúa Ba Ngôi. Người không phải là Đấng Mêsia trong khía cạnh thẩm phán xét xử, đánh phạt. Người không là Đấng đến để trút cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trên con người. Người đến không chỉ chữa lành nhưng còn tha tội.
Trang Tin Mừng kết thúc bằng một mối phúc “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (23). Thật hạnh phúc cho ai chấp nhận Chúa Giêsu trong vai trò Đấng Mêsia với cách thức như Người là: cứu độ chứ không xét xử. Chính Chúa đến ban tặng ơn cứu độ, nhưng cách thức biểu lộ tình thương ấy đã gây vấp ngã cho những ai cứ giữ trong tư tưởng về Đấng Mêsia theo ý họ.
Gio-an Tẩy Giả được sai đến để làm Tiền Hô cho Đức Ki-tô. Ông đã nhận ra Ngài bên giòng sông Gio-đan, đã giới thiệu cho dân chúng rằng Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29). Thế nhưng, giờ đây Gio-an đang ngồi tù, niềm tin của các môn đệ ông hẳn đang lung lay. Bởi thế, ông đã sai hai môn đệ đến hỏi Chúa Giê-su: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Một thắc mắc cần thiết nói lên tâm tư của Gio-an và niềm mong mỏi của các môn đệ ông và bao người đương thời, để hiểu rõ hơn, chắc chắn hơn về Đức Ki-tô và sứ mạng cứu thế của Ngài. Đáp lại, Chúa Giê-su không trả lời họ rằng có hay không. Chúa mời gọi họ trở về thuật lại việc Ngài chữa lành nhiều bệnh hoạn tật nguyền mà họ đã mắt thấy tai nghe, để chứng thực rằng đó là những hành vi cứu độ của Đấng Cứu Thế mà ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo, nay đang được hiện thực nơi Ngài.
Chúng ta đang sống trong giai đoạn đón chờ Chúa Giáng Sinh. Đó là mầu nhiệm tình yêu và đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, chúng ta càng hiểu hơn về tình yêu Thiên Chúa đối với con người, nhất là những người khiếm khuyết cả về phần xác lẫn phần hồn.
Noi gương Chúa và nhất là được Chúa nuôi dưỡng qua bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể hàng ngày, chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta cũng có lòng thương cảm đối với anh em đồng loại, như chúng ta đã lãnh nhận từ Thiên Chúa qua bí tích Hoà Giải, để thế giới bớt chiến tranh, thù hận, để con người xích lại gần nhau hơn, nắm chặt tay nhau, cùng nhau xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ, một nền văn hoá sự sống và thiên đàng sẽ hiển trị tại đây, bây giờ và lúc này.
2021
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI
14 11 Tr Thứ Ba Tuần III Mùa Vọng.
Thánh Gio-an Thánh Giá, Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
Mt 21, 28-32
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI
Gioan là thánh vì cuộc đời ngài là một nỗ lực quả cảm dám sống trọn với tên của ngài: “của Thánh Giá”. Sự điên rồ của thập giá cuối cùng đã được thể hiện. Câu nói bất hủ của Ðức Kitô: “Ai muốn theo ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo ta” (Mc 8, 34b) là câu chuyện cuộc đời Thánh Gioan. Mầu Nhiệm Vượt Qua – từ sự chết đến sự sống – đã được thể hiện trong cuộc đời Thánh Gioan như một người cải cách, một nhà thơ thần bí và là một linh mục thần học.
Sinh ngày 24 tháng 6 năm 1542 tại Fontiveros, Tây Ban Nha. Gioan hiểu được sự quan trọng của tình yêu tự hiến là nhờ cha mẹ. Cha ngài đã hy sinh của cải, danh vọng và sự an nhàn khi kết hôn với cô con gái của người thợ dệt và vì đó đã bị gia đình từ bỏ. Sau khi cha ngài từ trần, mẹ ngài cố gắng đùm bọc gia đình trong khi họ lang thang đầu đường xó chợ để kiếm việc làm. Những tấm gương hy sinh ấy đã giúp Gioan theo đuổi tình yêu vĩ đại của chính ngài dành cho Thiên Chúa.
Dù gia đình đã tìm được việc làm, nhưng vẫn không đủ ăn nên Gioan phải lang thang giữa thành phố giàu có nhất Tây Ban Nha. Năm mười bốn tuổi, Gioan được nhận vào làm việc trong bệnh viện với nhiệm vụ trông coi các bệnh nhân bị chứng bệnh bất trị hoặc bị điên dại. Chính trong sự đau khổ và nghèo nàn này, Gioan đã nhận biết và đã đi tìm hạnh phúc không ở nơi trần gian, nhưng ở nơi Thiên Chúa.
Năm 1563, sau khi Gioan gia nhập dòng Carmel đi chân đất, Thánh Têrêsa Avila nhờ ngài tiếp tay trong công việc cải cách. Cả hai đều tin rằng nhà dòng phải trở về với đời sống cầu nguyện. Nhiều tu sĩ Carmel cảm thấy bị đe dọa bởi sự cải tổ này nên một số tu sĩ đã bắt cóc thánh nhân. Ngài bị nhốt trong một xà lim nhỏ hẹp ở Toledo, Tây Ban Nha và bị tra tấn ba lần một tuần bởi chính các tu sĩ. Trong cái tăm tối, lạnh lẽo, và cô quạnh của xà lim, tình yêu và đức tin của ngài bừng lên như lửa. Ngài mất hết tất cả ngoại trừ Thiên Chúa và Thiên Chúa đã đem cho ngài niềm vui vĩ đại trong cái xà lim nhỏ bé đó.
Sau chín tháng tù đầy, Cha Gioan vượt ngục bằng lối cửa sổ duy nhất của xà lim mà ngài đã leo lên đó bằng sợi dây được kết bằng tấm vải trải giường, và đem theo tất cả các bài thơ huyền bí mà ngài sáng tác trong thời gian tù đầy. Vì không biết mình đang ở đâu, ngài phải theo một con chó để đi vào thành phố. Ngài trốn trong bệnh xá của một tu viện và ở đây ngài đọc thơ cho các nữ tu nghe. Từ đó, cuộc đời ngài tận tụy cho việc chia sẻ và dẫn giải tình yêu Thiên Chúa.
Lẽ ra cuộc đời nghèo khổ và tù đầy đã biến ngài thành một con người yếm thế cay đắng. Nhưng ngược lại, ngài đã trở thành một người đam mê bí ẩn, sống với sự tin tưởng rằng “Có ai thấy người ta yêu mến Thiên Chúa bởi sự tàn nhẫn đâu?” và “Ở đâu không có tình yêu, hãy đem lại tình yêu – và bạn sẽ tìm thấy tình yêu.”
Vì niềm vui chỉ xuất phát từ Thiên Chúa nên Thánh Gioan tin rằng những ai tìm kiếm hạnh phúc ở trần gian này thì giống như “một người đang chết đói mà há miệng đớp lấy không khí.” Ngài dạy rằng chỉ khi nào chúng ta dám cắt bỏ sợi dây dục vọng thì chúng ta mới có thể bay lên cùng Thiên Chúa.
Là một tu sĩ dòng Carmel, ngài cảm nghiệm sự thanh luyện tinh thần; là vị linh hướng, ngài cảm được cuộc chiến đấu tinh thần nơi người khác; là một thần học-tâm lý gia, ngài diễn tả và phân tích giá trị của sự đau khổ trong các văn bản của ngài. Hầu hết các văn bản của ngài đều nhấn mạnh đến cái giá phải trả của tinh thần kỷ luật, con đường hiệp nhất với Thiên Chúa là: sống kỷ luật, từ bỏ mình, thanh luyện. Một cách độc đáo và mạnh mẽ, Thánh Gioan nhấn mạnh đến sự mâu thuẫn của Tin Mừng: Thập giá dẫn đến sự cứu chuộc, đau khổ dẫn đến sự ngất ngây, tăm tối dẫn đến sự sáng, khi từ bỏ là lúc làm sở hữu, hy sinh bản thân để kết hợp với Thiên Chúa. Nếu bạn muốn giữ mạng sống mình thì bạn sẽ mất. Thánh Gioan quả thật là người “của Thánh Giá.”
Ngài từ trần năm 49 tuổi ngày 14 tháng 12 năm 1591 tại Ubeda, Andalusia, Tây Ban Nha – cuộc đời thật ngắn ngủi, nhưng trọn vẹn. Cha Gioan được mai táng trong hầm mộ dưới nền nhà thờ. Vào đêm ngày Thứ Hai sau lễ an táng, các đan sĩ nhìn thấy một luồng sáng lớn bừng cháy trong nhiều phút.
Sau khi thánh nhân qua đời được chín tháng, mộ phần của ngài được mở ra lần đầu. Bà Doda Anna de Penisola vì muốn đem thi hài đấng thánh về trở về ngôi nhà bà đã xây dựng cho ngài tại thành phố Segovia nên đã xin được phép chính thức cải táng thi hài sau khi ngài qua đời 18 tháng.
Lúc đó, một thuộc quyền của đức vua là trung sĩ Phanxicô de Medina Zavallos được sai đến Ubeda để thương lượng việc chuyển hài cốt. Vâng theo thượng lệnh, cha bề trên đã đưa viên sứ giả vào nhà thờ ban đêm. Và khi mở cửa mộ, họ nhận ra một mùi thơm và thấy thi hài đấng thánh vẫn còn nguyên vẹn và mềm mại. Cha bề trên khi ấy từ chối không cho đem thi hài đi khỏi viện cớ lệnh chính thức chỉ truyền chuyển các xương mà thôi. Lúc ấy, trung sĩ Zavollas cắt một ngón tay để trình cho bà Doda Anna để làm bằng chứng xác thánh vẫn còn nguyên vẹn. Khi ngón tay bị cắt, máu tuôn ra nhỏ giọt như thể của một người đang sống.
Sau chín tháng chờ đợi thêm nữa, trung sĩ Zavollas lại đến Ubeda. Mộ phần được mở ra và thi hài được thấy vẫn còn toàn vẹn bên dưới lớp vôi đã được đổ vào lần trước. Trung sĩ cho xác thánh vào một chiếc bao và đem đi, nhưng mùa thơm từ xác thánh tỏa ra khắp nơi và gợi sự tò mò khi viên trung sĩ đi ngang qua, đến nỗi ai cũng gạn hỏi là trong bao có gì. Đến Madrid, các đan sĩ dòng Kín đặt xác thánh một một quan tài để chuyển về Segovia cho xứng đáng. Khi đến nơi, thi hài đấng thánh đã được nghinh tiếp với tất cả sự cung kính tôn vinh và được trưng bày trong nguyện đường cho các tín hữu đông đảo đến kính viếng.
Thi hài đấng thánh được cải lên vào các năm 1859 và 1909. Đến năm 1926, một đài vị nguy nga bằng cẩm thạch và đồng với màu sắc đep đẽ đã được xây dựng bằng số tiền quyên góp toàn quốc và được các nghệ nhân danh tiếng nhất Tây Ban Nha thực hiện. Trong lúc chuyển dời thi hài đấng thánh đến đài vị mới này, thi hài đấng thánh lại được mở ra cho các tín hữu kính viếng. Lần cải táng gần đây nhất là vào năm 1955 nhân chuyến kinh lý của cha tổng quyền dòng Carmêlô. Lúc ấy , thi hài đấng thánh đã thấy hơi biến màu nhưng vẫn còn mềm mại tươi tốt.
Đức Giáo Hoàng Clement X tôn phong Chân Phước cho cha Gioan ngày 25 tháng 01 năm 1675 và Đức Giáo Hoàng Benedictus XIII đã nâng Ngài lên hàng hiển thánh ngày 27 tháng 12 năm 1726. Đức Giáo Hoàng Pius XI đã tuyên xưng cha Gioan của Thánh Giá là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 24 tháng 8 năm 1926.
Những điều kiện để vào được Nước Trời mà Chúa Giê-su nói đến trong Tám Mối Phúc Thật là những phẩm chất thấy được nơi hình ảnh trẻ em. Trẻ em là hình ảnh của những người nghèo vì chưa sở hữu tài sản đồng thời cũng rất có khả năng đón nhận với tấm lòng đơn sơ: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5, 2).
Một cách tự nhiên, trẻ em là những người hiền hoà dễ mến, từ nét mặt hiền hoà không cau có, không đe dọa ai, đến nụ cười tươi tắn, lời nói nhẹ nhàng như khơi gợi tình thương mến: “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5, 4). Trẻ em có tâm hồn trong sạch, không quanh co dối trá, không thủ lợi lừa đảo, không tính toan mưu mô: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5, 8).
Qua dụ ngôn “Hai người con”, Chúa Giêsu muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ cứng lòng của các đầu mục dân Do Thái, và kêu gọi họ phải ăn năn sám hối nếu muốn được hưởng ơn cứu độ. Dụ ngôn trình bày về hai thái độ của hai đứa con trong một gia đình:
Người thứ nhất tượng trưng các người thu thuế tội lỗi, tuy lúc đầu đã phạm tội không làm theo thánh ý Thiên Chúa khi không tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng đã tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và hồi tâm sám hối tội lỗi, nên đủ điều kiện vào Nước Thiên Chúa của Người.
Người con thứ hai tượng trưng cho các thượng tế và đầu mục dân Do thái. Tuy bề ngoài họ rất có lòng đạo, thể hiện qua việc tuân giữ Luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng lại cứng lòng không tin vào Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu do Thiên Chúa sai đến. Trái lại còn ra tay giết hại Đức Giê-su trên cây thập giá. Nên cuối cùng họ sẽ bị loại ra ngòai Nước Thiên Chúa.
Nhờ ơn của Bí tích Rửa tội, mỗi chúng ta trở nên công dân của Nước Trời, vì thế, ta cần phải hoàn thiện con người mình mỗi ngày cho xứng là tín hữu, bằng việc không ngừng sám hối. Việc sám hối không chỉ là việc của người tội lỗi, cũng không chỉ là ân hận khóc than về quá khứ, nhưng là cố gắng mỗi ngày cắt tỉa những thói hư tật xấu và cố gắng làm nhiều điều tốt.
Mỗi ngày cần phải tái khẳng định niềm tin vào Chúa Giêsu là Tin Mừng của Thiên Chúa Cha và là Đấng cứu độ chúng ta để dám phó thác cuộc đời cho Ngài; đồng thời, mỗi người cần phải lắng nghe, suy gẫm và thực hành những điều Tin Mừng chỉ dạy. Tin vào Tin Mừng còn là sống và loan báo niềm vui mà Tin Mừng đem lại. Đó là niềm vui ơn cứu độ, niềm vui được giải thoát khỏi sự chết và được hưởng sự sống của Thiên Chúa, niềm vui và tự hào vì được trở nên con Thiên Chúa.
Giáo Hội là hình ảnh Nước Trời nơi trần gian, mà chúng ta đang là những thành viên. Chúng ta có bổn phận chung tay xây dựng Giáo Hội bằng sự hiệp thông, hiệp nhất và vâng nghe theo sự hướng dẫn của Giáo Hội. Chúa đang mời gọi mỗi người, dù ở bậc sống nào, dù là nghề nghiệp gì, cũng cần phải góp phần mình xây dựng Giáo Hội. Cùng với mọi thành viên khác, chúng ta làm cho Tin Mừng tình thương của Chúa được lan tỏa đến các anh chị em chung quanh qua chính đời sống và hành động của mỗi người.
2021
NHÌN LẠI CHÍNH MÌNH
13 10 Đ Thứ Hai Tuần III Mùa Vọng.
Thánh Lu-xi-a, Trinh nữ, Tử đạo, lễ nhớ.
Mt 21, 23-27
NHÌN LẠI CHÍNH MÌNH
Thánh nữ Lucia mồ côi cha ngay từ lúc còn nhỏ tuổi. Người sinh ra tại Syracusas nước ý. Ngay từ nhỏ, thánh nữ Lucia đã quyết dành riêng cho Chúa, hiến toàn thân mình cho Giavê Thiên Chúa làm như của lễ toàn thiêu dâng lên Ngài. Tuy nhiên, con đường của thánh nữ có chỗ quẹo, chỗ ngoằn ngoèo. Mẹ thánh nữ đã quyết tâm ép buộc Người lập gia đình. Thiên Chúa có chương trình của Ngài.
Nhờ lời cầu nguyện của Lucia, Chúa đã nhậm lời thánh nữ cho mẹ Người khỏi lập tức cơn bệnh loạn huyết hiểm nghèo, bà đã mắc phải từ lâu. Ðược Chúa yêu thương, làm phép lạ và tỏ ra cho thánh nữ biết, Ngài tuyển chọn thánh nữ. Nên sau biến cố Chúa tỏ mình, chữa lành, thánh nữ đã từ khước cuộc hôn nhân này, bán tất cả gia tài Người có để làm của hồi môn, rồi phân phát cho kẻ nghèo khó như lời Chúa truyền cho chàng thanh niên giầu có.
Vì bị từ chối kết hôn, chàng trai đáng lẽ là chồng của Lucia đã đang tâm tố cáo với Hoàng đế Lucia có đạo, thánh nữ đã bị bắt và giải tới trước mặt quan Paschase. Quan Paschase đã dùng hết lời lẽ dụ dỗ thánh nữ và dùng đủ mọi cực hình để bắt thánh nữ dâng hương tế thần nhưng quan hoàn toàn thất vọng vì sự quả cảm và lòng tin sắt đá của thánh nữ đối với Chúa. Quan cho dẫn thánh nữ tới nơi tội lỗi nhất hầu hủy hoại sự trinh tiết của thánh nữ.Nhưng Chúa đã gìn giữ Người, cho thân xác Người trở nên nặng nề như núi đá khiến không ai có thể kéo nổi.
Chúa lại một lần nữa gìn giữ thân xác trinh nữ vì rằng khi quan Paschase quá nóng giận đã cho quân lính tẩm dầu vào thân xác trinh nữ hầu hủy hoại thân xác của người, Chúa đã gìn giữ thân xác Người vẹn toàn giữa lửa hồng rực rỡ. Chúa đã dọn chỗ cho trinh nữ Lucia và cho Người được phúc tử đạo vào năm 304 dưới thời bắt đạo của Ðiôclêtianô. Thánh nữ đã tiên báo Giáo Hội sẽ được hưởng bình an, thơ thới. Xác thánh nữ được chôn cất ngay trên quê hương của Người.
Chúa Giê-su từng phân tích hai lối dùng quyền bính, một của thói đời và một của những người theo Ngài. Theo thói đời, những người nắm giữ quyền bính thường dùng mọi phương tiện để thống trị dân (Lc 22, 25). Chính vì tham vọng thống trị, nên họ thường tìm mọi cách tiêu diệt những ai bất phục họ. Thái độ của các thượng tế và kỳ mục đối với Chúa Giêsu trong câu Tin Mừng trên là một bằng chứng. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài rằng quyền bính là để phục vụ cho sứ mạng. Chúa Giê-su đã sống như thế. Chúa Cha đã ban cho Người mọi quyền bính trên trời dưới đất (Mt 28, 18), nhưng Ngài không bày tỏ quyền uy để thống trị, mà cốt để ý muốn Chúa Cha thể hiện dưới đất. Thậm chí, Ngài còn hiến mạng sống cho sứ vụ. Nói cách khác, quyền bính Ngài không uy hiếp bất cứ ai; trái lại, để đưa dẫn con người vượt thắng uy lực của sự dữ và cứu độ con người.
Ta thấy từ lúc Chúa Giêsu bắt đầu sứ điệp loan báo Tin Mừng để thực hiện ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng. Chúa Giêsu đã thu hút lôi cuốn rất đông dân chúng đến với Người, bằng chứng hai lần dân chúng đi theo Người đến nỗi quên cả ăn uống, và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để họ có lương thực mà ăn. Rồi khi Chúa vào Thành Giêrusalem dịp lễ vượt qua Người được đông đảo dân chúng tung hô: “hoan hô con Vua Đavit đấng nhân danh Chúa mà đến” (Mt 21, 9b). Chúa Giêsu đã có ảnh hưởng và uy tín rất lớn nơi dân chúng. Thế nhưng trong sứ vụ công bố Tin Mừng của Chúa các thượng tế và kỳ lão là các nhóm đã nhiều lần cản trở sứ vụ của Người, họ ghen tỵ, bắt bẻ, gài bẫy để tìm cách triệt hạ Người.
Tin Mừng hôm nay tiếp theo biến cố ngày hôm trước Chúa vào trong đền thờ đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, sau khi nghỉ đêm tại Bêtania ngày hôm sau Chúa lại vào Đền thờ để giảng dạy, các thượng tế và kỳ lão thấy Chúa, họ liền đến để tra vấn Người: “Ông lấy quyền nào mà làm những điều này? Ai đã ban quyền ấy cho ông?” (Mt 21, 23b). Đời công khai sứ vụ của Chúa, Người đã làm nhiều phép lạ mà người đời không thể làm được.
Vậy những việc của Người chỉ phát xuất từ nơi Thiên Chúa. Chúa không trả lời trực tiếp về câu hỏi họ đặt ra, vì Người biết mục đích việc tra vấn của họ là để gài bẫy, tìm cách bắt bớ triệt hạ Chúa. Để đánh động cách nghĩ của giới trí thức này, Chúa đã nhắc lại ngôn sứ Gioan và đặt lại câu hỏi với họ “phép rửa của ông Gioan xuất phát từ đâu: Thiên Chúa hay loài người” (Mt 21, 25a). Gioan đã đi bước trước để dọn đường cho Chúa đến, dân chúng cũng đến với ông rất đông và đã tiếp nhận phép rửa do chính ông làm, nhưng các nhóm thượng tế và kỳ lão này vẫn cố tình lảng tờ như không biết. Sự đánh động của Chúa để họ nhìn ra cách sống nơi chính họ, nhưng họ vẫn chai lì. Họ bắt đầu suy luận về câu hỏi của Chúa, và không dám trả lời cách dứt khoát để rồi họ trả lời Người: “Chúng tôi không được biết”. (Mt 21, 27a)
Tất cả những lời tiên báo về Chúa Giêsu Kitô, họ đã họ nghe biết và học hỏi kinh thánh từ đời nọ đến đời kia, nhưng khi Chúa xuất hiện thì lòng họ rất bối rối và lo sợ.
Sự bối rối của các luật sĩ và biệt phái về Chúa Giêsu, mặc dù những phép cả thể Chúa làm nhưng họ vấp phạm, vì Chúa Giêsu cũng được sinh ra từ làng quê nghèo Be-lem, cũng chỉ là con người nên họ bối rối không chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Thánh, và họ lo sợ vì lời giảng dạy của Chúa Giêsu có uy quyền, Lời chữa lành (hãy vác chõng mà về), Lời trừ tà thần ma quỷ (quỷ cũng phải nghe lời), Lời ban sự sống (Larazo sống lại), Lời mà toàn dân nghe theo Chúa mà bỏ họ, nên họ sợ. Và họ cứ bối rối lo sợ mặc dù đã nghe và thấy những phép lạ Chúa Giêsu đã làm, để rồi họ không tin.
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu (21, 23-27) đã tường thuật sự nghi ngờ, bối rối khi họ đối thoại với Chúa Giêsu. Họ bàn tính với nhau rằng: “Nếu ta nói bởi trời, thì ông sẽ nói với ta: Vậy tại sao các ngươi không tin ông ấy? Và nếu ta nói bởi người ta, thì chúng ta lại sợ dân chúng. Vì mọi người coi Gioan như một vị tiên tri” (Mt 21, 25-26). Chính họ không nhận ra Chúa, vì họ không thuộc về Thiên Chúa, họ thuộc về chính họ, thuộc phàm tục, thuộc trần gian.
Trong cách sống đạo hôm nay nhiều khi chúng ta hay phê phán về người này hay người khác, linh mục nọ tu sĩ kia, nhưng chúng ta chưa nhìn lại chính mình, những Lời dạy của Chúa chắc hẳn chúng ta đã được nghe đi nghe lại rất nhiều lần, nhưng chúng ta đã thực hành được bao nhiêu việc như Lời Chúa dạy. Tham dự Thánh Lễ cứ phải so đo: cha này làm lễ lâu hơn cha kia, cha già giảng lâu hơn cha trẻ; đi học giáo lý: dì phước này nói nhiều hơn GLV kia. Vô tình chúng ta đi vào cách sống hình thức như nhóm thượng tế và kỳ lão khi xưa, và còn nguy hại hơn là phê phán đằng sau lưng, nơi phố chợ hay trên bàn nhậu … không dám trực diện như nhóm thượng tế và kỳ lão.