2021
KHÔNG NHẬN RA CHÚA
11 08 Tm Thứ Bảy Tuần II Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Đa-ma-xô I, Giáo hoàng.
Mt 17, 10-13
KHÔNG NHẬN RA CHÚA
Theo chứng từ của người thư ký của ngài là thánh Giêrôme, thì thánh Đamasô là “một người không ai sánh bằng, rất hiểu biết Kinh Thánh, một tiến sĩ trinh trắng của một Giáo hội trinh trắng, rất yêu quý sự khiết tịnh, và sung sướng khi nghe được những lời khen ngợi nhân đức này.”
Thánh Đamasô rất hiếm khi được nghe những lời tán dương mình như vậy. Những tranh giành nội bộ có tính cách chính trị, các tà thuyết, các tương giao căng thẳng với chính các Giám mục của ngài và của Giáo hội Ðông phương đã làm cản trở sự bình an trong triều đại Giáo Hoàng của ngài.
Là con của một linh mục Rôma, có lẽ thuộc gốc Tây Ban Nha, Đamasô khởi sự là một phó tế trong nhà thờ của cha mình, sau đó ngài là linh mục của một nhà thờ mà sau này là vương cung thánh đường San Lorenzo ở Rôma. Ngài phục vụ Ðức Giáo Hoàng Liberius (352-366) và đi theo Ðức Giáo Hoàng khi bị lưu đầy.
Khi Ðức Liberius từ trần, Đamasô được bầu làm Giám mục Rôma vào tuổi 60; nhưng một thiểu số khác lại chọn và tấn phong một phó tế khác là Ursinus làm Giáo Hoàng. Cuộc tranh luận giữa Đamasô và Giáo Hoàng đối lập gây nên nhiều xung đột giữa vương cung thánh đường, gây gương mù cho các Giám mục Ý. Cho dù cuộc chiến cụ thể đã ngưng, nhưng đức Đamasô còn phải chiến đấu với các đối thủ ngài trong suốt cuộc sống của mình.
Trong một thượng Hội đồng do Đamasô triệu tập nhân ngày sinh nhật của ngài, đức Đamasô yêu cầu các Giám mục tán thành các hành động của ngài. Nhưng câu trả lời của các Giám mục thật cộc lốc: “Chúng tôi quy tụ để mừng sinh nhật, chứ không để kết án một người vắng mặt (unheard).” Khoảng năm 378, những người ủng hộ vị Giáo Hoàng đối lập còn tìm cách đưa đức Đamasô ra tòa về một tội phạm nghiêm trọng – có lẽ tội dâm dục. Ngài đã phải thanh minh trước toà dân sự cũng như trước một công đồng của Hội Thánh.
Khi là Giáo Hoàng, ngài có lối sống thật đơn giản trái ngược với các giáo sĩ ở Rôma, và ngài rất hăng say chống lại tà thuyết Ariô và các tà thuyết khác. Một sự hiểu lầm trong văn từ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã đe dọa mối giao hảo thân thiện với Giáo hội Ðông phương, và đức Đamasô là người ôn hoà đã dàn xếp cách tốt đẹp.
Chính trong thời Giáo Hoàng của ngài (380) mà Kitô giáo được tuyên bố là tôn giáo chính thức của Rôma, và tiếng Latinh trở nên ngôn ngữ chính thức trong phụng vụ nhờ sự cải cách của Ðức Giáo Hoàng. Cũng nhờ ngài khuyến khích thánh Giêrôme học hỏi Kinh Thánh để rồi dịch Kinh Thánh từ nguyên bản sang Latinh, nhờ đó mà bộ phổ thông (Vulgate) được chào đời, đó là bộ Kinh Thánh mà Công Ðồng Triđentinô (11 thế kỷ sau) tuyên bố là “có giá trị để đọc giữa công chúng, được dùng để tranh luận, và để rao giảng.”
Thánh Đamasô là một văn sĩ – không phải là tác giả của nhiều cuốn sách như các văn sĩ Kitô hữu khác đã thực hiện. Ngài ưa thích viết các vần thơ trên các tấm bia đá: Là những câu nói ngắn toát lên cái ý nghĩa chính cần phải được phô diễn. Ngài viết rất nhiều bia mộ cho các vị tử đạo. Và ngài viết một tấm bia về chính bản thân ngài cho thấy đức khiêm nhường của ngài và lòng kính trong của ngài đối với các vị tử đạo.Trong một nghĩa địa Rôma có một hầm mộ Giáo Hoàng do ngài xây dựng ngài để lại ở đó là tấm bia có hàng chữ như sau: “Tôi, Đamasô, ao ước được chôn táng ở đây, nhưng tôi sợ làm thế sẽ xúc phạm đến hài cốt của các Thánh.” Thay vì thế, khi ngài chết, ngài được chôn táng chung với mẹ ngài và một em gái của ngài.
Từ một sắc lệnh của Đamasô (được gán cho thánh Giáo Hoàng Đamasô): Có rất nhiều cách sắp đặt Tên của Chúa Giêsu dưới nhiều hình thức: “Ngài là Chúa, bởi lẽ Ngài là Thần khí; là Ngôi Lời, bởi vì Ngài là Thiên Chúa; là Con, bởi Ngài là Con độc nhất sinh bởi Đức Chúa Cha; là Người, vì Ngài được sinh ra bởi Đức Trinh nữ; là tư tế, vì Ngài hiến dâng minh làm hiến tế; là Đấng chăn chiên, vì Ngài là người canh gác; là Sâu bọ, vì Ngài đã sống lại; là Núi, vì Ngài mạnh mẽ; là Đường, vì chỉ có một con đường thẳng tắp qua Ngài để đến với sự sống; là Con Chiên, vì Ngài chịu đau đớn; là Đá – Góc, vì Ngài là lời dạy bảo; là Thầy, vì Ngài chỉ cho biết phải sống thế nào; là Mặt trời, vì Ngài là là Đấng chiếu soi; là Chân lý, vì Ngài từ Chúa Cha mà đến; là Sự sống, vì Ngài là Đấng tạo dựng; là Bánh vì Ngài là xác thịt; là người Samari, vì Ngài là người bảo vệ; là Chúa Kitô, vì Ngài đã được xức dầu; là Giêsu, vì Ngài là Đấng Trung gian; là Cây nho, vì chúng ta được cứu chuộc bởi máu Ngài; là Sư tử, vì Ngài là vua, là Tảng Đá, vì Ngài vững mạnh; là bông hoa, vì Ngài là Đấng được chọn; là ngôn sứ, vì Ngài đã mặc khải điều sẽ xảy đến.”
Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: “Elia phải đến trước đã”. Theo truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước, không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.
Chúa Giêsu cũng xác nhận với các môn đệ: “Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự”. Elia ấy chính là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”.
Con người của Gioan Tẩy Giả thật là khiêm nhường trong vị thế của ông: “Còn tôi, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người”. Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh như tiên tri Elia trong Cựu Ước nhưng cũng là một con người ăn chay hãm mình trong rừng vắng, khiêm nhường, đơn sơ trong công việc dọn đường cho Ðấng Cứu Thế sẽ đến.
Thật là một tấm gương cao quí đáng cho chúng ta bắt chước noi theo. Gioan Tẩy Giả không cao trọng nhờ sự lạ lúc sinh ra nhưng cao trọng do sứ mệnh dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến mà ông đã làm trong sứ mệnh của mình. Trong ngục tối, ông dám nói thẳng sự thật, dám làm chứng nhân cho Thiên Chúa ở giữa trần gian.
Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước, đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.
Bao nhiêu năm tháng chờ đợi Ðấng Cứu Thế đến, trải dài trong Cựu Ước vậy mà khi Ngài đến con người đã không nhận ra Ngài. Mỗi người chúng ta đôi lúc cũng đã không nhận ra Ngài trong cuộc sống, chúng ta vẫn nhớ Lời Chúa nhắc với chúng ta: “Ai làm cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em ấy là làm cho chính Ta”.
Những kẻ bé mọn đó là ai? Thưa, họ là những người mà Chúa Giêsu đã nói: :Ta đói các con cho Ta ăn, Ta khát các con cho Ta uống. Ta rách rưới các con đã cho áo mặc. Khi Ta ở tù các con đã viếng thăm”. Lời nói của Chúa Giêsu làm mỗi người trong chúng ta suy nghĩ và tự nhận: Ailà anh em tôi? Không phải những ai xa lạ, không phải là những ai ở xa để rồi chúng ta không thấy được. Không phải là những bậc giàu có sang trọng trong xã hội, những người thiếu thốn, những người chạy gạo ăn bữa hôm lo bữa mai, những người không có thân nhân bà con, không mái nhà che mưa che nắng vào những trưa hè nóng oi bức, vào những cơn mưa tàn tã của thời tiết thu đông.
Mỗi người trong chúng ta tự hỏi như người luật sĩ và biệt phái trong Tin Mừng hỏi Chúa Giêsu: “Nhưng ai là anh em tôi?” Chúng ta cùng nhau xin Chúa cho chúng ta biết rõ, cảm nhận một cách sâu xa hơn câu trả lời của mình trong Mùa Vọng này để chúng ta đi đến niềm nở với người anh chị em, cùng nhau nắm chặt bàn tay thân ái đón mừng Chúa đến.
Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương và đến với chúng ta hàng ngày qua các biến cố. Con Thiên Chúa đã mặc xác phàm để đến và ở lại với loài người chúng ta. Qua bí tíchThánh Thể, hàng ngày chúng ta được thưởng nếm sự sống Thần Linh để sống dồi dào sung mãn. Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta qua từng công việc bổn phận với những biến cố vui buồn lớn nhỏ của bản thân, của gia đình và của thời cuộc. Ước gì chúng ta nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa để biết cải hóa con người mình theo lời Chúa khuyên dạy.
Sống tâm tình Mùa Vọng, mùa hồng ân, chúng ta có thời gian để chiêm nghiệm chân lý sự sống, để thay đổi những gì chưa phù hợp với những giá trị của Tin Mừng. Ước gì chúng ta thực hiện được lời thánh vịnh 142 “Ngay từ buổi sớm mai, xin cho con nghiệm thấy tình thương của Chúa”.
2021
Pharisiêu Cứng Lòng
10 07 Tm Thứ Sáu Tuần II Mùa Vọng.
(Tr) Đức Trinh Nữ Maria Lôretô.
Mt 11, 16-19
Pharisiêu Cứng Lòng
Ngày 31/10/2019, Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích ra sắc lệnh xác lập: lễ nhớ tuỳ chọn Đức Trinh nữ Maria Loreto được ghi vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Roma và được mừng vào ngày 10/12 mỗi năm.
Sắc lệnh viết: “Sự tôn kính Nhà Thánh Loreto, có từ thời Trung cổ, là nguồn gốc của đền thánh đặc biệt này, và ngày nay nhiều khách hành hương vẫn đến để nuôi dưỡng đức tin bằng Lời Thiên Chúa nhập thể cho chúng ta.
“Đền thờ này gợi lại mầu nhiệm Nhập thể và thúc đẩy tất cả những ai đến thăm viếng được cảm nhận “thời gian viên mãn”, khi Thiên Chúa sai Con của Người, sinh bởi một người nữ và qua cả lời thiên thần loan báo trong Tin Mừng lẫn lời xin vâng đáp lại của Đức Trinh Nữ. Được bao phủ bởi Thánh Thần, người tôi tớ khiêm nhường của Chúa đã trở nên ngôi nhà của Thiên Chúa, hình ảnh tinh khiết nhất của Giáo hội thánh thiện.”
“Tại Nhà Thánh, trước hình Mẹ của Đấng Cứu Thế và của Giáo hội, các thánh và các chân phước đã đáp lại tiếng gọi của riêng mình, những bệnh nhân đau đớn đến khẩn cầu và được an ủi, dân Chúa đã bắt đầu ca ngợi và cầu nguyện với Mẹ bằng kinh cầu Loreto vốn được phổ biến trên toàn thế giới. Đặc biệt những người di chuyển bằng máy bay tìm thấy nơi Mẹ là đấng bảo trợ trên trời.
Dưới ánh sáng này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban sắc lệnh với thẩm quyền của ngài, thiết lập lễ nhớ tuỳ chọn Đức Trinh nữ Maria Loreto được ghi vào lịch Roma ngày 10/12, ngày lễ tại Loreto và được mừng mỗi năm.
Do đó, lễ nhớ mới phải được ghi vào tất cả các lịch, sách phụng vụ Thánh Lễ và phụng vụ các Giờ kinh; những bản văn phụng vụ liên quan kèm theo sắc lệnh này và các bản dịch, được chuẩn nhận bởi các Hội đồng Giám mục, sẽ được phổ biến sau khi được Bộ này xác nhận.
Kiêu ngạo, mù lòa là căn bệnh của những người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là óc phê phán chủ quan và họ cứ tưởng mình sáng hóa ra lại chẳng thấy gì. Vì nếu người mù biết mình tối thì họ sẽ cố gắng tìm hiểu sự việc trước mắt khi không nhìn được sự khác. Còn người chủ quan và phiến diện thì muôn đời sẽ tăm tối trước chân lý, vì khi chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý mà họ cứ tưởng là đã đạt được chân lý để rồi cứ thế mà cố chấp trước những vẻ đạp của chân lý. Họ chẳng khác gì năm người mù đi xem voi, người thì cho con voi là cái cột đình to tướng, kẻ lại nói con voi là chiếc quạt khổng lồ, người khác lại cho con voi là quả núi đồ sộ.
Khi thánh Gioan Tẩy Giả đến rao giảng ơn cứu độ, người không ăn uống thì được gán cho nhãn hiệu là bị quỉ ám. Ðức Kitô đến, Người ăn uống như bình thường thì bị kết án là người mê ăn uống, là bạn của quân thu thuế và tội lỗi. Họ chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ nhìn Ðấng Messia theo cái nhìn phiến diện nên người Do Thái đã khép chặt cửa lòng trước lời mời gọi của ơn cứu rỗi. Với cái nhìn phiến diện đã nảy sinh những phe phái chủ quan chẳng khác gì bọn trẻ nít ngồi nơi phố chợ: “Chúng tôi thổi sáo sao các bạn không nhảy múa. Chúng tôi than vãn sao các bạn không than khóc?” Chính vì thế mà ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng nhận ra: “Ngài đã đến trong nhà Ngài nhưng người nhà đã không nhận ra Ngài, không đón tiếp Ngài”.
Chúa Giêsu đã phải than phiền, trách móc những kẻ khôn ngoan giả thời Ngài. Thế hệ mà Ngài đã đến, rao giảng lời Chân lý, nhưng họ đã trở thành người khuyết tật của đôi tai, đôi mắt, thành những kẻ cứng lòng tin. Rao giảng thế nào, họ cũng chẳng tin. Nếu Gioan Tẩy Giả đến sống khắc khổ, mời gọi ăn năn sám hối, thì họ lại lên án Gioan là người bị quỷ ám.
Ngược lại, Chúa Giêsu đến, cùng đồng bàn, cùng ăn, cùng uống trong nhịp đời của họ, thì họ lại ta thán, chỉ trích Ngài là kẻ mê ăn mê uống, bạn bè với những người thu thuế và tội lỗi. Ngài ví thế hệ chai lì ấy như cái lũ trẻ con chơi trò múa hát giữa phố chợ. Nhóm này thổi sáo, nhưng nhóm kia không thèm nhảy múa; nhóm này than vãn, nhóm khác tỉnh queo, không than không khóc. Đề nghị thế nào, họ cũng chẳng làm theo, bởi cái “cứng lòng” đã chi phối hết tất cả. Họ đã không tin Ngài.
Chúa Giêsu đã phản ứng lại và chỉ rõ cho thấy sự giả tạo của những kẻ khôn ngoan thông thái thời ấy. Cái khôn ngoan mà họ tự hào, dương oai tự đắc, thật ra là sự dốt nát, vì nó không chỉ bảo cho họ con đường sống, con đường nhận ra Đấng Thiên Sai. Sự chai lì trong tâm hồn đã phá đổ hạnh phúc, mà lẽ ra, con người có quyền được thừa hưởng.
Chúa Giêsu đến, Ngài đem lời của Tin Mừng cứu độ và ngỏ với con người. Chỉ những ai khôn ngoan thật mới nhận ra Ngài, mới nghe được tiếng Ngài. Ngài đã đồng kiếp người, trong những cái nhỏ nhoi nhất để chia san, để cùng sống với những cung bậc của nhịp đời con người đang sống với. Giữa những sai lầm của con người, Thiên Chúa lên tiếng, chỉ dạy, kêu gọi con người sám hối, trở về, tin vào Ngài để đón nhận ơn cứu rỗi. Ngài hướng dẫn, chỉ ra con đường của sự thật, con đường đi đến hạnh phúc trường sinh. Kẻ khôn ngoan thực phải là người rất tinh tế để nhận ra Ngài, Thiên Chúa của lòng mình. Sự khôn ngoan ấy sẽ giúp con người có được lòng khiêm tốn, mở ra để đón nhận chân lý và trở về với Thiên Chúa.
Một cuộc trở về với niềm tin. Niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy sẽ đưa con người đến cánh cửa của Chân Lý, của hạnh phúc thật. Niềm tin ấy sẽ vực dậy con người từ những hố cách ngăn của tội lỗi, xoa dịu những vết đau hằn sâu trong tâm hồn. Niềm tin vào Thiên Chúa cho con người hy vọng sống tròn đầy, chờ đợi ngày hạnh phúc vĩnh cửu. Niềm tin ấy hướng dẫn con người đi trên nẻo đường ngay chính, xây dựng một cuộc sống hạnh phúc ngay tại trần thế và ngưỡng vọng về đời sau.
Niềm tin vào Thiên Chúa, phải là điều căn bản của người Kitô hữu. Niềm tin ấy phải được thể hiện một cách sống động, hiện thực, cụ thể. Tin trong lòng, và tuyên xưng ngoài miệng chưa đủ, nhưng còn phải sống niềm tin ấy bằng cách thức riêng của mỗi cảnh đời chúng ta đang có.
Trong Giáo Hội ngày nay cũng không thiếu những trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái. Ðức Kitô được trình bày trọn vẹn trong Kinh Thánh, qua Phụng Vụ và qua Giáo Hội, thế mà người ta lại giới hạn Ðức Kitô trong cái nhìn của họ. Họ cũng giới thiệu Ðức Kitô cho người khác nhưng đây chỉ là một Ðức Kitô bị bóp méo cho hợp với chủ trương của họ, có lợi cho họ. Và nếu có một ai giới thiệu Ðức Kitô khác với chủ trương và đi ngược lại với quyền lợi thì họ sẵn sàng kết án hoặc bôi nhọ làm sao để đừng mất đi quyền lợi của mình.
2021
DỌN ĐƯỜNG
09 06 Tm Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Gio-an Đi-ê-gô (Juan Diego).
Mt 11, 11-15
DỌN ĐƯỜNG
Chính nhờ Juan Điêgô mà Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa lần đầu tiên đã mạc khải chính mình cho thế giới với tước hiệu Đức Mẹ Guađalup. Juan Điêgô sống vào thế kỷ thứ 16 khi Mêxicô lúc ấy chỉ được biết đến với cái tên Thung Lũng Anahuac. Juan Điêgô thuộc gốc người Chichimeca, và có tên gọi là “con Đại Bàng biết nói.” Juan Điêgô là tên thánh của ngài.
Vào ngày 12 tháng Mười Hai, ngày lễ kính Đức Mẹ Guađalup, (chúng ta có thể đọc cuốn sách Các sự kiện lạ lùng về việc Đức Mẹ hiện ra với Juan Điêgô), khi nhiệm vụ đặc biệt của Juan hoàn tất, người ta nói rằng ngài đã đi tu làm ẩn sĩ. Juan dùng phần đời còn lại của mình để cầu nguyện và sám hối. Túp lều nhỏ của Juan nằm gần bên ngôi đền thờ đầu tiên được xây trên ngọn đồi Têpêyac. Juan rất được dân chúng quý trọng. Các bậc cha mẹ đều coi đó như niềm ao ước lớn nhất của họ nếu con cái họ cũng sống như Juan Điêgô.
Juan trông coi ngôi đền nhỏ và chào đón những khánh hành hương tới kính viếng Đức Mẹ Guađalup. Ngài chỉ cho họ xem tilma, hay còn gọi là tấm áo choàng kỳ diệu, có in hình Đức Mẹ.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong Juan Điêgô lên bậc chân phước ngày 6 tháng Năm năm 1990. Đức thánh cha đã thân hành đến viếng ngôi thánh đường nguy nga dâng kính Đức Mẹ Guađalup. Ở đó, đức thánh cha đã cầu nguyện cho tất cả mọi người dân Mêxicô, cách riêng cho những người bị giết chết trong cuộc bách hại Giáo hội khủng khiếp vào nửa đầu thế kỷ thứ 20. Ngài cũng cầu nguyện cho hết thảy các khách hành hương đến viếng ngôi thánh đường xinh đẹp này với niềm tin vào Mẹ Thiên Chúa. Juan Điêgô được đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh hôm 31 tháng Bảy năm 2002.
Thánh Juan Điêgô là một người rất nhạy cảm và hay cầu nguyện. Lối sống của thánh nhân đã giúp người khác nhận ra tình thương của Thiên Chúa đối với dân Người trong bức ảnh Guađalup kỳ diệu
Đôi khi sự vâng lời đơn sơ là tất cả những gì làm trung gian chúng ta và sức mạnh tuyệt vời của Thiên Chúa.
Sự thật này được chứng minh rõ rệt trong cuộc đời của Thánh Gioan Điêgô, người Ấn Độ da đỏ ở Mêxicô, lòng trung thành của thánh nhân đã thay đổi tiến trình lịch sử.
Vào tháng 12 năm 1531, Đức Trinh Nữ Maria đã xuất hiện với Gioan Điêgô trên đồi Tepeyac gần Thành phố Mêxicô ngày nay và yêu cầu Gioan Điêgô mang một thông điệp đến cho giám mục địa phương, tên là Juan de Zumarraga. Mẹ muốn xây dựng một nhà nguyện trên đồi Tepeyac, nơi Mẹ sẽ lắng nghe tiếng khóc của mọi người và sẽ giúp đỡ họ trong những nỗi buồn phiền, những nhu cầu cần thiết và trong những nỗi bất hạnh của họ”. Một cuộc hoán cải mới đối với Đạo Công Giáo, nên Gioan Điêgô lập tức vâng lời Đức Mẹ và đi đến Zumarraga. Nhưng vị giám mục đã không coi trọng Gioan Điêgô. Khi Đức Maria yêu cầu Gioan Điêgô quay trở lại, ngài thưa với Mẹ hãy sai ai đó biết ăn nói hùng hồn hơn. Nhưng Đức Maria khăng khăng nói: “Có nhiều người Mẹ có thể sai đi. Nhưng con là người Mẹ đã chọn.
Gioan ngoan ngoãn trở lại gặp vị giám mục, người bảo anh hãy xin một dấu hiệu. Gioan đã mang đến cho giám mục không chỉ một thứ: những bông hoa hồng Castile (tỉnh Tây Ban Nha) mà bình thường không có vào tháng Mười Hai, và hết sức ngạc nhiên, một hình ảnh tuyệt đẹp của Đức Maria, in một cách kỳ diệu trên chiếc áo choàng của Gioan. Cho đến ngày nay, chiếc áo choàng miêu tả hình ảnh Đức Maria mang thai Chúa Giêsu, đôi chân Mẹ đang đạp nát đầu Satan vẫn còn.
Vì Gioan Điêgô đã thưa “vâng (có)” với yêu cầu của Đức Maria, nhà thờ mà Mẹ yêu cầu đã được xây dựng. Gioan sống bên cạnh nhà thờ trong suốt phần đời còn lại của mình, ngài kể cho du khách câu chuyện đã xảy ra và cho họ xem chiếc áo choàng kỳ diệu của của mình. Tin về sự hiện ra của Đức Maria lan đi và ngày càng nhiều người đến với Giáo Hội, hàng triệu người đã từ bỏ những mê tín của tổ tiên họ và đã được biến đổi tin vào Chúa Kitô. Đó là cuộc truyền giáo vĩ đại đầu tiên của châu Mỹ.
Những sự kiện này đã xảy ra từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chúng vẫn nói với chúng ta ngày hôm nay. Trong một nền văn hóa tuyệt vọng đang rất cần Tin Mừng, chúng ta cũng được mời gọi trở nên ánh sáng cho dân Chúa. Giống như Thánh Gioan Điêgô, chúng ta không thể biết kết quả của sự vâng lời của chúng ta sẽ ra sao. Nhiệm vụ mà Chúa ban cho chúng ta thực sự có thể trông rất đơn giản. Nhưng nếu chúng ta cảm thấy sự thúc đẩy để nói: “Không phải con!” Chúng ta hãy nhớ rằng tiếng “có” của chúng ta có thể là chìa khóa mở ra phép màu.
Được đặt trong lộ trình Mùa Vọng, đoạn Tin Mừng hôm nay góp một nét vẽ khắc họa nên chân dung Gioan Tẩy Giả: Chúa Giêsu xác nhận ông là người cao trọng nhất trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ ; ông là hiện thân của ngôn sứ Êlia với sứ mạng kêu gọi người ta sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế.
Cao trọng là vậy, nhưng nhiệm vụ của Gioan xem ra rất đỗi bình thường, chẳng khác một phu dọn đường quét rác là mấy ; có khác chăng, con đường đây chính là lòng người, rác rưởi đây được hiểu là những lỗi tội của con người. Cao trọng là vậy, mà Gioan vẫn bị xếp dưới hạng so với những công dân Nước Trời. “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”, tuyên bố có vẻ mâu thuẫn và phần nào gây sốc này của Chúa Giêsu dường như lại hé mở một ngõ mới, lại chắp thêm cánh cho con người trên hành trình tìm kiếm trường sinh và hạnh phúc vĩnh cửu, đó là niềm khát mong chiếm được Nước Trời.
Khát mong này không phải là giấc mơ viển vông, cũng không phải là hy vọng hão huyền, nó là ước mơ chính đáng, phải đạo và có thể đạt được.
Và rồi chúng ta ssẽ hỏi làm thế nào để đạt được ước mơ thành công dân Nước Trời ? – Chúa Giêsu đã trả lời khi nói rằng: Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. Làm thế nào để có được sức mạnh ấy ?
Thiết nghĩ một mặt ta cần tin tưởng vào Chúa, Đấng đã hứa sẽ đến cứu ta (x. Is 41, 13 – 20); mặt khác ta cần can đảm lao vào cuộc chiến đấu với bản thân mình vốn dẫy đầy những lỗi tội và yếu đuối, vốn hay đòi hỏi những điều nguy hại cho linh hồn ; ngoài ra, cũng cần dứt khoát vượt thắng những cản trở ngoài ý muốn của ta nhưng không nằm ngoài kế hoạch của ma quỷ và những thế lực thù địch vốn tìm mọi cách kéo ta xa lạc con đường về Trời.
Hôm nay, rất có thể tôi, bạn và anh chị, ta được đặt trước hai con đường với hai lựa chọn rõ rệt: ở trong hay ở ngoài Nước Trời ? Nếu chọn ở trong Nước Trời, hẳn ta đã biết mình phải làm gì. Nhưng có lẽ đây không phải là lần đầu tiên hay bây giờ ta mới lựa chọn. Ta đã chọn từ lâu, và ngay lúc này ta vẫn dễ dàng xác tín về lựa chọn ấy. Có điều là ta dường như vẫn còn trong vòng luẩn quẩn, vào – ra đến khó hiểu, đến sốt ruột vì đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tiến nhanh và tiến xa trên lối về Thiên Cung.
Hôm nay, lúc này, hẳn là dịp thuận tiện, là ngày lành tháng tốt để ta mời Chúa đến, để ta dám đặt tay mình vào bàn tay Chúa ngõ hầu Người có thể dắt ta đi, cùng ta chiến đấu và chiến thắng những khó khăn cản bước ; ngõ hầu Người có thể giúp ta hiểu và yêu mến những nghịch lý của Tin Mừng mà ở đó, các thang giá trị bị đảo ngược đến không ngờ như người rốt hết sẽ lên hàng đầu, hạt giống thối nát sẽ sinh cây xanh tốt, hạt giống bé tẹo sẽ tạo cây cao lớn, …
Tất cả viễn ảnh trên sẽ trở thành hiện thực, nếu ta muốn chấp nhận sứ mạng dọn đường của Gioan tiền hô, nếu ta muốn dùng đôi tai để lắng nghe tiếng gọi sám hối của ông và can đảm qua trở về dọn lòng đón Đấng Cứu Thế. Hãy để cho Lời chạm vào hồn ta và chính Lời sẽ uốn nắn, đẽo gọt, sửa chữa hồn ta thành máng ấm cỏ êm cho Hài Vương vui ngự ; và nhất là biến ta thành những Gioan tiền hô mới, những phu dọn đường cho con người thời đại ngày nay, cho những anh chị em đang lạc đường xa lối và cho những anh chị em chưa từng được nghe Tin Mừng.
2021
MẸ TINH TUYỀN
08 05 Tr Thứ Tư Tuần II Mùa Vọng.
ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI, lễ trọng.
Lc 1, 26-28
MẸ TINH TUYỀN
Hôm nay toàn thể Hội Thánh tôn vinh Mẹ Maria, Ðấng Tuyệt Ðẹp “ Tota Pulchra”, Ðấng đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài, Đấng được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của Ân sủng Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết.
Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Chân phước Piô IX Giáo hoàng long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (DS 2803)
Như thế, Mầu nhiệm Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội nhắc nhớ chúng ta hai chân lý căn bản của đức tin, đó là tội nguyên tổ và nhất là sự chiến thắng của ơn thánh Chúa trên tội này, chiến thắng ấy được phản chiếu tuyệt vời nơi Đức Maria chí thánh.
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã thực hiện hai công trình tuyệt tác và vĩ đại nhất đó là: Công trình tạo dựng muôn loài và công trình cứu chuộc nhân loại. Trong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã dọn cho hai ông bà nguyên tổ một địa đàng sán lạn huy hoàng, tràn trề hạnh phúc. Nhưng vì phạm tội ông bà đã phá vỡ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng rồi kế hoạch yêu thương nữa lại bắt đầu với lời tuyên phạt con rắn: “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người đàn bà”. (St 3, 15).
Rồi trong những trang Kinh thánh suốt mấy nghìn năm đã thấp thoáng hiện lên những người nữ “hơn các phụ nữ” (Tl 5, 15), “Người thiếu nữ mang thai, sinh hạ một con trai…” (Is 7, 14). Đến hôm nay sau bao ngàn năm chuẩn bị, người “nữ” đích thực mà Thiên Chúa kén chọn đã tỏ hiện: Đức Trinh Nữ Maria. Để đón nhận Chúa Cứu Thế đến với nhân loại, cung lòng người Trinh Nữ phải trở nên thiên đàng, một “địa đàng mới” không cỏ dại, không bẩn bụi, không một vết “rắn” bò, để cho Chúa Cứu Thế ngự trị.
Vậy giờ đã đến thời viên mãn, sứ thần Gaprien đã được Thiên Chúa sai đến với Trinh Nữ: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng”. Lời chào thăm, chúc mừng và truyền lệnh yêu thương của Thiên Chúa: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Sứ thần nhắc lại câu nói của ngôn sứ Isaia trước đấy mấy trăm năm về Chúa Cứu Thế. Nhưng với lòng khiêm nhường, thật thà, đơn sơ, trong trắng và ý chí tự do của người Trinh Nữ, sứ điệp ấy chưa dễ dàng được chấp nhận. Vì Trinh Nữ như yêu đời sống trinh khiết hơn là được làm mẹ Chúa Cứu Thế. Sứ thần phải mất thêm thời gian, lời đôi co trao đổi qua lại nhiều nữa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa… Vì đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được”.
Rồi Trinh Nữ Maria đã nhận lời: “Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Là Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã không ra mệnh lệnh, cưỡng bức thực thi ý Chúa, mà tôn trọng sự tự do mà Chúa đã ban cho con người. Sứ thần đã làm cho Mẹ thật sự nhận ra thánh ý Chúa để Mẹ tự nguyện “xin vâng”. Sự tự nguyện ấy mẹ đã suốt đời chiêm niệm “suy đi nghĩ lại trong lòng” mà quyết tâm thực thi ý Chúa. Mẹ Maria đã tự coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, nên đã trở thành người diễm phúc, xứng đáng làm mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người, và làm mẹ của cả loài người chúng ta.
Mẹ Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Chúa Giêsu – Con Một Người. Để Mẹ được xứng đáng với thiên chức đó hơn, Mẹ đã được Người ban cho đặc ân “vô nhiễm nguyên tội”. Nhờ đó, Mẹ đã không bị truyền tội tổ tông do Adam và Eva gây ra ngày trước. Tuy nhiên, việc lãnh nhận đặc ân đó không phải ngẫu nhiên mà chính là nhờ hai tiếng “xin vâng”. Chính sự vâng phục Thiên Chúa đã đưa Mẹ rời khỏi hàng tội nhân của tội nguyên tổ và trở thành người diễm phúc nhất trong tất cả phụ nữ.
Quả thật, Mẹ đã tin tưởng hết lòng và vâng phục Thiên Chúa. Niềm tin ấy đã thôi thúc Mẹ nói lên lời “xin vâng” để tuân theo ý Người một cách tuyệt đối. Tuy nghe có vẻ dễ dàng, nhưng nếu thử đặt mình vào hoàn cảnh của Mẹ lúc bấy giờ, ta sẽ thấy niềm tin và sự vâng phục ấy to lớn đến mức nào. Ngày nay, việc có con trước hôn nhân không còn là việc quá khủng khiếp như xưa. Giới trẻ có thể thoải mái chiều theo ý muốn của mình mà không bị lên án nghiêm trọng (miễn là vẫn giữ và dưỡng dục đứa con nên người).
Tuy nhiên, vào thời bấy giờ lại không như thế. Một người phụ nữ có con trước khi chính thức về nhà chồng nếu bị phát hiện sẽ bị ném đá đến chết. Không chỉ vậy, họ còn để lại tai tiếng cho gia đình nếu việc đó xảy đến. Do đó, để chấp nhận thi hành ý muốn của Thiên Chúa, Mẹ đã phải phó thác mọi sự trong tay Người.
Mẹ Maria là mẫu gương để chúng ta học tập. Mẹ đã tin tưởng và vâng phục suốt cả cuộc đời, đã đồng hành cùng Chúa Giêsu cho đến phút cuối cùng và tiếp tục đồng hành cùng Hội thánh của Người. Do đó, ngoài việc noi gương Mẹ, ta cũng không quên chạy đến với Mẹ trong những giây phút khó khăn của cuộc sống. Tình yêu của Mẹ sẽ chở che và đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Đặc biệt, ta phải ghi nhớ rằng: tin tưởng và vâng phục là chìa khóa quan trọng cần phải có để ta có thể sống đẹp lòng Chúa.
Mỗi người chúng ta cần phải biết noi gương Mẹ. Dù cuộc sống có nhiều đau thương, khó khăn, dù hiểm nguy luôn rình rập, đe dọa, ta cũng vẫn phải tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Mọi thánh giá Người để ta vác đều không vượt quá sức của ta, Người biết điều đó và Người tin ta sẽ đủ khả năng gánh vác. Khó khăn, đau khổ là điều không thể thiếu của đời người, quan trọng là ta đối mặt với nó như thế nào.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một đóa hoa rạng ngời luôn tỏa hương thơm ngát là Mẹ Maria. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một đóa hoa luôn thanh thoát, cao quý bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một đóa hoa thơm ngát dâng tặng cho đời và ca tụng Thiên Chúa.