2021
Khiêm tốn
07 04 Tr Thứ Ba Tuần II Mùa Vọng.
Thánh Am-brô-xi-ô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
Mt 18, 1-14
Khiêm tốn
Thay vì mừng lễ thánh Ambroise vào ngày mất của ngài (4 tháng 4 năm 397), thường rơi vào các ngày lễ Phục sinh, Giáo Hội mừng vào ngày 7 tháng 12, là ngày kỷ niệm ngài thụ phong giám mục (394). Tại Rôma, từ thế kỷ XI, người ta đã mừng lễ ngài vào ngày này, cũng như trong các Giáo Hội Byzantin và một số nhà thờ chính toà hay tu viện thời Trung cổ. Cùng với thánh Augustin, Hiêrônimô và Grégoire, thánh Ambroise là một trong bốn thánh giáo phụ và tiến sĩ lớn của Giáo Hội la-tinh, và là một trong những vị thánh được yêu mến nhất.
Thánh Ambroise sinh tại Trèves (Augusta Trevirorum) khoảng năm 339, trong một gia đình Kitô giáo thuộc giới quí tộc Rôma, vào thời kỳ cha ngài làm pháp quan của tỉnh Gaules. Khi cha mất, mẹ của ngài về sống tại Rôma cùng với ba người con: hai trai và một gái, Marcellina, cô em gái này sẽ nhận khăn choàng trinh nữ từ tay Đức giáo hoàng Libère. Sau khi hoàn tất các môn văn chương và luật, Ambroise đã hành nghề một cách xuất sắc, đưa ngài tiến mau đến tận Milan, tại đây ngài được bổ nhiệm làm tổng trấn tỉnh Ligurie và Émilia của Rôma.
Năm 374, khi giám mục Auxence thuộc phe lạc giáo Arius qua đời, quan tổng trấn Ambroise tới nhà thờ lớn Milan để giữ trật tự vào dịp bầu tân giám mục. Nhưng, tuy mới chỉ là một dự tòng, chính ngài lại là người được chọn làm giám mục trước sự phấn khởi của toàn dân. Họ la to: “Ambroise giám mục!” Ngài miễn cưỡng chấp nhận, và tám ngày sau, ngài được rửa tội, được truyền chức và tấn phong. Lúc đó ngài khoảng ba mươi tư tuổi. Sau khi trở thành người đứng đầu Giáo Hội ở Milan, thánh Ambroise học tập thừa tác vụ đến độ ngài trở thành một trong những vị mục tử hoàn hảo nhất trong lịch sử Hội Thánh.
Việc đầu tiên ngài làm là phân phát tài sản của mình cho người nghèo và chọn một nếp sống khổ hạnh. Rồi, dưới sự hướng dẫn của một cha Simplicien, một linh mục giàu kinh nghiệm, ngài dấn thân miệt mài vào việc học Kinh Thánh và các tác giả Ki-tô giáo. Ngài học nhằm phục vụ trước hết cho việc rao giảng và thi hành tác vụ huấn giáo. Bị lôi cuốn bởi Tin Mừng Luca, ngài đã viết một bình luận về Tin Mừng này, còn truyền lại tới chúng ta ngày nay. Chúng ta cũng còn giữ được một sưu tập các khảo luận của ngài về các nhân vật và chủ đề Kinh Thánh: Abel, Cain, Nôê, Abraham, Isaac, thiên đàng, tạo dựng. . .
Thánh Ambroise không ngừng quan tâm tới việc dạy giáo lý cho dân chúng, nhất là trong việc khai tâm đức tin và chuẩn bị phép rửa. Trong khảo luận Các Mầu Nhiệm và các Bí Tích, thánh giám mục Milan cắt nghĩa cho các tín hữu về các bí tích và phụng vụ. Nhưng ngài không chỉ giới hạn vào việc giảng thuyết. Nhằm giúp các tín hữu tham dự tích cực vào phụng vụ, ngài đã sáng tạo ra nhạc bình dân – thể loại đầu tiên ở phương Tây – và ngài đưa các bài hát xen vào các thánh vịnh. Cũng vậy, ngài soạn ra các thánh thi và các ca vãn, và một số sáng tác của ngài ngày nay vẫn còn được dùng để cầu nguyện hay hát trong phụng vụ thuộc nghi lễ Ambroise ở giáo phận Milan.
Trong một xã hội mà Kitô giáo chưa thấm nhuần hoàn toàn, thánh Ambroise quan tâm canh tân các phong tục với mục đích Kitô hoá chúng; ngài cống hiến cho phương Tây khảo luận đầu tiên về đạo đức học Kitô giáo (De Officiis), lấy hứng chủ yếu từ Cicéron. Nhiều khảo luận bàn về đề tài trinh khiết, trong đó có một tác phẩm ngài viết cho em gái ngài là Marcellina, lúc đó đã qui tụ được một số chị em thành một cộng đoàn trinh nữ. Một tiểu luận khác ngài viết cho các bà góa.
Viết đã giỏi, ngài còn là nhà hùng biện lỗi lạc; chính nhờ ngài mà chàng thanh niên Augustin ở Tagaste đã hoàn tất hành trình hoán cải của mình. Cuối đời, bị suy yếu và biết giờ chết sắp tới, ngài đọc cho người ta viết bình luận về thánh vịnh 43 (44). Ở câu 24, ngài nói: “Thật khó khăn khi phải kéo lê lâu dài một thân xác mà bóng tử thần đã che phủ. Lạy Chúa, xin đứng lên. Tại sao Người vẫn ngủ? Người sẽ xua đuổi con mãi sao?” Sự vĩ đại và thánh thiện của thánh Ambroise được diễn tả trong tiếng kêu la cuối cùng này, mà Chúa đã nghe vào một ngày thứ sáu tuần thánh, 4 tháng 4 năm 397.
Suốt ba năm đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ cũng có cao vọng muốn được trở thành người lớn nhất trong Nước Trời nên đã đặt câu hỏi với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?”.Hiểu được tâm tư ấy, Chúa Giêsu liền dạy các ông một bài học thật ý nghĩa đó là “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”.
Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh rất cụ thể đó là trở nên khiêm tốn đơn sơ như trẻ thơ. Khiêm tốn là một đức tính cao quý của con người. Người người có tâm hồn trẻ thơ thì tin tưởng vào tình thương Thiên Chúa,khiêm tốn không cậy dựa sức riêng nhưng biết nhìn nhận những giới hạn của mình.
Thiên Chúa dựng nên mỗi người một vẻ khác nhau, chính sự khác biệt đó càng diễn tả quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa.Hình dáng bên ngoài của một người dù đẹp hay xấu, cao hay thấp, trắng hay đen…đối với Chúa không có gì là xấu.Điều quan trọng nằm ở tâm hồn và thái độ sống của mỗi người. Dù nhỏ bé xấu xí nghèo hèn đến đâu, con người đều có phẩm giá và nhân vị vì họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa. Nhận biết được điều này, chúng ta được mời gọi phải tôn trọng người khác với tất cả sự khác biệt của họ.
Ông Gerandy, nhà tư tưởng người Mỹ đã từng nói: “Chúng ta cần giống nhau một chút để hiểu nhau, nhưng cần phải khác nhau một chút để yêu thương nhau”. Chính sự khác biệt nơi mỗi người mà chúng ta được chia sẻ đắp đổi cho nhau, cùng cộng hưởng làm cho cuộc sống thêm phong phú và ý nghĩa.
Giá trị của cuộc sống không căn cứ trên số đo chiều cao của một người, chất lượng của cuộc sống không tính bằng sự hơn thua về nhan sắc hay hình thức bên ngoài nhưng dựa vào thái độ chúng ta đối xử với mọi người. Chúng ta không sống như một ốc đảo nhưng là sống cùng và sống với người khác. Chúng ta không thể tự thỏa mãn với chính mình nhưng luôn cần sự chia sẻ, nâng đỡ và an ủi của người khác. Người kiêu căng tự cho mình là đầy đủ nên Thiên Chúa không thể ban thêm điều gì, trái lại người khiêm tốn như một chiếc ly còn trống rỗng sẽ dễ dàng đón nhận được nhiều ân sủng của Thiên Chúa.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa đặc biệt yêu thích người có tâm hồn khiêm tốn. Chúa sẽ không mạc khải cho những bậc khôn ngoan thông thái biết về mầu nhiệm Nước Trời nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải đón nhận người khác như đón nhận chính Chúa, vì “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Ga 13,20).
Vì thế mỗi người chúng ta cũng đừng tự mãn cho mình là người có đầy đủ mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Trái lại chúng ta là một thụ tạo với đầy khuyết điểm và tính hư nết xấu. Mang trong mình di chứng của tội nguyên tổ, chúng ta luôn bị cám dỗ chiều theo sự xấu. Nhận ra điều này để chúng ta biết cậy nhờ vào ơn Chúa giúp mà hoàn thiện chính mình.
Và để minh chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa, Chúa Giêsu còn đưa ra một ví dụ về người chủ chăn đã bỏ 99 con chiên mà đi tìm một con chiên lạc. Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian không phải để kêu gọi người công chính nhưng là kêu gọi người tội lỗi.
Ai khiêm tốn nhận mình là yếu hèn tội lỗi thì Thiên Chúa càng ban ơn giúp sức. Thánh Phaolô tông đồ có nhiều kinh nghiệm về điều này, thánh nhân đã khiêm tốn nhận mình là tôi tớ yếu đuối chẳng có gì để vênh vang.Chúng ta có là gì thì cũng nhờ bởi ơn Chúa. Còn thánh Augustinô thì xác quyết: “Chúa là Đấng cao cả, nếu con hạ mình xuống, Người cũng hạ mình xuống kết hợp với con; nhưng nếu con nâng mình lên, Người sẽ tránh xa con”.
2021
QUYỀN NĂNG CHÚA Ở VỚI NGƯỜI
06 03 Tm Thứ Hai Tuần II Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Ni-co-la, Giám mục.
Lc 5, 17-26
Lc 5, 17-26
QUYỀN NĂNG CHÚA Ở VỚI NGƯỜI
Nicôla là vị Thánh bổn mạng vĩ đại của các trẻ em và của việc tặng quà giáng sinh. Thánh nhân sống vào thế kỷ thứ 4. Tên ông già Nôel là một hình thức của người dân Hà Lan để gọi tên Thánh Nicôla
Nicôla là vị Thánh bổn mạng vĩ đại của các trẻ em và của việc tặng quà giáng sinh. Thánh nhân sống vào thế kỷ thứ 4. Tên ông già Nôel là một hình thức của người dân Hà Lan để gọi tên Thánh Nicôla. Vị Thánh nổi tiếng này sinh ở Tiểu Á, ngày nay là nước Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi song thân qua đời, Thánh Nicôla đã dâng hiến tất cả tiền bạc để giúp việc từ thiện.
Lần kia, có một người nghèo nọ sắp sửa bỏ rơi những đứa con gái của mình trong đời sống tội lỗi chỉ vì ông không có đủ tiền để làm đám cưới cho chúng. Thánh Nicôla nghe biết vấn đề của ông. Ban đêm Nicôla tới nhà của ông và ném một túi vàng nhỏ vào qua cửa sổ. Phần này dành cho cô gái cả! Thánh nhân đã làm y như thế cho cô gái thứ hai. Người cha biết ơn đã rình xem ai mà lại quá tốt bụng với họ như thế! Khi Thánh Nicôla đến lần thứ ba, thì ông đã nhận ra ngài. Và người cha đã rất biết ơn Nicôla.
Sau đó, Thánh Nicôla làm giám mục. Ngài rất yêu mến sự công bằng. Người ta nói rằng lần kia Thánh Nicôla đã cứu ba người đàn ông vô tội thoát khỏi cái chết. Lúc ấy, Thánh nhân quay sang nhìn kẻ buộc tội. Ngài đã làm cho anh ta phải thú nhận rằng anh ta đã được tặng một số tiền để hãm hại ba người này.
Thánh Nicôla qua đời tại Myra. Người ta đã xây cất một ngôi đền ngay trên phần mộ của ngài. Nhiều thánh đường đã được cung hiến mang danh Thánh Nicôla. Khi người ta mang các thánh tích của Nicôla tới Bari, nước Ý, thành phố này liền hóa nên một đền thờ nổi tiếng cho các khách hành hương từ khắp Âu châu đến kính viếng. Nicôla là Thánh bổn mạng của các thủy thủ, tù nhân và của các em thiếu nhi. Cùng với Thánh Anrê, Thánh Nicôla cũng được nhận là Thánh bổn mạng của nước Nga.
Chúng ta hãy học nơi Thánh Nicôla cách sống bằng quả tim quảng đại và yêu mến. Thánh nhân đã ra khỏi chính mình để giúp ích cho tha nhân. Thánh Nicôla sẽ dạy chúng ta sống như vậy nếu chúng ta thành tâm cầu xin ngài.
Thiên Chúa tình yêu vẫn luôn hiện diện sống động ngay trong thế giới hôm nay, qua mỗi con người và từng biến cố hay qua các dấu chỉ thời đại. Thế nhưng có mấy người biết nhìn ra sự hiện diện thân thương của Ngài.
Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha, Ngài đến trần gian để thi thố lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Lời giảng dạy kèm theo các phép lạ Chúa làm đã chứng minh quyền năng Thiên Chúa luôn ở với Ngài.
Thánh Luca đã tường thuật cho chúng ta phép lạ Chúa chữa người bại liệt, nhờ lòng tin của những người khiêng anh ta đến với Chúa. Người bại liệt không thể tự mình làm gì được, nhưng nhờ tình thương và sự trợ giúp của người khác, anh ta đã được đến gần Chúa và được Ngài chữa lành.
Điều tuyệt vời ở đây là lòng tốt của những người khiêng anh ta: “họ tìm cách đem vào đặt trước mặt Người” (c. 18). Nhưng vì đám đông cản trở, nên họ đã dỡ ngói mái nhà, thả người bại liệt và cái giường xuống ngay trước mặt Đức Giêsu (c c.19).
Chính lòng tin của họ đã đụng chạm tới lòng thương xót của Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã chữa lành cho người bại liệt bằng quyền năng của Ngài.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay cũng luôn cần đến sự trợ giúp của người khác, đặc biệt trong đời sống đức tin. Những lúc ta thấy mình yếu đuối, nản chí, mất kiên nhẫn trước những thử thách trong cuộc đời. Khi đó ta rất cần đến sự nâng đỡ của những người có đức tin vững mạnh. Chính họ sẽ giúp ta vượt qua những khó khăn để vững tin vào Chúa hơn.
Chúa vẫn luôn đặt bên cạnh chúng ta những người bạn tốt để nâng đỡ và hướng dẫn, giúp ta can đảm sống đức tin giữa bao gian nan thách đố của cuộc sống. Chúng ta không bao giờ được phép buông xuôi hay thất vọng, vì quyền năng và tình thương của Thiên Chúa vẫn mãi mãi hiện diện trong cuộc đời chúng ta.
Trong đoạn Tin Mừng, chúng ta còn nhận ra một phản ứng ngược hẳn với lòng tin của những người khiêng bệnh nhân, là thái độ cứng lòng, bất chấp của biệt phái. Họ nghi ngờ và ghen tỵ vì thấy Chúa làm nhiều phép lạ.
Chúa Giêsu bày tỏ uy quyền của mình bằng việc tha tội, ngay lập tức, người bất toại được lành, điều này cho thấy quyền năng và lòng thương xót của Chúa Giêsu đã chứng minh sứ vụ Thiên Sai Con Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài đến là để cứu chữa và ban ơn cứu độ cho mọi người.
Mặt khác, niềm tin của những người khiêng anh bại liệt cũng như niềm tin của chính người bại liệt đã để lại cho chúng ta bài học: Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vì Ngài làm được mọi chuyện và Ngài biết điều gì tốt nhất cho ơn cứu độ của ta thì Ngài sẽ ban ơn.
Đức tin cần phải đi đôi với việc làm. Nếu người bại liệt đã tin vào Chúa, và khi được giải phóng khỏi tội lỗi là quyền lực của Ma Quỷ, anh ta đã cất tiếng ngợi ca Thiên Chúa, thì chúng ta, khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời, hãy có tâm tình tạ ơn.
Có lẽ trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta cũng có những suy nghĩ và thái độ như người biệt phái, khi nhìn thấy người khác làm được nhiều điều tốt đẹp và hữu ích. Chúng ta nghi ngờ về lòng tốt và thiện chí của họ. Chúng ta ghen tỵ vì thấy họ được nhiều người cảm phục và quý mến.Điều quan trọng hơn cả là chúng ta biết giữ vững niềm tin mạnh mẽ vào quyền năng Thiên Chúa trong cuộc đời. Ngài có thể làm tất cả mọi sự tốt đẹp nhất cho chúng ta, vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúng ta hãy xác tín vào tình thương quan phòng của Ngài trong cuộc đời mỗi người.
2021
SÁM HỐI
05 02 Tm CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG.
Lc 3, 1-6
SÁM HỐI
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng vụ cũng như mùa vọng của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận việc Chúa đến như một biến cố lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ đón nhận việc Ngài đến mỗi lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón nhận việc Ngài đến vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày sau hết của vũ trụ vật chất này.
Trước khi Chúa Giêsu đến với trần gian, Thiên Chúa kêu gọi Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Ngài, bằng cách mời gọi mọi người sám hối, và biểu lộ lòng sám hối bằng một nghi thức bên ngoài là rửa tội. Sám hối là nhận ra những tội lỗi, khuyết tật của mình để quyết tâm sửa đổi hầu trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Nếu sám hối không dẫn đến tình trạng tốt đẹp hơn, thì sám hối đó chỉ là sám hối hời hợt, ngoài miệng… Nếu thực hiện nghi thức sám hối ở bên ngoài (như rửa tội, xưng tội…) mà trong lòng không thật tâm sám hối thì đó chỉ là việc làm lấy lệ hay giả dối.
Sám hối để đón Chúa đến không chỉ mang tính cá nhân mà còn phải mang tính xã hội nữa. Nghĩa là người thật sự sám hối không chỉ làm cho bản thân mình, tâm hồn mình nên tốt đẹp hơn, mà còn phải tìm cách làm cho tập thể, cộng đoàn hay xã hội của mình nên tốt đẹp nữa.
Việc sám hối ấy căn bản là ở trong nội tâm. Và nếu đó là sám hối thật sự thì nó phải hướng đến hành động, hay tất yếu dẫn đến hành động thật sự. Ngôn sứ Isaia mô tả sự sám hối ấy bằng những hình tượng khác nhau: «Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng»
Chúng ta nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho người Do Thái bên bờ sông Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để quay trở về cùng Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ cõi lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này đây cái rìu đã được đặt dưới gốc cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị chặt và ném vào lửa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3, 5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng.
Ăn năn hối cải là ý thức rằng chúng ta đang sống trước mặt Thiên Chúa, đêm cũng như ngày, và chúng ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì thuộc bản thân ta, cũng như những gì thuộc quyền sở hữu của ta. Mẹ đã đến kêu gọi mọi người thế hãy nghe theo các sứ điệp của Mẹ mà ăn năn hối cải. Sống trong tội quả là điều nguy hiểm! Những tai hoạ ghê gớm đang chờ đợi những kẻ không quay trở về cùng Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho ta, dầu tội lỗi đến như thế nào đi nữa. Không có tội nào quá lớn đến nỗi Thiên Chúa không tha thứ được. Tình yêu Thiên Chúa luôn mãi lớn hơn tội lỗi chúng ta.
Tất cả những gì ta có thể làm là nài xin. Đức Mẹ đến để bảo ta nài xin Chúa tha thứ ngay bây giờ. Mẹ nhắc lại cho ta rằng Thiên Chúa không bao giờ từ chối tha thứ cho bất cứ ai xin Người.
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn, tự kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn cứu độ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.
Tất cả mọi kitô hữu đều có trách nhiệm biến cải giáo hội và xã hội nên tốt hơn, nghĩa là phải sửa sai, phải thay đổi những gì chưa đúng, hoặc có hại trong giáo hội và xã hội. Trong dân gian có câu: «Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh», hay «quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách» (kẻ kém cỏi nhất trong đất nước cũng có trách nhiệm về sự thịnh suy của đất nước).
Cũng thế, mọi kitô hữu dù là giáo dân hay linh mục tu sĩ, là người thất học hay trí thức đều có trách nhiệm đối với sự phát triển hay suy thoái của giáo hội và xã hội. Những kitô hữu tỏ ra vô tâm, vô tình, vô trách nhiệm đối với tha nhân, với xã hội, đất nước, thế giới, với giáo hội địa phương, cũng như với giáo hội hoàn vũ, cần phải suy xét lại thái độ vô tình ấy của mình. Rất có thể ta chưa phải là kitô hữu đích thực, chưa có đủ tình yêu đối với tha nhân, một phẩm tính căn bản của người kitô hữu.
Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đích thực nào cũng kêu mời con người phải ăn năn, phải thống hối, có nghĩa là kêu mời con người trở về với Thiên Chúa. Vì thế, sau thời gian vào hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, để biết rõ con người và nếp sống thật của mình, thánh Gioan tẩy giả hướng dẫn chúng ta trở về cuộc sống hằng ngày, xuyên qua dòng sông Jordan để lãnh nhận phép rửa thống hối là dấu chỉ bên ngoài của một quyết định nội tâm dứt khoát trở về với Chúa. Một Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa đã luôn gắn liền lời nói với hành động.
Vì thế, công cuộc thống hối đúng nghĩa của con người không thể chỉ diễn ra bằng lời nói: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm…”, nhưng phải kèm theo những hành động cụ thể, những hành động cụ thể này đã được thánh Gioan loan báo hôm nay: “Hãy dọn đường Chúa đến”. Hãy sửa đường cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự thật. Hãy lấp mọi hố sâu của chia rẽ hận thù, của thiên kiến nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí và tin tưởng vào khả năng của nhau. Hãy bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, của óc địa phương bằng tinh thần khiêm nhu, và biết đặt công ích lên trên quyền lợi của cá nhân, quyền lợi của đảng phái. Hãy san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc sống.
Đó là những hành động cụ thể, những điều kiện cần phải thực hiện trong ngày Chúa đến, thực hiện trong ngày giải phóng và cứu rỗi của Người, xây dựng trên công lý, hiệp nhất hòa bình và tình thương giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.
Thật thế, điều quan trọng để đón Chúa đến là phải có tinh thần sám hối. Nhưng tinh thần sám hối đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành động, nghĩa là nó phải dẫn đến sự chừa cải, tu sửa, cải thiện… Nói khác đi, có gì sai thì phải sửa cho đúng, xấu thì sửa cho tốt, cho đẹp, cong thì thành thẳng, gồ ghề thành phẳng, cao thì bạt xuống, thấp phải đôn lên… Việc sám hối và tu sửa phải được thực hiện không chỉ nơi cá nhân mà còn trong giáo hội và xã hội.
2021
YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ
04 01/11 Tm Thứ Bảy Tuần I Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Gioan thành Đa-mát, Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
Mt 9, 35 10,1.6-8
YÊU THƯƠNG PHỤC VỤ
Lễ nhớ thánh Jean Damascène được mừng vào ngày Giáo Hội Byzantin cử hành lễ an táng ngài, diễn ra trong tu viện Thánh Sabas, gần Giêrusalem, có lẽ là ngày 4 tháng 12 năm 750. Lễ nhớ này được đưa vào lịch Rôma năm 1890. Trước cuộc cải cách phụng vụ, lễ này được mừng ngày 27 tháng 3, là ngày kỷ niệm Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên phong thánh Jean Damascène làm tiến sĩ Hội Thánh.
Ngài sinh ở Đamas khoảng năm 650, trong một gia đình Ả Rập theo Kitô giáo. Ngài còn có tên là Mansour giống như tên ông nội ngài, một viên chức cao cấp trong triều đình. Khi cha mất, ngài thay cha trông coi công việc tài chính của hoàng cung. Nhưng đến năm 710, ngài lui về sống đời đan tu trong tu viện Thánh Sabas, một loại tu viện – pháo đài nằm giữa Bethlehem và Giêrusalem.
Được thụ phong linh mục do giáo chủ Giêrusalem là Đức Gioan V, từ đó ngài chỉ chuyên chăm cầu nguyện, rao giảng và viết các tác phẩm thần học, cho tới khi ngài đột ngột qua đời tại tu viện Thánh Sabas khoảng năm 750, hưởng thọ khoảng một trăm tuổi. Ít năm sau, công đồng bài trừ ảnh tượng (iconoclaste) năm 754 ra vạ tuyệt thông cho ngài, nhưng về sau ngài sẽ được phục hồi ở Công đồng chung thứ bảy, năm 787.
Công lao to lớn của thánh Jean Damascène là đã bảo vệ việc tôn kính ảnh tượng chống lại hoàng đế Byzantin là Lêô III người Isaurien (717-740), là người đã liên minh với phe bài bác ảnh tượng thánh để phát động cuộc tranh luận về Ảnh tượng thánh (726). Ngài cũng đã anh dũng đối đầu với hoàng tử kế vị Lêô III là Constantinô V. Ba Luận văn Hộ giáo (726-730) của ngài là một sự biện hộ hùng hồn cho việc tôn kính ảnh tượng và chứng tỏ cho thế giới Kitô giáo thấy tài năng của một nhà thần học và nhà hộ giáo lỗi lạc.
Nhưng tác phẩm chính của thánh nhân là Ngọn Nguồn Tri Thức, một tổng luận thần học đầu tiên. Vào thời Trung cổ, tác phẩm này được dùng làm sách giáo khoa ở phương Đông, còn ở phương Tây, tác phẩm này được dịch sang tiếng la-tinh đã giúp ích rất nhiều cho công việc của thánh Thomas Aquin và các nhà thần học kinh viện.
Thánh Jean Damascène được mệnh danh là Chrysorrhoas (nghĩa là Giòng Sông vàng) vì những thiên khiếu phi thường của ngài về thần học và thi thơ, “óng ánh như vàng, rực chiếu trong lời giảng dạy cũng như trong đời sống của ngài.”
Khoa tranh ảnh thánh vẽ hình thánh nhân được Đức Mẹ chữa lành bàn tay phải mà hoàng đế bài bác ảnh thánh Lêô III – theo truyền thuyết – đã chặt đứt của ngài.
Suốt dọc dài theo năm tháng qua dòng thời gian, ngay từ thời Cựu ước các Ngôn sứ đã loan báo về Đấng Thiên sai sẽ xuất hiện và người ta hằng mong chờ Vị Cứu Chúa đến giải thoát dân. Khi Đấng Cứu Thế đến với muôn dân, Ngài đã giải thoát dân khỏi ách nô lệ tội lỗi, thiết lập triều đại Thiên Chúa và chuẩn bị cho nhóm Tông đồ thân cận tiếp tục cộng tác vào công cuộc Người đang thực hiện. Cứ thế Tin mừng được loan truyền khắp cùng cõi đất và cho đến ngày nay Tin mừng đó được lan rộng. Lời Chúa trong Tin mừng của Thánh Mattheu hôm nay thuật lại việc Chúa trao ban sứ vụ của Ngài cho các Tông đồ, để các ngài tiếp tục loan truyền tin vui cho nhân loại.
Sau khi rao giảng khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong khắp các hội đường và làm nhiều phép lạ, chữa nhiều người đau yếu, tật nguyền… Đức Giê-su thấy đám đông dân chúng vất vưởng, không người hướng dẫn, Ngài đã biểu lộ tình thương của mình đối với họ bằng việc ân cần giảng dạy và chữa lành cho họ ; đồng thời Ngài cũng nhận thấy họ cần có những mục tử tốt lành để hướng dẫn họ. Trước nhu cầu đó, Ngài gọi nhóm mười hai ban cho các ông quyền trừ quỷ, chữa bệnh và sai các ông đến với họ, đồng hành và hướng dẫn họ.
Đây cũng là lời mời gọi mà Chúa Giêsu muốn chúng ta tham dự vào sứ mạng đem Tin mừng đến cho mọi người.
Khi trao cho các Tông đồ sứ mạng chăm sóc đàn chiên thì chính Chúa Giê-su đã nêu gương trước trong việc làm này. Ngài không nề hà đến với từng người bằng việc giảng dạy, Ngài yêu thương cúi xuống trên họ để chữa lành, trừ quỷ cho họ. Sau đó, Ngài mời gọi các Tông đồ cộng tác với Ngài trong việc chăm sóc đàn chiên, giảng dạy cho họ cũng như chữa lành cho họ. Ngài trao cho các ông nhiệm vụ rao giảng Nước trời và để việc loan báo có hiệu quả thì Ngài cũng ban cho họ khả năng: “Được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”.
Lãnh nhận năng quyền từ Chúa Giêsu, các ông được sai đến với: “Các con chiên lạc nhà Ít-ra-el” đi đến với các dân ngoại, rao giảng về một Nước Trời đang đến gần. Hơn nữa, Chúa Giêsu hướng dẫn, chỉ bảo các ông khi tiếp nối công việc của Ngài, để việc rao giảng của các Tông đồ đạt hiệu quả thì khi làm việc cần có tấm lòng nhân hậu của người mục tử: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy”.
Chúa Giêsu đã đến trần gian, khai mở triều đại Thiên Chúa, quy tụ mọi người vào trong vương quốc của ngài. Ngài muốn mọi người tiếp tục công việc này nên Ngài trao ban sứ vụ không chỉ cho riêng các Tông đồ mà ngài còn mời gọi tất cả chúng ta nỗ lực xây dựng vương quốc của triều đại này ngày càng lớn mạnh. Ngài mời gọi mọi người giới thiệu chân dung của một Thiên Chúa đầy lòng yêu thương, để mọi người nhận biết sự hiện diện yêu thương và tốt lành của Thiên Chúa. Ngài ước mong không một ai bị loại ra khỏi Nước Trời là nơi vinh quang Chúa hiển trị. Ngài muốn chúng ta cùng chia sẻ sứ vụ rao giảng cho mọi người, quảng đại phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khổ bị bỏ rơi. Chính Chúa Giêsu đã quảng đại và dành nhiều ưu ái cho những kẻ bé mọn thì chúng ta chẳng có lý do gì để từ chối nên giống Chúa trong việc phục vụ tha nhân.
Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam công bố ngày 01/05/2011 giúp chúng ta nhìn ra phương thức mới, cũng như biên cương mới của sứ vụ thần linh này trong việc nên giống Chúa và cũng là lời đáp trả cho lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội tại Việt Nam cần quan tâm đặc biệt đến những dân tộc ít người là những anh chị em còn phải chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. Các bệnh nhân, những người tàn tật, già yếu, neo đơn, mồ côi, những thiếu nữ lầm lỡ, các tù nhân… cũng là những thành phần cần được chăm sóc nhiều hơn trong các hoạt động mục vụ.
Các cộng đoàn Kitô hữu cần tìm cách thể hiện tình yêu thương phục vụ họ cách cụ thể, đồng hành với họ trong những khó khăn của đời sống, giúp họ nhận ra được niềm vui của đức …”. Chúng ta cũng được mời gọi: “Nhận ra những hình thức mới của sự nghèo khổ, bén nhạy trước những đổi thay của xã hội để kịp thời đáp ứng dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Việc đối thoại với người nghèo giúp cho Giáo Hội học được cách nhìn của Đức Kitô, khám phá nơi con người nhu cầu cần được yêu thương và tôn trọng chứ không chỉ là được ban phát của cải vật chất” (Số 41, Thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2011)
Sứ mạng mà Chúa Giêsu trao ban cho các Tông đồ xưa kia cũng chính là lời mời gọi mỗi người chúng ta trong cuộc sống hôm nay. Trước những nhu cầu của anh chị em trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, những người ta gặp gỡ trong cuộc sống hàng ngày, xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức lời mời gọi của Chúa để luôn nhiệt thành với việc giới thiệu Chúa cho người khác bằng chính đời sống của mình.