2021
Hóa Bánh Ra Nhiều
01 27 Tm Thứ Tư Tuần I Mùa Vọng.
Mt 15, 29-37
Hóa Bánh Ra Nhiều
Khi bàn về đoạn Tin Mừng hôm nay, một học giả Kinh Thánh đã viết: “Mỗi một giai đoạn trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu được đánh dấu bằng một bữa ăn khoản đãi dân Ngài”. Trước hết là phép lạ bánh hóa ra nhiều cho 5,000 người ăn, được coi như biến cố chấm dứt sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Vì từ đây Ngài không còn giảng dạy tại các Hội Ðường cũng như làm những phép lạ, chữa bệnh tật tại đó nữa. Thứ đến là phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi sống 4,000 người, đánh dấu trong một giai đoạn ngắn giảng dạy tại các vùng dân ngoại biên giới Palestina, miền Tirô và Sidon và miền thập tỉnh. Sau cùng là bữa tiệc ly tại Jérusalem, nơi đây đã kết thúc cuộc đời rao giảng của Ngài ở trần gian.
Với cái nhìn phân tích, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi bữa ăn đều nằm trong một bối cảnh khác nhau, thành phần tham dự cũng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng phát xuất từ một động lực chính, đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Với câu 29, thánh sử nêu rõ bối cảnh và nhân vật: “ Chúa Giêsu đến ven Biển Hồ, lên núi và ngồi…”. Trong Kinh Thánh, biển cả tượng trưng là nơi chốn của ma quỉ và sự ác, còn núi là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Hình ảnh Chúa Giêsu hiện lên trong 2 thái cực đối lập như muốn nói: Ngài đến ở giữa con người, sống trong bối cảnh thiện, ác lẫn lộn và chính Ngài sẽ điều khiển trật tự này qua hành động “ ngồi xuống” với tư cách của một vị Thầy hướng dẫn con người tìm về nẻo chính đường ngay, trong hoàn cảnh môi trường mình đang sống.
Câu 30 và 31 nói về một đám đông gồm toàn những con người bệnh hoàn tật nguyền : “ …què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân…”. Đây là nổi khổ đau của con người phải gánh chịu dưới ách thống trị của tội lỗi, ma quỉ và xác thịt. Họ kéo đến với Chúa Giêsu chỉ mong được chữa lành để có cuộc sống an bình, hạnh phúc. Chúa Giêsu không đành lòng trước nổi khổ đau của nhân loại. Ngài đã giơ tay cứu vớt và chữa lành mọi bệnh hoạn.
Đây chính là sứ vụ Mêsia của Ngài. “Ta đến để cứu những người tội lỗi”. (Mt 9,13) Vì theo người Do Thái hồi đó, bệnh hoạn là do tội lỗi gây nên. Còn đám đông sau khi được chữa lành, họ rất đỗi kinh ngạc… và tôn vinh Thiên Chúa. “ Một đám đông” khiến chúng ta nghĩ đến tính phổ quát của ơn cứu độ mà Thiên Chúa đem đến cho nhân loại, cho các dân tộc trên thế giới. Đó cũng là sứ vụ của Giáo Hội sau này: Hãy đi loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất ( x.Mt 16,15). Và Thiên Chúa của Israel cũng là Thiên Chúa của mọi người, mọi thời đại.
Câu 32, mạch văn chuyển sang đề tài mới còn được gọi là phép lạ hóa bánh. Lý do Chúa Giêsu làm phép lạ này, đó là Ngài “chạnh lòng thương”. Tình thương của Thiên Chúa luôn là khởi điểm cho mọi sáng kiến và công việc của Ngài. Ngài không những “chạnh lòng” mà còn muốn các môn đệ cũng có tâm tình như vậy, nên Ngài đã nói “vì họ ở với thầy đã 3 ngày mà không có gì để ăn. Thầy không muốn giải tán… Sợ họ bị xỉu dọc đường”. Qua câu nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu rất “người”. Ngài có một tâm tình của một vị chủ chăn, đúng hơn của một người mẹ biết rõ con mình đang đói khát.
Các môn đệ tuy hiểu, nhưng hoàn cảnh không cho phép “ trong nơi hoang vắng, chúng con lấy đau ra đủ bánh cho cả đám đông…” ( c.33). Ý nói : chúng con không có khả năng. Thực tế, nhiều khi chúng ta thường nói : con muốn lắm, nhưng không thể, vì đó vượt sức… Tình thương của chúng ta chưa đủ mạnh, chưa đủ lớn để… vượt qua thử thách. Lúc này, Thiên Chúa sẽ hành động : Anh em có mấy chiếc bánh? Dạ bảy chiếc và ít cá nhỏ ( c.34). Chỉ cần có thế, chỉ cần một chút cái “ nhỏ xíu” của chúng ta mà Thiên Chúa làm nên một phép lạ. Ngài muốn chúng ta đóng góp cái phần “ Nhỏ xíu” ấy vào công cuộc cứu độ của Ngài.
Từ câu 35-37: Phép lạ được diễn ra, Chúa Giêsu nhờ các môn đệ là người trung gian phân phát bánh cho dân và dân chúng được thỏa thuê. Hình ảnh này khiến chúng ta nghĩ đến những hiệu quả của các bí tích, mà Thiên Chúa đã dùng tay các thừa tác viên mà ban ơn lành cho dân.Một phép lạ hiển hiện rõ ràng. Với bảy chiếc bánh nay thu được bảy thúng bánh vụn còn dư, trong khi đó 4.000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ được ăn no nê. Trong sứ vụ loan báo tin Mừng cũng vậy, nhièu khi Thiên Chúa chỉ mượn đôi chân, bàn tay, miệng lưỡi của chúng ta, để Ngài nuôi dưỡng dân Ngài, Có lúc chúng ta thấy mình không đủ sức, bất tài vô dụng nhưng chính lúc đó sức mạnh và tình thương Chúa mới đưa đến kết quả tốt đẹp.
Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: “Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường”. Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5,000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.
Có thể họ im lặng vì chưa đủ lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Thắc mắc của họ phần nào tương tự như thắc mắc của các tông đồ: “Lấy đâu ra bánh trong hoang địa này cho ngần ấy người ăn”. Mặc dù các môn đệ đã thấy Ngài chữa lành các bệnh tật như làm cho kẻ điếc được nghe, què được đi, cùi được sạch… Tuy nhiên, có thể họ nghĩ rằng mình không thuộc về những hạng người cần đến Chúa Giêsu, vì thân thể đang khỏe mạnh đâu cần gì đến thầy thuốc. Sự đói mệt chỉ là một nhu cầu thể lý chứ không phải là một căn bệnh làm gì phải bắt Ngài bận tâm. Thế nhưng họ đâu có thể ngờ rằng, tuy không phải là căn bệnh thì chúng có thể làm hại con người hoặc có thể vì chút tự ái cá nhân mà họ đành im lặng mặc cho cơn đói hành hạ. Tại sao không chịu lo xa chuẩn bị chút ít lương thực phòng thân để giờ này lại mở miệng lên tiếng kêu ca.
Nhìn chung thái độ im lặng này xuất phát từ hai nguyên nhân: Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa và quá quy trách vào bản thân.
Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa khiến con người không thấy Ngài đầy quyền năng và đầy lòng thương xót. Ngài thấu hiểu hết mọi người và hằng quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của con người, ngay cả những nhu cầu nhỏ nhặt nhất cũng đều được Ngài đáp ứng. Mặt khác, quá thiên về bản thân cũng khiến cho con người xa cách Thiên Chúa. Con người luôn phải cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Về phần Chúa Giêsu, dù cho đám dân chúng im lặng, Ngài không chấp lẽ thái độ của họ, Ngài luôn quan tâm đến họ, Ngài sợ họ đói lả té xỉu dọc đàng, và Ngài đã cho họ ăn một cách dư giả đến nổi ăn xong còn dư được bảy thúng đầy. Con số này tượng trưng cho cái vô biên không đo lường nổi.
Cuộc lữ hành nào mà chẳng mệt nhoc, không lương thực thì chắc chắn sẽ có kẻ rơi rụng dọc đường. Chúa Giêsu đã thấy trước điều này ngay trong cuộc lữ hành trần gian, vì thế Ngài đã ban Mình Ngài để làm lương thực nuôi dân Ngài. Tuy nhiên, căn bệnh im lặng của đám dân chúng ngày xưa còn là căn bệnh của thế giới hôm nay. Căn bệnh đó xem ra còn trầm trọng hơn, vì bàn tiệc đã bày sẵn nhưng chẳng mấy ai đến hưởng dùng.
Mùa vọng là mùa đợi trông, dân Do Thái ngày xưa trông đợi ngày Chúa đến, ngày mà Chủ các cơ binh sẽ thiết đãi một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị trổi vượt của bàn tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa đã thiết đãi dân Ngài để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng ta sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời, không lo sợ phải mệt lả dọc đường.
2021
Thời Thiên Chúa thi ân giáng phúc
29 25 Tm Thứ Hai Tuần I Mùa Vọng.
Is 2,1-5; Mt 8,5-11.
Thời Thiên Chúa thi ân giáng phúc
Bắt đầu bước vào Mùa Vọng, Giáo hội mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Thiên Chúa yêu thương và làm những điều thật kỳ diệu nơi loài người. Nhưng, chỉ những ai có một tâm hồn khiêm nhường, tâm hồn khao khát, mong chờ Đấng Cứu Thế đến, mới nhận ra được, mới đón nhận được điều tốt lành của Thiên Chúa mà thôi.
Ngôn sứ Isaia sống vào khoảng năm 750 trước Công nguyên, đã báo trước thời đại thiên sai, thời cứu độ sắp đến (Is 11,1-10) như sau:
“Ngày ấy, từ gốc Giê-sê sẽ đâm ra một bông hoa. Trên bông hoa ấy, thần linh của Thiên Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức, và thần ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Thiên Chúa.”
Thiên Chúa lấy đức công bình và lòng chính trực để thương yêu, bênh đỡ và cứu giúp những người nghèo khó, những người bị áp bức, bị đối xử bất công trong xã hội.
Ngài sẽ biến đổi thế giới của con người trở thành một thời đại hòa bình, một cuộc sống bình an và hạnh phúc, bằng hình ảnh thật sống động như sau:
“Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò con và gấu sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô, trẻ con còn măng sửa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta.”
Những gì ngôn sứ Isaia báo trước, nay ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Ngài là Đấng Thiên sai, ông Vua Thái bình của loài người. Ngài là niềm vui, bình an và niềm an ủi cho những người nghèo, người đau khổ, những người bị xã hội ruồng bỏ.
Trang Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu, sự quan tâm và cứu giúp những người bé nhỏ, khiêm nhường, nghèo nàn. Ngài chỉ mạc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những tâm hồn đơn sơ khiêm hạ.
“Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ.”
Còn những kẻ cậy mình là khôn ngoan, những kẻ cho mình là giàu có, có cuộc sống sung sướng chỉ lo hưởng thụ, áp bức cách bất công với những người nghèo, người đau khổ…thì sẽ không được đón nhận những mầu nhiệm của Nước Trời.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ thật có phúc vì các ông đang được sống trong thời kỳ mà nhiều ngôn sứ, nhiều vua chúa mong đợi, thời mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo: “Kẻ què đi được, kẻ mù được thấy… là thời Thiên Chúa cứu độ”. Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa cứu độ đó. Người đến trần gian để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của ma quỷ, tội lỗi và sự chết..
Trong cuộc sống, chúng ta luôn nhận ra tình thương của Thiên Chúa qua Giáo Hội đang đồng hành với mình, để trong mọi hoàn cảnh khó khăn, các gia đình hãy luôn tuyệt đối phó thác vào tình thương của Chúa.
Chúa muốn chúng ta sống cách chân thành, yêu mến hàng xóm láng giềng. Khi sống chan hòa yêu thương với mọi người, mỗi người chúng ta trở thành dấu chứng tình yêu và huyền nhiệm của Thiên Chúa.
Chúng ta quan tâm nhiều hơn đến các gia đình, những người đang sống nghèo khổ, khó khăn. Chúng ta còn có trách nhiệm giúp đỡ, chia sẻ cả tinh thần lẫn vật chất để họ bớt đau khổ và bớt thiếu thốn nữa.
Riêng bản thân mỗi người chúng ta, Chúa muốn giúp chúng ta trở về với chính bản thân của mình nhiều hơn, đặc biệt, sống khiêm nhường, nhỏ bé. Đó là đức tính, lại còn là nhân đức trổi vượt mà Chúa luôn nhấn mạnh tới trong Tin Mừng.
Mùa vọng đến! Mùa của sự chờ mong, mùa của hy vọng, mùa của tin vui và của tình yêu; bởi phụng vụ mùa vọng giúp tín hữu hiện tại hóa và sống lại sự ngóng trông một trẻ sơ sinh sẽ ra đời, trẻ sơ sinh ấy – vị cứu tinh – sẽ đến để giải phóng nhân loại. Và nhân loại ngày nay đang bị cầm tù bởi những căn hầm tăm tối của sự kiêu căng tự mãn, tôn thờ thú vui nhục dục, tôn thờ bản thân…. Nhân loại đang thực sự rên siết và cần ơn giải thoát!
Hãy mở rộng lòng mình ra, hãy mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm hạ trước Thiên Chúa để được Người tỏ mình cho biết mầu nhiệm của Tình yêu, của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Để bạn trở nên chứng nhân tình yêu trong một thế giới còn đầy ắp tính ích kỷ và hận thù.
Hãy lắng nghe và xin vâng như Đức Maria “để Chúa đến trong cuộc đời, để Chúa đến đem ơn trời, nguồn hạnh phúc cho con người, nguồn cứu rỗi cho mọi nơi” (thánh ca mùa vọng). Để bạn trở thành người diễm phúc vì được thấy, được nghe và được cảm nếm những điều mà sự khôn ngoan thông thái thế gian không bao giờ có được (Lc 10, 23 – 24).
Chúng ta đang được diễm phúc sóng trong ơn cứu độ của Chúa Giêsu. Hằng ngày, qua việc đọc Lời Cháu, chúng ta được nghe tiếng Cháu, được thấy các phép lạ Người làm. Đó là những ân sủng giúp chúng ta sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa, sống thuộc trọn về Người.
2021
Dấu Chỉ Thời Ðại
26 22 X Thứ Sáu Tuần XXXIV Thường Niên.
Thánh Tô-ma Đinh Viết Dụ, Linh mục (U1839); và Thánh Đa-minh Nguyễn Văn Xuyên, Linh mục (U1839), Tử đạo.
Đn 7,2-14; Lc 21,29-33.
Dấu Chỉ Thời Ðại
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc đến nguyên lý đó. Ngài dạy chúng ta phải biết nhìn vào các biến cố xẩy ra trong thời đại để nhận biết rằng Chúa đang đến: “Các con hãy xem cây vả cũng như các cây khác, khi cây đâm chồi, các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xẩy ra, các con hãy biết rằng Nước Thiên Chúa đã gần đến”.
Như đã tiên báo đền thờ và thành Giêrusalem sụp đổ, để tiên báo về ngày cánh chung; hôm nay Chúa kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn cây vả, để giải thích cho những điều Ngài đã tiên báo.
“Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến”.
Ngày cánh chung chắc chắn sẽ đến; Ngày đó sẽ rất kinh sợ, vì là thời điểm chấm dứt mọi sự. Tuy nhiên, đó cũng là ngày Chúa trở lại trong vinh quang, không chỉ để xét xử con người, mà còn là ngày thu hoạch, là mùa gặt hái …
Tin như thế, chúng ta phải có thái độ sống thế nào để có thể “đứng vững trước mặt Con Người”, và đón nhận ơn cứu rỗi của Chúa ban cho loài người chúng ta. Đặc biệt, chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng cho ngày, giờ chết của mỗi người.
Chúa Giêsu đã xuống trần gian và thực hiện công trình cứu chuộc nhân loại bằng sự chết và sự sống lại của Ngài. Chúa Giêsu mang đến cho toàn thể nhân loại chúng ta niềm hy vọng. Chúa Giêsu sẽ hoàn tất công trình cứu chuộc của Ngài khi Ngài trở lại trong vinh quang ngày quang lâm để đưa nhân loại vào vương quốc vĩnh cửu.
Vâng, thế giới này sẽ chấm dứt, nhưng nhân loại sẽ có một cuộc sống mới vinh quang vì ơn cứu chuộc đã đẩy lui mọi bóng dáng của tội lỗi và tình thương cứu độ của Chúa đổ tràn trên mọi người.
Ngày Chúa quang lâm, hay còn gọi là ngày cánh chung, ngày tận thế chưa biết sẽ xảy ra khi nào, lúc nào. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy biết chuẩn bị, sẵn sàng.
Trước hết, chúng ta hãy biết chuẩn bị bằng đời sống đức tin và trung thành với Chúa trong cuộc sống của mình, để phấn khởi đón nhận ơn Chúa đến trong hiện tại và vui mừng đón Chúa đến trong tương lai, đặc biệt vào giờ chết của mình.
Hơn nữa, chúng ta còn phải đẩy lùi tội lỗi, tránh xa những thế lực của sự dữ, satan, ma quỉ, triệt hạ những ngẫu tượng, đẩy lùi những tính hư nết xấu, ích kỷ, tham lam,… trong chúng ta, trong gia đình chúng ta và trong môi trường xung quanh chúng ta.
Tốt nhất là chúng ta quyết góp tay xây dựng một thế giới đầy tình người trong đó hận thù, chia rẽ sẽ nhường chỗ cho yêu thương, quảng đại, cảm thông và chia sẻ.
Theo Cha Lausade, Thiên Chúa nói với chúng ta bằng hai cách: hoặc bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh, hoặc qua các biến cố xẩy đến trong đời sống thường ngày. Ðiều quan trọng là chúng ta phải quan tâm để nhận ra lời nhắn nhủ của Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thường dễ nhận ra Kinh Thánh là Lời Chúa, là giáo huấn của Chúa, mà ít nhận ra các dấu chỉ thời đại cũng là Lời Chúa, là thánh ý Chúa, nói khác đi, chúng ta ít nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta qua các tạo vật, qua niềm vui, nỗi buồn, qua cả những lầm lỗi của chúng ta.
Do đó, để có thể nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố, chúng ta cần phải có thái độ lắng nghe và yêu mến. Có những người không bao giờ đặt vấn đề: Tại sao tôi sống? Sống để làm gì? Chết rồi đi đâu? Người Kitô hữu chúng ta biết rõ ý nghĩa của cuộc đời, nhưng cũng cần chăm chú lắng nghe để nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống, vì đó là tiếng gọi của tình yêu mà chỉ những ai yêu mến Chúa mới nhận ra được.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng tahãytỉnh thức để đọc được ý nghĩa của từng biến cố trong cuộc sống. Mỗi biến cố xẩy đến là một dấu chỉ mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa ; mỗi biến cố xẩy đến đều ẩn chứa một tiếng nóicủa Ngài.
Ngày nay, chứng kiến những thảm họa chiến tranh, khủng bố đây đó trên thế giới, cũng như các tai ương, bệnh tật đủ kiểu đủ cách, ta hiểu rằng chính con người đã gây ra đổ vỡ cho thế giới và cho chính bản thân mình. Và vì vậy là những người tin, ta được mời gọi hãy khẩn thiết nài xin mỗi ngày: Xin cho “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời…”
Thật ra, Nước Thiên Chúa đã có mặt trong trần gian này rồi, nhưng có điều nhân loại chúng ta đang đóng cửa lòng mình lại, đang bưng tai bít mắt mình lại, đang không chấp nhận để Nước Chúa hiển trị trong cuộc đời mình. Bao lâu nhân loại còn từ khước sự hiện diện của Thiên Chúa, thì bấy lâu thế giới này còn xảy ra đủ thứ hỗn loạn và đổ vỡ.
Mỗi một dấu chỉ thời đại xảy đến trong giađìnhvà trong cuộc đời mỗi con người luôn kèm theo lời nhắn nhủ của Thiên Chúa. Cácgia đình hãy siêng năng cầu nguyện để nhận ra ý Chúa trong từng biến cố xảy ra. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết “đọc” ra những dấu chỉ đó để có thể nhận ra đâu là thánh ý Chúa hầu mau mắn đáp lại lời mời gọi của Người cho xứng hợp.
Xin cho chúng ta nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, để chúng ta luôn hân hoan tiến bước và chu toàn thánh ý Chúa mỗi ngày, cho đến ngày chúng ta hưởng nhan Chúa trên Nước Trời.
2021
GIỮ VỮNG ĐỨC TIN CỦA CHA ÔNG
24 20 Đ Thứ Tư Tuần XXXIV Thường Niên.
THÁNH AN-RÊ DŨNG LẠC VÀ CÁC BẠN TỬ ĐẠO, lễ trọng.
Kỷ niệm ngày Tòa Thánh thiết lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam (24/11/1960). Các tín hữu hãy cảm tạ Chúa và cầu cho Giáo Hội tại Việt Nam.
Thánh Phê-rô Bô-ri-e Cao (Pierre Rose Dumoulin Borie), Giám mục (U1838); Thánh Vi-xen-tê Nguyễn Thế Điểm, Linh mục (U1838); và Thánh Phê-rô Vũ (Võ) Đăng Khoa, Linh mục (U1838), Tử đạo.
2Mcb 7,1.20-23.27b-29 (hoặc Kn 3,1-9); Rm 8,31b-39 (hoặc Kh 7,9-17); Lc 9,23-26 (hoặc Ga 17,11b-19).
GIỮ VỮNG ĐỨC TIN CỦA CHA ÔNG
Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần An Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây vì nhà nghèo, cậu được gửi gấm cho một thày giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên thánh là Anrê. Ít lâu sau, cậu Dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp hòa nhã. Có người nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đã thuộc lòng.
Sau 10 năm làm thày giảng và 3 năm thần học, ngày 15-3-1823, thày Dũng được lãnh chức linh mục (cùng với lớp thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm làm phó xứ Đồng Chuối giúp cha Khiết. Sau đó về giúp cha Thi ba năm ở xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi làm chánh xứ Kẻ Đầm thì bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt.
Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo Hội, cha còn giữ chay suốt Mùa Chay, và nhiều khi cả các ngày thứ sáu, thứ bảy quanh năm. Thường xuyên cha chỉ dùng những thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết mình với nhiệm vụ chủ chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc gì. Cha có lòng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Có được của cải gì, cha chia xẻ cho họ hầu hết.
Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc ngày 6-1-1833, cha phải ẩn náu tại các nhà bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong thì quân lính ập tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẫn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong 30 giáo hữu hôm đó, vì quan quân không biết cha là linh mục. Ông Tổng Thìn bỏ ra 6 nén bạc, nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đấy cha đổi tên là Lạc.
Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen hàng tháng. Lý trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải chuộc với giá 200 quan. Các tín hữu gom góp được 100 quan nên viên lý trưởng chỉ tha cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, vì gặp mưa gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha đang trú lại đang bị quân lính khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện Bình Lục cùng với cha Thi.
Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức Cha Retord Liêu tìm cách chuộc hai cha về, nhưng lần này cha Lạc thấy ý Chúa đã định cho mình, ngài nhắn về với Đức Cha câu chuyện thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đã yêu cầu ở lại tử đạo tại Roma, và xin các tín hữu đừng lo liệu tiền chuộc làm chi nữa.
Quan huyện Bình Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền dọn cơm cho hai cha bằng mâm bát của mình, bắt lý trưởng trả lại quần áo đã tịch thu và thanh minh rằng: ”Phép triều đình cấm đạo và giết các cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội gì trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa hai cha xuống thuyền chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: ”Đạo trưởng có cái gì mà dân chúng thương tiếc quá vậy?” Một phụ nữ gần đó đáp lại: “Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như giáo lý trong đạo”.
Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa mình, đã dừng lại an ủi và khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.
Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi, và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không thành công, các quan làm án xin vua xử trảm.
Thời gian trong tù, hai cha chiếm được tình cảm của lính gác, được tôn trọng và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai cha quỳ bên nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi ngày, hai cha vẫn tìm cách hãm mình dặn họ đừng mang thịt hay cá làm chi, các ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ hai, thứ tư, thứ sáu và thứ bảy. Những ngày đó, hai cha ăn thật ít, vừa đủ.
Lễ Các Thánh (1-11-1839), linh mục Trân đưa Mình Thánh Chúa vào ngục. Vừa thấy ngài, cha Lạc đã ra chào đón: ”Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương thực rồi”. Sau đó, cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh cho cha già Thi.
Cuối năm 1839, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận bản án như một phần thưởng trọng hậu. Trên đường đến pháp trường, hai cha yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn tiếng mấy câu La tinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lý hình đến nói với cha: ”Chúng tôi không biết các thày tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin các thày đừng chấp”.
Cha Lạc tươi cười trả lời: ”Quan đã truyền anh cứ thi hành”. Sau đó, hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lý hình chém.
Hai vị đã lãnh phúc tử đạo ngày 21-12-1839 tại bãi ngoài cửa ô Cầu Giấy (Hà Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lý Quý gần đó.
Và rồi ta thấy truyền thống còn ghi nhớ lịch sử chết vì đạo của Giáo hội Việt Nam rất bao quát, phức tạp ngay từ lúc ban đầu. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc miền Đông Nam Á Châu vừa được truyền đạo, Giáo Hội Việt Nam đã chịu bách hại suốt 3 thế kỷ, trừ một vài năm cách quãng, giống hệt ba thế kỷ bắt bớ của Giáo Hội Âu Châu thời xưa. Từng ngàn giáo dân tử đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc.
Để lấy một thí dụ: trong các vị tử đạo hôm nay, đi tiên phọng có thánh Vinh Sơn Liêm, dòng Đa Minh là người Việt tử đạo đầu tiên năm 1773. Rồi tới linh mục Anrê Dũng Lạc, sinh trưởng trong một gia đình rất nghèo khó, bên lương, từ nhỏ đã phải “bán” cho một thầy giảng dậy giáo lý, nhưng rồi Chúa cho tới chức linh mục năm 1823, được bổ nhiệm chánh xứ và đương nhiên thành nhà truyền giáo trong nhiều địa hạt.
Nhiều lần đã bị lao tù, nhưng vẫn giữ được giáo dân tốt lành đem tiền chuộc về, trong khi bản thân ngài mong chờ được chết vì Chúa. “Những người chết vì đức tin ngài nói-thì phải tốn tiền đút lót cho quan quyền; thà để cho chúng tôi bị bắt và rồi tử đạo có phải hơn không?” Thực ra, vẫn một ý chí hăng say và được ơn Chúa nâng đỡ, ngài đã anh dũng chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21.12.1839.
Máu các Tử Đạo là nguồn ân sủng cho chúng ta trước tiên, để chúng ta thăng tiến trong đức tin. Giữa mỗi chúng ta, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai.
Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tới tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa Kitô.
Mỗi Kitô hữu Việt Nam đều ý thức rằng: lời kêu gọi của Tin Mừng vẫn là phải tuân phục các thể chế loài người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng công quyền và thể chế quốc gia (1 Pr 2,13-17).