2021
Ðức Maria Gương Mẫu Của Niềm Tin
21 18 Tm Thứ Ba Tuần IV Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Phê-rô Ca-ni-xi-ô (Canisio), Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
Lc 1, 39-45
Ðức Maria Gương Mẫu Của Niềm Tin
Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ. Bethlem này cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung Ðông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ thơ bé bỏng yếu đuối, trong một gia đình thường dân khác.
Tuy nhiên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả, các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa như: làng quê Bethlem, cuộc sống khiêm tốn, điều kiện lúc bé bỏng, sự mỏng dòn yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, bởi vì Ðấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại. Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ lại càng nổi bật hơn trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1, 39-48).
Maria một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Ðấng Cứu Thế, Con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Trong dòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành cao quí và trọng đại nhất là Ngài đã ban chính Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế cho nhân loại.
Mẹ Maria đã có tương giao nghĩa thiết với Thiên Chúa, nên Mẹ đã sống cuộc đời Mẹ cách vẹn toàn, sung mãn dù cuộc đời có nhiều bấp bênh, thử thách. Mẹ cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng; nhờ vậy, Mẹ trở thành Đấng Đầy Ơn Phúc. Cũng thế, gia đình ông Dacaria, nhất là Gioan Tẩy Giả, đã được đầy tràn niềm vui ơn cứu độ nhờ gặp gỡ Con Thiên Chúa Làm Người mà Đức Mẹ đã mang đến cho gia đình ông.
Sống ở đời, người ta phải có tương quan, liên đới. Nhưng trong tương quan, liên đới với những người xung quanh, bạn và tôi đã mang gì đến cho họ? Có khi nào sau cuộc gặp gỡ, trao đổi với ta, họ trở về nhà với tâm hồn nặng trĩu những dằn vặt, đau đớn bởi những lời nói, cử chỉ, hành động thiếu tình bác ái, vị tha của ta? Mẹ Maria đã mang Chúa Cứu Thế đến cho gia đình ông Dacaria. Ta cũng được mời gọi đem Chúa là niềm vui ơn cứu độ đến với những người xung quanh, chứ không phải mang đến cho họ những hiềm khích, chỉ trích gây đau đớn, khổ sầu cho họ.
Lời chào của bà Elizabeth khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều khen đến cách thế Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người. Con đường bé nhỏ nghèo nàn, khiêm tốn và kín nhiệm. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa phải nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ, và mở mắt chào đời từ cung lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Elizabeth: “Em ơi,Em thật có phúc hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con em được chúc phúc” khiến cho họ khó chịu.
Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy tất cả cái nghiêm trọng của biến cố Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của một người đàn bà trong gia đình nhân loại. Hoa trái tuyệt diệu ấy, Người Con ấy đã do hoạt động và quyền năng của Chúa Thánh Thần nên đã được cưu mang trong cung lòng của Trinh Nữ Maria.
Nhưng cũng như bất cứ bào thai nào khác, con người được sinh ra trên trần gian đều gắn liền với thịt xác, máu huyết của bà mẹ. Và để nhập thể làm người, Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình. mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong chính cung lòng của mình.
Và Chúa Giêsu hoa trái tuyệt diệu của ơn cứu rỗi ấy đã trở thành một bào thai, nhận chịu mọi luật lệ tâm sinh vật lý của một bào thai. Thân hình, lớn lên, phát triển trong thời gian, giãy dụa đợi chờ trong lòng Mẹ, được Mẹ nuôi nấng bằng chính máu huyết của Bà như bất cứ một thai nhi nào khác. Sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể làm người lớn lên từ từ ấy tỏ hiện rõ ràng qua hình ảnh cụ thể tròn trịa của bụng mẹ mình ngày càng lớn lên trong thời gian.
Hoa trái gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh thực phẩm để hưởng nếm, để ăn, bồi bổ và nuôi sống. Hoa trái phát sinh từ sự sống và diễn tả sự sống, nó có nhiệm vụ dưỡng nuôi sự sống và không thể có sự sống mà không có hoa trái.
Sự kiện Chúa Giêsu là hoa trái, là bào thai, là sự sống lớn lên trong cung lòng Mẹ Maria, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một tư tưởng hay một giả thuyết. Thiên Chúa cũng không phải là một luận lý mà Ngài là một hoa trái Thiên Chúa ban để dưỡng nuôi, để cứu thế giới này khỏi chết đói. Mẹ Maria đã không nói nhiều mà chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ, thầm lặng, ẩn dật, cưu mang Chúa Giêsu trong lòng rồi hiến dâng Ngài cho chúng ta. Sự phong phú không cần lời, ánh sáng không cần lời nói và sự sống với hơi thở và nhịp đập của con tim chính là sứ điệp. Khi tâm hồn càng trống rỗng khô cằn bao nhiêu thì con người càng nhiều người và gây nhiều tiếng động bấy nhiêu.
Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong tâm hồn, nhưng chúng ta chỉ có thể cưu mang Chúa Kitô phong chức và hữu hiệu như Mẹ Maria khi chúng ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ, yêu thích chọn lựa con đường và kiểu cách sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ, như người khiêm hạ. Kiểu cách chọn lựa con đường gặp gỡ và cứu rỗi nhân loại trên đây cũng được nêu bật trong thư gởi giáo đoàn Do Thái hay diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu.
Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một biến cố trọng yếu và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, bởi vì nó mở cửa ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do Thái giáo để liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các liên hệ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và tuân giữ luật lệ, mặc dầu các sinh hoạt này đã có nhiệm vụ và vai trò rất ít quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của dân tộc Israel, Chúa cũng không thể trao ban ơn cứu độ cho con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người phải tìm trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng, nghĩa là trước khi con người phạm tội.
Cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài, và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử cứu rỗi. Cần phải qui hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách khỏi cuộc sống lòng tin ra khỏi các sinh hoạt thường ngày. Bởi vì chúng ta không chỉ là Kitô hữu khi cử hành các nghi lễ phụng vụ mà thôi, nhưng là trong suốt ngày sống, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt và cung cách hành xử thường ngày là chúng ta khước từ việc tin nhận biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu.
Bởi vì khi Nhập Thể, Chúa Giêsu chấp nhận qui hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Này Con xin đến để thực thi ý Cha”. Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu sống tinh thần nhập thể trọn vẹn ấy, là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng Sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất vậy.
2021
XIN VÂNG THEO Ý CHÚA
20 17 Tm Thứ Hai Tuần IV Mùa Vọng.
Lc 1, 26-38
XIN VÂNG THEO Ý CHÚA
Trong mọi công việc, mọi quyết định, chúng ta thường xin Chúa soi sáng để chúng ta thực hiện công việc theo như ý Chúa. Lời xin vâng này được Đức Maria thi hành một cách trọn hảo, Mẹ là mẫu gương sống động cho mỗi chúng ta khi thi hành thánh ý Chúa. Mừng lễ Mẹ Maria với tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên tội hôm nay, chúng ta cùng suy gẫm về lời xin vâng của Mẹ để đáp trả thánh ý Thiên Chúa bằng lời Xin vâng mỗi ngày trong suốt cuộc đời của mình.
Trình thuật Tin Mừng kể lại việc Đức Maria được Sứ Thần Gabriel báo tin việc cưu mang Đấng Cứu Thế, người mà muôn dân đang mong đợi, Đấng sẽ đến giải thoát dân khỏi cảnh lầm than, khỏi ách nô lệ. Cuộc gặp gỡ định mệnh nhưng cũng thật diệu kỳ, kịch tính.
Đức Maria, một thôn nữ hiền lành, hoàn toàn chưa chuẩn bị gì cho cuộc thăm viếng này. Lời chào của Sứ thần: “Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” đã mang lại cho Mẹ chút bối rối khi tìm câu trả lời. Mẹ cũng băn khoăn trước sứ điệp của Thiên Chúa: “Sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”, ý thức mình chỉ là một thôn nữ như bao thôn nữ khác, Mẹ …trước thánh ý của Thiên Chúa, nhưng Mẹ muốn biết, muốn hiểu sự việc dưới ánh sáng của một người có lòng tin mạnh mẽ vào Chúa. Mẹ không hoài nghi trước ơn trọng đại mà mình sắp đón nhận: “Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” nhưng một lòng tín thác vào Chúa.
Là một thiếu nữ mười sáu tuổi, không một điều báo trước, không một sự chuẩn bị, sứ mạng Thiên Chúa trao cho Mẹ Maria qua lời truyền tin của sứ thần Gaprien không khỏi làm Mẹ ngỡ ngàng và bối rối. Cưu mang Con Thiên Chúa do quyền năng Chúa Thánh Thần – đó là điều quá lớn lao vượt sức lý giải và đón nhận của loài người. Mẹ có quyền thắc mắc và Mẹ cũng có quyền từ chối. Tuy vậy, sau lời giải thích của sứ thần, Mẹ Maria mau mắn đáp lời xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38).
Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho triều thần thiên quốc đang nín thở đợi chờ được hân hoan vui sướng, cho hoa lá reo mừng, cho Mùa Xuân Cứu Độ được mở ra. Mẹ Xin Vâng. Tiếng xin vâng trong khiêm cung và tín thác. Tiếng Xin Vâng chấp nhận mọi khó khăn và hiểm nguy có thể sẽ đến sẽ đến như: sự hiểu lầm của Thánh Giuse – người Mẹ đã đính hôn, mất đi sự đức hạnh trước mắt người đời, thậm chí là cái chết vì ném đá theo luật của người Do Thái. Mẹ Xin Vâng. Tiếng Xin Vâng chân thành và vô điều kiện.
Tiếng Xin Vâng của Mẹ chẳng giống như tiếng xin vâng của người con thứ trong dụ ngôn hai người con: Khi anh được cha sai đi làm vườn nho, anh đáp “Thưa Ngài, con đây” nhưng rồi lại không đi (Mt 21, 28-32). Tiếng Xin Vâng đó cũng chẳng giống với cách vâng phục trong tính toán của người con cả trong dụ ngôn Người cha nhân hậu (Lc 15, 11-32). Mẹ đã Xin Vâng. Mẹ Xin vâng với trọn tâm tình và dùng cả cuộc đời để sống lời Xin Vâng ấy. Nơi Mẹ, thánh ý Thiên Chúa luôn được thể hiện cách trọn vẹn. Nhờ Mẹ và qua Mẹ, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, mang tình yêu và ơn cứu độ đến cho trần gian.
Đức Maria luôn đặt ý mình trong thánh ý Chúa, Mẹ vâng theo ý Chúa vơi lòng tin tưởng và tín thác: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Với lời thưa xin vâng, Mẹ phó thác trong tay Chúa cuộc đời của mình, không biết ngày mai sẽ ra sao và sẽ thế nào.
Nhìn lại cuộc đời của Mẹ, chúng ta thấy từ lúc Mẹ đáp lời xin vâng Mẹ đã hoàn toàn phó thác trong tay Chúa với lòng tin tưởng mạnh mẽ. Trên đường thập giá và khi đứng dưới chân thập tự, Mẹ luôn lặng lẽ, âm thầm đón nhận thánh ý Chúa trong đức tin và để thánh ý Chúa được thể hiện. Thái độ xin vâng của Mẹ thể hiện lòng vâng phục tuyệt đối. Mẹ, chấp nhận vâng theo thánh ý của Thiên Chúa chứ không theo ý riêng của mình. Vì thế, Mẹ là người nữ luôn luôn “đẹp lòng” Thiên Chúa.
Trước những biến cố xảy ra trong cuộc đời mỗi người, chúng ta lo ngại về thái độ và lời đáp trả của chúng ta trước thánh ý của Thiên Chúa. Có nhiều người luôn coi trọng ý Chúa và sống tâm tình xin vâng theo ý Chúa, nhưng cũng có không ít người, không ít lần chính mỗi người chúng ta cũng có thái độ chống lại ý Chúa, coi thường ý Chúa. Cũng có những lúc chúng ta vô tình hay hữu ý hiểu sai ý Chúa. Không ít lần chúng ta gắn cho ý Chúa những ý riêng của mình và chúng ta tự an ủi vỗ về, tự mê hoặc chính mình và bảo đó là ý Chúa hay chúng ta cho rằng ý Chúa thật trùng khớp với ý mình, hợp với ý mình.
Qua những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xảy ra trong cuộc đời mỗi người, nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, nhạy bén đọc ra thánh ý Chúa ta sẽ thấy Chúa không ngừng nói với chúng ta, không ngừng thể hiện ý Chúa qua những dấu chỉ và biến cố ấy. Như Đức Maria đã nhận ra thánh ý Chúa qua biến cố Truyền tin, chúng ta cũng sẽ nhận ra thánh ý Chúa qua cá biến cố xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Thế nhưng, chúng ta không thể đáp trả hai tiếng xin vâng cách thờ ơ và lạnh nhạt. Thưa lên hai tiếng xin vâng thì dễ nhưng để sống điều ấy lại là một thách đố cho mỗi người chúng ta.
Trong hành trình theo Chúa, mỗi ngày chúng ta hãy tập đáp lại lời xin vâng bằng việc cầu nguyện với chuỗi Mân Côi. Chúng ta cũng noi gương Mẹ sống âm thầm lặng lẽ, đón nhận những biến cố trong cuộc đời với lòng tín thác và mến yêu. Mỗi ngày ta tập làm những điều nho nhỏ phục vụ tha nhân để lời xin vâng của ta được hoà quyện với tâm tình yêu mến như Mẹ Maria. Mỗi ngày chúng ta cũng tha thiết xin với Mẹ để Mẹ giúp ta biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa với tâm tình con thảo. Nhờ đó, chúng ta cũng vượt thắng được những gian nan thách đố, những khó khăn trong cuộc sống của mình để chia sẻ với tha nhân những ân sủng của Thiên Chúa.
Là người con của Mẹ, chúng ta hãy noi gương Mẹ sống phó thác với lời xin vâng để những khi gặp thử thách trong cuộc đời, những lúc lời mời gọi của Chúa gây xáo trộn cuộc đời mình, chúng ta cũng được Chúa nâng đỡ, được diễm phúc mang lấy Chúa vào tâm hồn với lòng tin kính, mến yêu và phó thác và lúc đó chúng ta là những người mang Chúa đến cho người khác nữa.
Theo bước chân của Mẹ Maria, mỗi người kitô hữu cũng được mời gọi hãy luôn biết lắng nghe lời Chúa, tin tưởng vào kế hoạch yêu thương của Chúa dành cho mỗi người và sẵn sàng đáp tiếng “xin vâng”. Tuy vậy, trong một xã hôi đề cao tự do, quyền lợi cá nhân và chủ nghĩa hưởng thụ như ngày hôm nay, việc sống xin vâng theo thánh ý của Chúa là một thách đố không nhỏ.
Đơn giản mà khó vì tiếng xin vâng bao giờ cũng đòi hỏi những sự từ bỏ và hy sinh mà không phải ai cũng can đảm để chấp nhận. Vẫn còn rất nhiều những lời mời gọi của Thiên Chúa đang chờ đợi lời đáp trả. Ước mong mọi kitô hữu hiểu rằng: Tình yêu chỉ trọn vẹn khi đến từ hai phía. Ơn cứu độ chỉ có thể thực hiện khi có sự cộng tác của con người: “Để dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứu độ con Chúa cần con cộng tác” (Thánh Augustino).
2021
GỐC TÍCH ĐỨC GIÊSU
18 15 Tm Thứ Bảy Tuần III Mùa Vọng.
Mt 1, 18-24
GỐC TÍCH ĐỨC GIÊSU
Mỗi con người sinh ra trong lịch sử là câu chuyện lịch sử về một con người bắt đầu. Và mỗi con người đều có một chương trình của Thiên Chúa dành cho mình trong cuộc đời. Chương trình ấy được hướng dẫn bởi một tình yêu vô biên trong mối tương quan cá vị đối với con người, để dẫn dắt con người tìm về nguồn hạnh phúc đích thực. Tin mừng hôm nay kể lại câu chuyện về nguồn gốc của một con người – Con Thiên Chúa – Đấng đã đi vào lịch sử loài người để ở với, đồng hành với và Cứu độ con người – Con Người ấy – Chúa Giêsu Ki-tô Đấng cứu độ chúng ta.
“Gốc” là cội rễ, là nguồn sống. Ông bà xưa có lời dạy: “diệt cỏ phải diệt tận gốc”. Nên mất gốc thì không thể tồn tại.
“Gốc” là nơi nương tựa. Trong cuộc sống, nhất là đường tiến thân trong sự nghiệp, công danh, ta thường nghe nói: “ ông này, bà kia…có gốc lớn lắm”, điều ấy hiểu rằng họ có thể đứng vững trước những thử thách phong ba, bão tố…
“Gốc” là niềm tự hào của con người. Là danh dự, là phẩm giá thiêng liêng phải giữ gìn và bảo vệ, như giống nòi, dòng tộc…Ai chối từ những điều ấy, người ta thường phê phán là “đồ mất gốc”.
“Gốc” còn là ngọn nguồn, nguồn gốc. Nên để hiểu rõ một sự việc, một vấn đề, cần phải biết nguồn gốc phát sinh, căn nguyên của sự việc. “phải lần tìm gốc rễ của sự việc”
Vì thế, để đặt niềm tin vào một người, ta cần phải biết gốc tích của người đó. Không ai có thể tin tưởng một người mà không hề biết gì về gốc gác người đó, những gì họ làm, và họ làm với mục đích Chúa Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trần gian do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cha mẹ của Người: Đức Maria một cô thôn nữ đơn sơ, nhỏ bé, bình dị đã thành hôn với ông Giuse thuộc dòng tộc Đa-vít (cc. 18. 20b). Ông là người công chính, luôn mau mắn vâng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa (cc. 19. 24).
Sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể là để “cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (c. 21b). Con Thiên Chúa làm người, đi vào lịch sử loài người, Ngài không chọn một gia đình cao sang quyền quí làm nơi xuất thân nhưng là một mái ấm gia đình đơn nghèo đạm bạc để làm nên trang sử gia đình thánh và viết lên trang sử đời Người. Ngài là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Với sứ mạng Thiên sai, Ngài đến để rao giảng Tin mừng tình thương cứu độ. Ngài gần gũi, quan tâm, săn sóc những người nghèo khổ, lầm than vất vưởng, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Và điều quan trọng là Người đến để cứu vớt, giải phóng con người khỏi nô lệ, xích xiềng tội lỗi, cho họ được tự do và làm con Thiên Chúa, được chung hưởng hạnh phúc nước trời.
Chúa Giêsu xuất thân từ dòng dõi mà gia phả về Ngài đã có ghi lại trong Kinh Thánh.
“Đây là gia phả Chúa Giêsu Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham…” (Mt.1,1-17).
Trong đó, phần cuối của gia phả Chúa Giêsu Ki-tô đã kết luận: “Gia-cóp sinh Giu-se, chồng bà Maria, bà là mẹ Chúa Giêsu cũng gọi là Đấng Ki-tô” (Mt.1,16).
Nhưng, vấn đề là ở chỗ bà Maria mang thai bé Giê-su không phải do chung sống với Giu-se, chồng bà, mà do “quyền năng của Chúa Thánh Thần”.
Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (Mt.1, 18).
Vậy, Chúa Giêsu từ đâu đến ?
Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt.1, 23).
Giu-se, trong một cú “sốc” bất ngờ vì “trước khi hai ông bà về chung sống, bà Maria đã có thai”, nhờ sứ thần Thiên Chúa, đã kịp nhận ra chương trình của Thiên Chúa, và ông đã “tin” vào Mầu Nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể.
Ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt.1, 24).
Vậy, gốc tích Cha Giêsu, là Ngài đến từ trời. Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đích thực là Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng nhân loại.
Chúa Giêsu nói với Ni-cô-đi-mô: Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. (12) Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được (13) Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống. (Ga.3, 11-13).
Suy gẫm Tin mừng hôm nay, chúng ta duyệt xét lại cuộc đời mình – chúng ta đã và đang viết những trang sử riêng của đời ta như thế nào? Chúng ta đã được hưởng nhờ ơn cứu chuộc của Thiên Chúa, được giải thoát khỏi gông cùm xích xiềng tội lỗi – chúng ta đã sống đáp lại tình thương của Chúa như thế nào? Một cuộc sống công chính luôn sẵn sàng vâng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa, thực thi lời dạy của Chúa Giêsu Kitô trong Tin mừng để được hạnh phúc đời đời hay chúng ta đã đánh mất niềm hy vọng và rời xa niềm tin vào Thiên Chúa – Đấng cứu độ chúng ta.
Mùa vọng là mùa giúp Kitô hữu chúng ta sống lại niềm chờ mong ngóng đợi Đấng Thiên sai; là mùa hướng chúng ta đến một niềm hy vọng mới của một trang sử mới tràn ngập niềm vui vì sự ra đời của con Thiên Chúa – Đấng Cứu độ. Người đã đến cách đây hơn hai ngàn năm và Người vẫn còn đang đến trong từng cuộc đời. Người là niềm hy vọng của mỗi con người chúng ta, là Tin mừng cho chúng ta, và cũng là Tin mừng chúng ta cần phải loan báo cho anh em mình, những người còn xa lạ với Thiên Chúa.
Như những tôi tớ trung thành, người con hiếu thảo, mỗi gia đình Ki-tô hữu chúng ta cũng viết lên trang sử cuộc đời mình bằng cách sống vâng nghe và tuân giữ lệnh Chúa truyền, sống tràn đầy niềm vui và hy vọng, sống yêu thương và phục vụ trong tin yêu, phó thác để làm nên một gia đình gương mẫu như thánh gia xưa hầu có thể trở thành chứng tá Tin mừng cứu độ trong cuộc sống.
Có như thế, mỗi năm khi kỷ niệm mừng con Chúa ra đời là mỗi lần lòng chúng ta được tràn ngập niềm vui sướng và biết ơn Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương và vẫn còn yêu thương ta mãi mãi trong cuộc đời. Đấng đã làm nên lịch sử và luôn dẫn dắt quan phòng để lịch sử ấy hướng về cùng đích là chính Người. Xin Thiên Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta và giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để đón mừng đại lễ kỷ niệm ngày con Thiên Chúa giáng trần.
2021
GỐC TÍCH ĐỨC GIÊSU
18 15 Tm Thứ Bảy Tuần III Mùa Vọng.
Mt 1, 18-24
GỐC TÍCH ĐỨC GIÊSU
Mỗi con người sinh ra trong lịch sử là câu chuyện lịch sử về một con người bắt đầu. Và mỗi con người đều có một chương trình của Thiên Chúa dành cho mình trong cuộc đời. Chương trình ấy được hướng dẫn bởi một tình yêu vô biên trong mối tương quan cá vị đối với con người, để dẫn dắt con người tìm về nguồn hạnh phúc đích thực. Tin mừng hôm nay kể lại câu chuyện về nguồn gốc của một con người – Con Thiên Chúa – Đấng đã đi vào lịch sử loài người để ở với, đồng hành với và Cứu độ con người – Con Người ấy – Chúa Giêsu Ki-tô Đấng cứu độ chúng ta.
“Gốc” là cội rễ, là nguồn sống. Ông bà xưa có lời dạy: “diệt cỏ phải diệt tận gốc”. Nên mất gốc thì không thể tồn tại.
“Gốc” là nơi nương tựa. Trong cuộc sống, nhất là đường tiến thân trong sự nghiệp, công danh, ta thường nghe nói: “ ông này, bà kia…có gốc lớn lắm”, điều ấy hiểu rằng họ có thể đứng vững trước những thử thách phong ba, bão tố…
“Gốc” là niềm tự hào của con người. Là danh dự, là phẩm giá thiêng liêng phải giữ gìn và bảo vệ, như giống nòi, dòng tộc…Ai chối từ những điều ấy, người ta thường phê phán là “đồ mất gốc”.
“Gốc” còn là ngọn nguồn, nguồn gốc. Nên để hiểu rõ một sự việc, một vấn đề, cần phải biết nguồn gốc phát sinh, căn nguyên của sự việc. “phải lần tìm gốc rễ của sự việc”
Vì thế, để đặt niềm tin vào một người, ta cần phải biết gốc tích của người đó. Không ai có thể tin tưởng một người mà không hề biết gì về gốc gác người đó, những gì họ làm, và họ làm với mục đích Chúa Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trần gian do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cha mẹ của Người: Đức Maria một cô thôn nữ đơn sơ, nhỏ bé, bình dị đã thành hôn với ông Giuse thuộc dòng tộc Đa-vít (cc. 18. 20b). Ông là người công chính, luôn mau mắn vâng nghe và thi hành thánh ý của Thiên Chúa (cc. 19. 24).
Sứ vụ của Ngôi Lời nhập thể là để “cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (c. 21b). Con Thiên Chúa làm người, đi vào lịch sử loài người, Ngài không chọn một gia đình cao sang quyền quí làm nơi xuất thân nhưng là một mái ấm gia đình đơn nghèo đạm bạc để làm nên trang sử gia đình thánh và viết lên trang sử đời Người. Ngài là Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Với sứ mạng Thiên sai, Ngài đến để rao giảng Tin mừng tình thương cứu độ. Ngài gần gũi, quan tâm, săn sóc những người nghèo khổ, lầm than vất vưởng, bệnh hoạn tật nguyền, những kẻ bị gạt ra bên lề xã hội. Và điều quan trọng là Người đến để cứu vớt, giải phóng con người khỏi nô lệ, xích xiềng tội lỗi, cho họ được tự do và làm con Thiên Chúa, được chung hưởng hạnh phúc nước trời.
Chúa Giêsu xuất thân từ dòng dõi mà gia phả về Ngài đã có ghi lại trong Kinh Thánh.
“Đây là gia phả Chúa Giêsu Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu ông Áp-ra-ham…” (Mt.1,1-17).
Trong đó, phần cuối của gia phả Chúa Giêsu Ki-tô đã kết luận: “Gia-cóp sinh Giu-se, chồng bà Maria, bà là mẹ Chúa Giêsu cũng gọi là Đấng Ki-tô” (Mt.1,16).
Nhưng, vấn đề là ở chỗ bà Maria mang thai bé Giê-su không phải do chung sống với Giu-se, chồng bà, mà do “quyền năng của Chúa Thánh Thần”.
Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (Mt.1, 18).
Vậy, Chúa Giêsu từ đâu đến ?
Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt.1, 23).
Giu-se, trong một cú “sốc” bất ngờ vì “trước khi hai ông bà về chung sống, bà Maria đã có thai”, nhờ sứ thần Thiên Chúa, đã kịp nhận ra chương trình của Thiên Chúa, và ông đã “tin” vào Mầu Nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể.
Ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. (Mt.1, 24).
Vậy, gốc tích Cha Giêsu, là Ngài đến từ trời. Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đích thực là Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng nhân loại.
Chúa Giêsu nói với Ni-cô-đi-mô: Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. (12) Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được (13) Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Ðấng từ trời xuống. (Ga.3, 11-13).
Suy gẫm Tin mừng hôm nay, chúng ta duyệt xét lại cuộc đời mình – chúng ta đã và đang viết những trang sử riêng của đời ta như thế nào? Chúng ta đã được hưởng nhờ ơn cứu chuộc của Thiên Chúa, được giải thoát khỏi gông cùm xích xiềng tội lỗi – chúng ta đã sống đáp lại tình thương của Chúa như thế nào? Một cuộc sống công chính luôn sẵn sàng vâng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa, thực thi lời dạy của Chúa Giêsu Kitô trong Tin mừng để được hạnh phúc đời đời hay chúng ta đã đánh mất niềm hy vọng và rời xa niềm tin vào Thiên Chúa – Đấng cứu độ chúng ta.
Mùa vọng là mùa giúp Kitô hữu chúng ta sống lại niềm chờ mong ngóng đợi Đấng Thiên sai; là mùa hướng chúng ta đến một niềm hy vọng mới của một trang sử mới tràn ngập niềm vui vì sự ra đời của con Thiên Chúa – Đấng Cứu độ. Người đã đến cách đây hơn hai ngàn năm và Người vẫn còn đang đến trong từng cuộc đời. Người là niềm hy vọng của mỗi con người chúng ta, là Tin mừng cho chúng ta, và cũng là Tin mừng chúng ta cần phải loan báo cho anh em mình, những người còn xa lạ với Thiên Chúa.
Như những tôi tớ trung thành, người con hiếu thảo, mỗi gia đình Ki-tô hữu chúng ta cũng viết lên trang sử cuộc đời mình bằng cách sống vâng nghe và tuân giữ lệnh Chúa truyền, sống tràn đầy niềm vui và hy vọng, sống yêu thương và phục vụ trong tin yêu, phó thác để làm nên một gia đình gương mẫu như thánh gia xưa hầu có thể trở thành chứng tá Tin mừng cứu độ trong cuộc sống.
Có như thế, mỗi năm khi kỷ niệm mừng con Chúa ra đời là mỗi lần lòng chúng ta được tràn ngập niềm vui sướng và biết ơn Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương và vẫn còn yêu thương ta mãi mãi trong cuộc đời. Đấng đã làm nên lịch sử và luôn dẫn dắt quan phòng để lịch sử ấy hướng về cùng đích là chính Người. Xin Thiên Chúa chúc lành cho mỗi người chúng ta và giúp chúng ta chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để đón mừng đại lễ kỷ niệm ngày con Thiên Chúa giáng trần.