2021
LỜI ĐÃ HÓA THÀNH NHỤC THỂ
25 22 Tr Thứ Bảy. CHÚA GIÁNG SINH, lễ trọng.
Ga 1, 1-18
LỜI ĐÃ HÓA THÀNH NHỤC THỂ
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón “bé Giêsu” có ích gì nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: “Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta”.
Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa.
Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: “Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?”. Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
2021
VẦNG ĐÔNG ĐÃ GẦN KỀ
24 21 Tm Thứ Sáu Tuần IV Mùa Vọng.
Lc 1, 67-79
VẦNG ĐÔNG ĐÃ GẦN KỀ
Chắc hẳn bài ca của Dacaria hôm nay sẽ không lạ gì đối với những ai thường xuyên đọc Kinh Phụng Vụ ban sáng. Với người vừa đọc, rất có thể lúc này họ cũng cảm nhận chút vui, chút rộn ràng trong lòng bởi chính ca từ, nhịp điệu và ý thơ của bài ca này.
Hơn thế nữa, Mẹ Giáo Hội cho ta nghe bài ca này trong buổi sáng cuối cùng trong hành trình Mùa Vọng như thể muốn thổi vào hồn ta nỗi vui đang cuộn trào bởi những dòng sóng chờ đợi trong tỉnh thức và hy vọng suốt những ngày qua; như thể muốn hối thúc ta mau mau tận dụng chút thời gian vắn vỏi còn lại để hoàn thiện, để trang hoàng lòng mình thành máng ấm cỏ êm, thành chiếc nôi ân tình cho Đấng Cứu Tinh là Vầng Đông từ trời vui đến ngự.
Để cảm nhận được tấm lòng mẫu tử và đáp ứng những chờ mong của Mẹ Giáo Hội, ta cùng dành ít phút quý giá này để cùng với Dacaria, chiêm suy công trình cứu độ mà chính Thiên Chúa đã khởi sự và thực hiện những điều Ngài đã hứa.
Mở đầu bài ca là lời chúc tụng. Tâm tình chúc tụng được thốt lên từ ông già Dacaria, một con người vừa hết hồn trải nghiệm việc Chúa làm cho bản thân và gia đình mình: vợ ông mang thai và hạ sinh con trẻ khỏe mạnh như chính những gì ông đã nhận biết trong phiên tiến hương ; bản thân ông bị câm vì đã dám dùng trí hèn mà xét đoán quyền năng Thiên Chúa mà nay được Chúa thương mở miệng, chữa lành.
Tâm tình chúc tụng này vừa là hoa trái, vừa hun đúc lòng tin mạnh mẽ khiến ông hoan hỉ cao rao nghĩa xót thương và đức tín thành của Thiên Chúa. Nếu ta có quyền hiểu bài ca tỏ lộ niềm tin của Dacaria xưa cũng là niềm xác tín của những người nghèo trong Israel, thì chắc hẳn hôm nay ta cũng mạnh mẽ cao rao rằng: Mẹ Giáo Hội mượn lại bài ca này để tuyên xưng và mời gọi tôi, bạn và các anh chị, ta hãy nhìn xem, hãy ngẫm suy cho cảm thấu hiểu sâu những gì Chúa đã làm nơi Thân Thể Mầu Nhiệm, nơi cộng đoàn giáo xứ, nơi các cộng đoàn tu trì và nơi chính bản thân ta.
Nếu như hôm qua của lịch sử cứu độ là một lịch sử huy hoàng để ta chiêm suy và kể lại, để ta tạ ơn và hoán cải. Lịch sử cứu độ cũng chính là hôm nay, một lịch sử vĩ đại, mà Chúa và Giáo Hội không ngừng mời gọi mỗi tín hữu viết lên với một nhiệt tình mới, một năng lực mới cách thức mới nhằm đáp ứng những nhu cầu và dấu chỉ của thời đại chúng ta, mà ngang qua đó, Thánh Linh Chúa luôn hiện diện và không ngừng mời gọi.
Thiên Chúa hằng vẫn ở với chúng ta trong Nhà Tạm, Ngài luôn kêu mời mỗi người chúng ta đến với Ngài, đến để tìm nguồn an ủi trong cuộc sống, đến để tim nguồn nghị lực và sức mạnh để lướt thắng mọi trở ngại ngăn lối về nhà Cha. Nhưng mấy ai đã tìm đến với Ngài hay chỉ có ngọn đèn dầu màu đỏ leo lét hẩm hiu vô tri làm bạn với Chúa hằng ngày mà thôi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Zacharia được đầy tràn Chúa Thánh Thần, ông nói tiên tri về Chúa Kitô là Ðấng cứu rỗi sẽ đến. Không phải ai cũng có thể nói tiên tri được, chỉ những người thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa, Chúa mới cho họ quyền nói tiên tri, làm phép lạ, nói được các thứ tiếng loài người như trong ngày lễ ngũ tuần các tông đồ chỉ giảng bằng tiếng của mình mà những người nghe đều hiểu theo tiếng bản xứ của họ.
Nhưng Thiên Chúa yêu thích hơn nếu chúng ta có tâm tình mến Chúa thực sự: “Nếu tôi được ơn nói tiên tri mà tôi không có đức mến Chúa thì cũng chẳng có ích gì. Nếu làm được nhiều phép lạ mà tôi không có lòng mến Chúa thì cũng ích gì cho tôi”. Ðức tin và đức cậy sẽ mất khi con người nhắm mắt, chỉ còn lòng mến Chúa là tồn tại mãi trong Nước Trời. Cho nên Thập Giới của đạo Công Giáo chỉ tóm gọn trong đức “Mến Chúa – Yêu Người”, vì thế mà đạo Công Giáo còn được gọi là đạo của “Yêu Thương”.
Làm thế nào để ta có dư tràn niềm say mê mà viết lên lịch sử vĩ đại đó, nếu không phải là đi về phía Vầng Đông, đi trong Ánh Sáng bằng cách đón nhận Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa mỗi ngày ? nếu không phải là ngang qua việc thực hành Lời Chúa, ta được trở nên những đốm sáng tuy nhỏ nhoi nhưng cũng đủ để soi bước chân ta, soi cho tha nhân, nhất là soi cho những ai đang ngồi trong bóng tối của tội lỗi, của đói nghèo, bất công và biết bao khuôn mặt khác của bóng tối.
“Vầng Đông từ chốn cao với viếng thăm dân Ngài” mà ông Da-ca-ri-a tán tụng đã xảy ra cách đây 2.000 năm và cứ mỗi độ Giáng Sinh về, chúng ta lại tưởng niệm mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người. Bầu khí của ngày chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh, cùng với những bài thánh ca, tạo nên một sắc thái đặc biệt khiến lòng người rộn lên niềm vui mong chờ ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Thế nhưng, niềm vui phát xuất từ thẳm sâu tâm hồn, làm cho tâm hồn mình như hoà quyện với bầu khí rộn rã khát mong Vầng Đông đến viếng thăm là thứ niềm vui từ trên ban cho. Niềm vui sâu xa tràn ngập tâm hồn và được bày tỏ qua hành động ấy chỉ được ban cho bạn qua tác động và phát xuất từ Chúa Thánh Thần.
Để có thể đi về với Ánh Sáng và hòa mình vào Ánh Sáng, mỗi chúng ta cần tự nhận biết mình đang đứng ở đâu so với Ánh Sáng ? đang có thái độ nào với Ánh Sáng ? Sự nhận biết này sẽ cho ta khát khao, cho ta can đảm hoán cải. Bên ngoài, ánh sáng đèn điện ngập tràn nơi các đường phố và hang đá giáng sinh, nhưng liệu ánh sáng vật chất ấy có đủ nhắc gợi ta soạn sửa lòng mình sao cho sẵn sàng để đón tiếp Ánh Sáng Thật trong Đêm Nay, Đêm Lung Linh, Đêm Huyền Diệu, Đêm Thánh.
Bài Thánh ca “Chúc tụng” Benedictus mở đầu bằng lời “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en” là một bài Thánh ca tuyệt đẹp, đầy ắp những hình ảnh Thánh Kinh và lời ngôn sứ trong Cựu Ước, được đặt vào miệng ông Da-ca-ri-a, thực sự là một lời ngôn sứ vừa đúc kết lại cả một lịch sử ơn cứu độ, vừa chuyển tiếp báo tin sự xuất hiện của “Vị Cứu Tinh quyền thế”, của “Vầng Đông tự chốn cao vời đến viếng thăm.” Bài Thánh ca làm dậy lên niềm vui và hy vọng của những ai cảm nghiệm mình có Chúa, được cứu độ, được tự do và bình an.
2021
Sinh Nhật Của Gioan Tẩy Giả
23 20 Tm Thứ Năm Tuần IV Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Gio-an thành Ken-ty (Kęty), Linh mục.
Lc 1, 57-66
Sinh Nhật Của Gioan Tẩy Giả
Chúng ta biết đến thánh Gioan Kenty như là một con người thánh thiện và học thức, Ngài vừa là một giáo sư đại học lừng danh, vừa là một ân nhân của người nghèo.
Có một truyền thuyết rất đẹp về lòng bác ái của thánh nhân. Một người nghèo ăn xin ở cửa phòng ăn. Mỗi người có đúng phần mình, nhưng Gioan đã lấy trọn phần mình cho người bất hạnh. Từ đó, phần của người ăn xin được dành riêng. Công thức “người nghèo đến” được đáp ứng lại bằng “Chúa Kitô đến”. Gioan Kenty còn đưa chính áo choàng của mình cho người bị lạnh lẽo.
Là bậc thầy về đức ái, Ngài cũng rất vui tươi. Một lần, được những người quí phái mời, Ngài đến với y phục rất khiêm tốn của mình và bị đầy tớ chủ nhà xua đuổi. Thay bộ đồ khiêm tốn ấy đi Ngài được mời vào tiệc. Chẳng may, một người giúp việc vụng về làm rớt đồ ăn vào đó. Ngài nói : – “Này, chính nhờ bộ áo mà tôi được ở đây, thế là nó cũng được quyền nếm nước chấm nữa”.
Tinh thần và bác ái đi đôi quá chân thật có một không hai. Ngày kia, khi đi Roma, Ngài bị bọn cướp bóc lột, Ngài nói với họ là không còn gì nữa. Nhưng sau đó Ngài thấy tiền trong áo kép. Ngài vội đuổi theo họ, thú nhận mình ăn cắp và đưa cho họ số tiền này. Lịch sử kể lại rằng, bon cướp đã hối cải ngay.
Kenty, quê hương của Gioan gần Cracovia, là nơi Ngài theo học và đạt bằng tiến sĩ triết học lẫn thần học, Ngài thụ phong linh mục. Giữ ghế tại đại học, Ngài nói tiếng Latinh và tiếng Balan.
Khi cần thiết, Ngài chỉ tranh luận trong tinh thần bác ái bao dung. Trả lời cho những nhục mạ của đối phương, Ngài chỉ biết nói: “Tạ ơn Chúa”. Để vượt qua mọi cực nhọc, thử thách, Ngài tự nhủ: “ráng lên”. Ngài thường nói với học trò của mình : – “Hãy lấy nhẫn nại, dịu dàng và tình yêu làm khí giới để chống lại những quan điểm sai lầm. Thô bạo chỉ hại cho linh hồn và làm hư chính nghĩa”.
Những ghen tương đố kỵ đã làm cho Ngài mất chức đại học và đẩy Ngài vào công việc nặng nhọc tại giáo xứ. Thời gian làm cha sở tại Gracôvia, Ngài đã tỏ ra có một đức bác ái vô bờ, nhưng đại học lại đòi Ngài phải trở về, Ngài lãnh trách nhiệm dạy kinh thánh và tôn giáo cho các công tử Balan. Ngài hành hương Giêrusalem và lắng nghe các lương dân. Khi qua đời vào tuổi rất thọ, sự thánh thiện của Ngài đã lừng khắp nơi Ngài đã đi qua. Thánh Gioan Kenty đã để lại lời kinh rất đẹp này.
“Xin hãy cho chúng con yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu mọi người vì Chúa và làm đẹp lòng Chúa trong tâm hồn và trong hành động của chúng con”.
Nhiều người khóc thương Ngài và Ngài được kể như người làm nhiều phép lạ. Nhưng mãi tới năm 1767, Ngài mới được tuyên thánh.
Trong bài đọc của phần Phụng Vụ hôm nay, ngôn sứ Malakia đã tiên báo về một sứ giả có nhiệm vụ dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm Ngài. Sứ giả ấy là Elia: “Này đây, Ta sai tiên tri Elia đến cùng các ngươi trước ngày trọng đại kinh khủng của Ta, người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu và lòng con cháu trở về cùng cha ông”. Về sau Chúa Giêsu sẽ tỏ lộ cho các môn đệ Ngài biết: “Elia chính là Gioan Tẩy Giả”, và trong bài Tin Mừng thánh sử Luca đã nói gì với sứ giả Gioan này?
Gio-an là một tên bình thường của người Do-thái. Tương tự như những tên Thiên Ân, Thiên Phúc của người Việt, tên Gio-an có nghĩa là ‘Thiên Chúa thi ân’ – ‘Gia vê có lòng tốt, từ bi, nhân từ, độ lượng’. Tuy nhiên, sự kiện khác thường trong việc đặt tên cho Gio-an là vì trong dòng tộc của hai ông bà không ai có tên như thế, mà theo tục lệ người ta sẽ lấy tên ông nội đặt cho đứa trẻ, nhưng vì Da-ca-ri-a đã cao niên và người ta cũng kính trọng ông nên người ta muốn lấy tên ông để đặt cho con, và điều gây ngạc nhiên ở đây là cả hai ông bà đều nhất trí “Tên cháu là Gio-an”. Tại sao? Bởi vì Gio-an chính là tên Chúa đặt cho, mà theo truyền thống Kinh Thánh thì Thiên Chúa đặt tên cho ai thì người ấy thuộc về Thiên Chúa – người được Thiên Chúa chọn.
Tên Gio-an nói lên con người và sứ mạng của ông; bởi chính bản thân Gio-an đã là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cách chung cho nhân loại và cách riêng cho ‘đôi bạn già’ Za-ca-ria và Ê-i-sa-bét. Quả thật, Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với những kẻ có lòng kính sợ người. Người biểu lộ lòng thương xót với Ê-li-sa-bét, giải thoát bà khỏi nỗi tủi nhục không con, vì theo quan niệm Do-thái, người phụ nữ không con là người vô phúc, không đẹp lòng Thiên Chúa, thì nay lòng dạ son sẻ của bà đã được Chúa chúc phúc để từ đây bà có thể ‘ngẩng mặt’ trước hàng xóm láng giềng.
Và cách đặc biệt, Gio-an là người đầu tiên (sau Đức Mẹ) được Chúa thi ân viếng thăm ban ơn cứu độ nên đã “nhảy lên vui sướng trong lòng mẹ” (Lc 1, 44). Gio-an có sứ mạng loan báo lòng thương xót Chúa thi ân cho gian trần, là đã ban chính con của người làm vị Cứu thế đến để giải thoát nhân loại khỏi xích xiềng và bóng đêm tội lỗi – Ông là vị tiền hô dọn đường cho Đấng Cứu tinh và rất xứng đáng với lời ngợi khen của Đức Giê-su: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an” (Lc 7, 28).
Gio-an đã sống trọn vẹn và hoàn tất sứ mạng Thiên Chúa trao cho ông. Ông đóng vai trò của một ‘tiếng kêu’ để giúp nhân loại đón nhận Lời của Thiên Chúa. Ông mời gọi con người tỏ lòng sám hối, từ bỏ nếp sống tội lỗi cũ đầy những gian tham, mưu mô, gồ ghề, lươn lẹo để sống công bình, chính trực, bác ái, yêu thương (Lc 3, 4 – 14). Ông giới thiệu Đấng Mê-si-a cho con người và tự mình rút lui vào bóng tối; Ông đáp lại với những người đối chất và thắc mắc xem ông có phải là Đấng Mê-si-a hay không: “Có Đấng đến sau tôi nhưng trổi vượt hơn tôi, tôi không xứng đáng xách dép cho người” (Lc 3, 15 – 16)….
Mỗi người chúng ta đều có sứ mạng để hoàn thành trong cuộc đời. Cái tên đẹp chỉ có ý nghĩa khi người ta sống đẹp. Tên bạn là Bảo Ngọc ư? Bạn hãy sống sao cho tha nhân có thể cảm nghiệm bạn là viên ngọc quí. Bạn là Hương Lan ư? Bạn hãy sống sao để hương thơm đức độ được lan tỏa…. Ngày nay nếu theo dõi tin tức trên báo chí hay mạng truyền thông, chúng ta có thể thấy có những tội phạm hình sự có những tên rất hay, như tên giết người Thanh Bình, tên cướp Đức Độ…. Chắc hẳn khi đặt tên cho con cha mẹ không bao giờ muốn con mình trở nên những con người như thế. Tuy nhiên, mong ước vẫn là mong ước, nhưng nếu cha mẹ không quan tâm giáo dục con cái trở nên những con người tài đức mà chỉ nuông chiều quá độ, không biết dạy con sống theo lương tâm ngay chính hay thậm chí làm gương xấu cho con thì chính cha mẹ đã không hoàn thành sứ mạng của mình, đồng thời cũng không thể cho con mình một tương lai tốt đẹp được.
Chẳng khác gì người Việt Nam chúng ta, người Do Thái cũng sống tình bà con láng giềng rất thắm thiết. Nghe Elizabeth sinh hạ con trai, bà con láng giềng liền đến giúp đỡ và chia sẻ niềm vui cùng với gia đình Zacharia. Ðến ngày thứ tám, lúc làm lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ cũng có sự hiện diện của họ. Họ muốn lấy tên Zacharia mà đặt tên cho con trẻ chứ không phải là Gioan. Gioan hay Giokhanan tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.
Vì sự chào đời của Gioan là một biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa, cách riêng cho Zacharia và Elizabeth, vì Thiên Chúa đã cất đi sự tủi nhục bấy lâu đè nặng trên người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Vì hôm nay đã xuất hiện vị sứ giả để dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm dân Ngài, một niềm vui mà đã mấy ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chắc chắn những người hiện diện đều biết chữ Gioan hay Giokhanan có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.
Tuy nhiên, họ lại không hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ không hiểu vì tâm trí của họ đang bị ràng buộc bởi những suy nghĩ của trần thế, quá lệ thuộc vào các tập quán cổ xưa. Vì thế, họ không còn cảm nhận được giá trị của lòng thương xót Thiên Chúa ban xuống cho con trẻ và gia đình: “Không ai trong họ hàng bà có tên này”.
Con người cứ nhắm mắt đưa chân theo những vết xưa cũ ấy nên họ chẳng nhận ra được những thực tại trước mắt, không biểu lộ được ý nghĩa của công việc họ đang tham dự. Ðến chung vui vì Thiên Chúa đã xót thương, thế mà họ lại không chịu tuyên xưng lòng thương xót của Ngài.
Với Zacharia cũng thế, lý luận mang tính cách trần thế đã khiến ông không tin nhận lòng thương xót của Thiên Chúa đang được ban xuống cho gia đình ông. Vì thế mà ông đã phải lãnh nhận hình phạt là bị câm. Chỉ khi ông đã quyết định đặt tên cho con trẻ là Gioan, tức là khi ông tuyên xưng lòng thương xót của Thiên Chúa thì lúc đó ông mới được tha khỏi hình phạt, và cũng là lúc ông chúc tụng ngợi khen lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thật thế, trong cuộc đời có lẽ không có gì làm buồn lòng con người cho bằng đi làm ơn mà chỉ được lãnh nhận thái độ lãnh đạm, thờ ơ và cũng chẳng có gì đáng trách cho bằng thái độ vô ơn. Nếu trong dân gian có những câu nói diễn tả lòng dạ ác độc như cầm thú thì về phương diện biết ơn, thú vật đôi lúc lại được xếp hạng trên con người: “Cứu vật vật trả ơn. Cứu nhân nhân trả oán”.
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng để chuẩn bị mừng kính mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, một mầu nhiệm diễn tả lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại.
Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta kiểm điểm lại tâm tình biết ơn của mình. Có thể chúng ta không cố tình quên ơn nhưng trong thực tế chúng ta lại sống như những người vô ơn. Tuy nhiên, như những người láng giềng của gia đình Zacharia, thì qua cách suy nghĩ trần tục, các thành kiến hẹp hòi, các thói quen ích kỷ đã vây phủ lấy chúng ta, làm cho chúng ta bị mờ tối nên chẳng nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa hằng bao bọc chúng ta cũng như tình thương của người anh em đang tặng ban cho chúng ta. Nhưng khi nhận ra lòng thương xót ấy thì chúng ta cũng như Zacharia là thốt lên lời chúc tụng và ngợi khen.
2021
MẸ MARIA MẪU GƯƠNG TUYỆT VỜI
22 19 Tm Thứ Tư Tuần IV Mùa Vọng.
Lc 1, 46-56
MẸ MARIA MẪU GƯƠNG TUYỆT VỜI
Giáo Hội Công giáo có một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa.
Khi Mẹ Maria tới thăm người chị họ là bà Elizabeth, ngay giờ phút đầu tiên mới gặp nhau, bà Elizabeth đã cất lời ca ngợi Mẹ là Người có phúc nhất trong giới phụ nữ; Mẹ Maria đã hân hoan vui sướng ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa vì Mẹ đã cảm nghiệm sâu sắc tình thương Thiên Chúa dành cho Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi.”
Mẹ đã vui mừng hớn hở vì Mẹ cũng như mọi người thời đó đang hết sức chờ mong “Đấng Cứu Thế”. Không vui sướng sao được vì nay không những Đấng Cứu Thế đã đến, mà còn đến ngay trong cung lòng của Mẹ. Mẹ tuyệt vời vui sướng, nhưng không phải vì thế mà Mẹ tỏ ra vênh vang, lên mặt với mọi người, ngược lại với lòng khiêm nhượng thẳm sâu, Mẹ nói mình không xứng đáng được ơn trọng đại này (ơn làm Mẹ Đấng Cứu Thế) qua lời : “Phận Nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới”. Người mẹ của một vị vua trần thế, họ tỏ vẻ sang trọng và cung cách của họ tỏ ra quí phái biết chừng nào thế nào. Mẹ Maria thì ngược lại, Mẹ suy nghĩ : ơn trọng đại này là hoàn toàn do tình thương của Thiên Chúa ban cho Mẹ: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại”.
Suốt cuộc đời Mẹ luôn là bài ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa. Còn chúng ta, khi được ai khen ngợi một chút đã vênh vang và coi đó là tài năng của mình. Chúng ta thường quên những gì chúng ta có được là hoàn toàn do lòng thương yêu Thiên Chúa dành cho mình. Chúng ta cần học nơi Mẹ lòng khiêm tốn thẳm sâu, nhất là những khi được người khác khen ngợi; để chúng ta luôn khiêm tốn ca tụng Thiên Chúa vì những ơn huệ đó.
Mẹ Maria còn giới thiệu cho chúng ta lòng thương xót Chúa dành cho mỗi người, nếu mỗi người trong chúng ta biết tỏ lòng kính tôn Thiên Chúa : “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”. Chúng ta tỏ lòng kính tôn Thiên Chúa qua việc chúng ta tuân giữ Lời Chúa và các giới răn cũng như các huấn lệnh Chúa truyền qua Giáo Hội.
Một tấm gương nữa chúng ta học được nơi Mẹ là Mẹ luôn quan tâm đến nhu cầu của những người chung quanh, như việc Mẹ đến thăm bà Elizabeth và còn ở lại giúp đỡ bà ba tháng nữa; Cũng như trong tiệc cưới tại Cana, Mẹ đã can thiệp kịp thời khi chủ tiệc hết rượu, mà duy chỉ mình Mẹ nhận ra, Mẹ nói với Chúa Giesu: “Họ hết rượu rồi”. Chúng ta cần học nơi Mẹ sự quan tâm đến nhu cầu của những người sống chung quanh và sẵn sàng đưa tay giúp họ với một tình yêu vô vị lợi. Xã hội ngày nay người ta chỉ phục vụ khi có lợi nhuận hay chức quyền chứ khó tìm thấy người phục vụ một cách vô vị lợi. Đối với Thiên Chúa thì không như thế :
Thiên Chúa thường thực hiện những điều đi ngược với ý nghĩ của loài người: “Chúa giơ tay biểu dương quyền lực, diệt trừ hạng kiêu căng, đề cao kẻ khiêm nhường”.
Đức Maria còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng, trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với Thánh Ý Thiên Chúa.
Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ giúp. Ngài hằng ao ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Mỗi người hãy cảm nghiệm tình yêu thương Thiên Chúa đã, đang thực hiện trong cuộc đời mình và học nơi Đức Maria tâm tình ca ngợi tạ ơn Chúa và luôn phó thác cuộc đời mình cho bàn tay Chúa quan phòng: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư”. Khi đã cảm nghiệm được tình thương Chúa dành cho mình, chúng ta hãy vui tươi, phấn khởi và luôn nhớ rằng chúng ta có Mẹ là mẫu gương và là Người dẫn dắt cuộc đời chúng ta.
Thánh Luca nhắc đi nhắc lại mẫu gương của Đức Maria: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Mẹ là người luôn lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa và đem ra thực hành. Trước khi Mẹ cưu mang Ngôi Lời trong dạ, thì Mẹ đã cưu mang Lời Chúa trong tâm hồn rồi. Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta về việc lắng nghe và sống Lời Chúa.
Nếu Đức Maria được vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa, thì mỗi người Kitô hữu cũng được chia sẻ sự vinh dự đó. Bởi vì, như Chúa Giêsu nói: “Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành là anh chị em Ta, và là Mẹ của Ta.”
Giáo Hội là mẹ, nghĩa là Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Đức Maria, người phải tiếp tục sinh Chúa Kitô cho người khác. Mỗi người Kitô hữu là Giáo Hội. Chúng ta được mời gọi sinh Chúa Giêsu cho người khác bằng sự hy sinh, lời cầu nguyện và đời sống chứng tá của chúng ta, đặc biệt nhờ việc dạy giáo lý, huấn luyện đức tin cho con cái và giới trẻ.