2022
VÁC THẬP GIÁ
19.2
Thứ Bảy trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Gc 3:1-10; Tv 12:2-3,4-5,7-8; Mc 9:2-13
VÁC THẬP GIÁ
Khi tiên báo về cuộc khổ hình và thập giá mà Người sắp phải chịu bởi các kì mục, thượng tế và kinh sư, Ðức Giêsu nhận thức được rằng các tông đồ phải cảm thấy buồn nản và còn lo sợ. Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thày mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Ðức Giêsu đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá. Vì thế ông Phêrô đại diện cho nhóm Mười Hai kéo riêng Thầy ra mà can ngăn Người (Mc 8:32). Rồi khi biến cố thập giá xẩy ra vào ngày Thứ Sáu Chịu nạn, thì kinh nghiệm đau thương lại càng đè nặng tâm trí các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người được chứng kiến cảnh sầu khổ của Thầy mình trong vườn cây dầu.
Ðể giúp các tông đồ đối phó với cảnh khổ nạn và thập giá, Ðức Giêsu đưa ba tông đồ thân tín lên đỉnh núi, biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Ðức Giêsu biến hình có mục đích là củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong viễn tượng của cuộc khổ hình và thánh giá. Giáo hội coi việc tổ phụ Ápraham sẵn sàng hiến tế con mình làm lễ vật hi sinh là hình bóng của lễ vật hi sinh của Ðức Giêsu làm của lễ đền tội cho nhân loại.
Ðể thử thách đức tin của Áp-ra-ham, Thiên Chúa muốn ông dâng con mình, là I-xa-ác làm lễ vật toàn thiêu, một người con duy nhất mà Chúa đã hứa cho ông bà, khi bà xã ông là Sara sinh con lúc bà đã cằn cỗi (St 18:12), còn ông được xấp xỉ một trăm tuổi xuân (St 21:5). Nhờ đức tin, Ápraham sẵn sàng chấp nhận hi sinh hiến tế con mình mặc dù đã nhận được lời hứa là nhờ I-xa-ác mà ông sẽ có được một dòng dõi (St 21:12). Kết quả là Chúa sai sứ thần bảo ông dừng tay lại và còn hứa cho dòng dõi ông trỏ nên đông đúc như sao trời và cát biển (St 22:17).
Từ trên núi xuống, Chúa ra lệnh cho bộ ba tông đồ không được thuật lại cho ai nghe những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Từ đó các tông đồ quan sát và suy niệm những cảnh chống đối và lăng nhục xẩy ra như: Thày mình bị bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bách hại và nhục mạ Thày mình phải chịu khiến các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được loan tin là Thày mình đã sống lại họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư.
Chỉ sau khi đối diện với Chúa phục sinh, họ mới hiểu được ý nghĩa của lời Chúa: Cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại. Từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Ðể chia sẻ niềm vui phục sinh của Thày chí thánh, họ cũng đã phải trải qua những bách hại, chịu tù đầy và chịu khổ hình trên thập giá. Ðúng như lời Chúa phán: Ðày tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thày, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy ý niệm thần học tín lí: sống lại từ cõi chết cũng đã được áp dụng cho các tông đồ. Các vị tử đạo trong đó có 117 vị anh hùng tử đạo Việt nam, cũng đã phải hiểu được ý niệm từ cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử, chứ không phải khơi khơi mà dám xông ra pháp trường.
Ðối với người tín hữu, từ cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống người, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta cũng được sống lại từ cõi chết. Tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa.
Thế rồi từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại nhỏ bé, không phải như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu, ta sẽ được vươn lên thượng giới.
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công bình của Chúa.
Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
2022
ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA
18.2 Thứ Sáu trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Gc 2:14-24,26; Tv 112:1-2,3-4,5-6; Mc 8:34; Mc 9:1
ĐIỀU KIỆN ĐỂ THEO CHÚA
Bất cứ ai muốn thành công về một lãnh vực nào đều phải trải qua một giai đoạn gọi là “thử thách”để tiến tới mục tiêu của mình. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi mỗi người lên đường, bước theo Đức Ki-tô, vì Ngài là hạnh phúc đích thực dẫn đưa chúng ta tới Nước Thiên Chúa. Vậy, làm thế nào để có thể thành công trong việc đi theo Ngài? Tin mừng thánh Mac-cô thuật lại: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(c.34).
Nói đến từ bỏ, dù chỉ là một thói quen không tốt nho nhỏ, cũng không mấy ai ưa thích. Vì nói đến“từ bỏ”là đụng chạm đến “hy sinh”, mà hy sinh thì phải chịu đau đớn, thiệt thòi, mất mát…. Cũng như nói đến “tình yêu”thì đụng đến “tự do”, mà muốn được tự do thì phải dấn thân, mạo hiểm… Chính sự mạo hiểm này nói lên sự bấp bênh trong chọn lựa của chúng ta, nhưng càng bấp bênh bao nhiều thì sự hy sinh và từ bỏ chính mình càng cao quý bấy nhiêu, nhất là khi chúng ta “từ bỏ chính mình” cho một lý tưởng, một tình yêu nào đó hoặc cho một Ai đó rất đặc biệt, rất quan trọng trong cuộc đời của chúng ta. Chúa đã từng nói:“Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”là vậy (x.Mc 8,35).
Tuy nhiên, từ bỏ chính mình để theo Đức Giêsu không phải chỉ quyết tâm một lần là đủ, mà là một thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong từng phút giây của cuộc sống.
Như thế, việc “từ bỏ chính mình”vì Chúa, thì chúng ta chẳng thua lỗ tí nào. Trái lại, chúng ta từ bỏ cái mau qua để có được sự sống vĩnh hằng; từ khước cái tương đối để được cái Tuyệt Đối là chính Đức Kitô; và từ bỏ cái thân xác tội lỗi để có được sự sống đời đời.
Đối với các tín hữu Do Thái ngày xưa, thập giá chính là án tử hình nặng nhất, nhục nhã và khủng khiếp nhất của luật hình La mã. Những tín hữu đã bị bắt bớ và lãnh án xử tử thập giá, thì quả là một chuyện khủng khiếp đối với họ. Vậy mà Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta vác cái ô nhục đó để đi theo Ngài!
Lời mời gọi của Chúa Giêsu xem ra là một nghịch lý cho cuộc đời, nhưng đối với Thiên Chúa, đó không phải là một ô nhục hay là sự điên rồ mà họ lầm tưởng; trái lại, đó là một dấu chỉ chiến thắng của tình yêu mà chính Đức Kitô đã đón nhận đau khổ trên thập giá bằng một giá rất đắt, một thái độ vâng phục và phó thác cho thánh ý Chúa Cha để trở nên máng chuyển thông ơn cứu độ cho loài người chúng ta.
Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta như thế. Khi bị thử thách, tâm hồn chúng ta cũng đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.
Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình yêu.
Vì vậy, khi nhìn lên cây thánh giá có Chúa Giêsu hiện diện, nhắc nhở chúng ta ý nghĩa của sự đau khổ mà Chúa Giêsu đã chịu để chúng ta được tham dự vào mầu nhiệm cứu độ và phục sinh vinh quang của Người. Ước gì tình yêu thập giá chiếu sáng những ai muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu vác lấy mà đi theo Người.
2022
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ
17/2 Thứ Năm trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Gc 2:1-9; Tv 34:2-3,4-5,6-7; Mc 8:27-33
THẦY LÀ ĐẤNG KITÔ
Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ và rao giảng nhiều điều mới mẻ so với các Rabbi Do thái. Dân chúng đã bắt đầu bàn tán về con người và sứ mệnh của Ngài: người thì bảo là Gioan Tẩy giả đã sống lại, kẻ thì cho là Êlia hay một Tiên tri nào đó. Riêng Chúa Giêsu vẫn tiếp tục giữ thinh lặng về con người và sứ mệnh của Ngài: cứ sau mỗi phép lạ, Ngài thường bảo kẻ được thi ân giữ kín tông tích của Ngài.
Nhưng đã đến lúc Chúa Giêsu muốn phá vỡ sự thinh lặng ấy, Ngài đặt câu hỏi một cách rõ ràng với các môn đệ. Câu trả lời của các ông vừa là phản ánh dư luận của đám đông, vừa là trắc nghiệm về chính lòng tin của họ. Lời đáp của Phêrô quả là một lời tuyên xưng: “Ngài là Ðức Kitô”, nghĩa là Ðấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng dân tộc.
Dĩ nhiên, trong cái nhìn của Phêrô và phù hợp với giấc mơ của ông, thì Ðức Kitô mà các ông mong đợi là Ðấng sẽ dùng quyền năng của mình để đánh đuổi ngoại xâm và biến đất nước thành một vương quốc cường thịnh. Chính vì thế, khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn Ngài phải trải qua, Phêrô đã can gián Ngài.
Tuyên xưng một Ðức Kitô Cứu Thế, nhưng không chấp nhận con đường Thập giá của Ngài, Chúa Giêsu gọi đó là thái độ của Satan. Ba cám dỗ của Satan đối với Chúa Giêsu đều qui về một mối là hãy khước từ con đường Thập giá; vì thế, khi Phêrô vừa can gián Ngài từ bỏ ý định cứu rỗi bằng con đường Thập giá, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô là Satan.
Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập gía mỗi ngày mà theo Ta”. Cuộc sống hàng ngày, nhất là trong những hoàn cảnh hiện tại, hơn bao giờ hết là một lời mời gọi tham dự vào cuộc khổ nạn của Ngài. Chúa Giêsu không bảo chúng ta đi tìm Thập giá, nếu không, đạo Kitô chỉ là một thứ tôn giáo bệnh hoạn, trong đó con người tự đày ảy mình; nhưng Ngài bảo chúng ta vác lấy thập giá mình. Mỗi người một thập giá, mỗi ngày một thập giá, Thiên Chúa không bao giờ đặt một thập giá nặng hơn đôi vai chúng ta.
Câu trả lời của Phêrô về vị thế của Đức Giêsu rất chuẩn mực, khác xa với những nhận định của người Do thái đương thời. Thế nhưng làm sao Phêrô lại có được một cảm nhận sâu xa về vị thế của Đức Giêsu nếu không bởi ân ban từ trời.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng thường dễ dàng nhận định về người khác theo nhãn quan tự nhiên, dựa vào những khả năng, uy tín, địa vị, bằng cấp. Nhưng có lẽ nhiều khi nhận định của con người lại rất khác xa với thực tại sâu thẳm của nhân vật ấy.
Phêrô đã mau mắn nhận định Chúa Giêsu là Đấng Kitô theo ơn soi sáng của trời cao là một bài học đáng giá cho mỗi người chúng ta. Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta hãy nhìn người khác bằng ánh mắt yêu thương, nhân từ, cảm thông, tin tưởng như chính Ngài nhìn họ. Chỉ khi nào chúng ta biết nhìn tha nhân bằng cái nhìn bao dung quảng đại ấy, chúng ta mới có thể nhận ra họ là ai, và nhất là nhận ra Thiên Chúa đang ẩn mình trong tất cả những người chúng ta gặp gỡ trên hành trình cuộc sống. Chúng ta hãy khẩn nài Thiên Chúa ban cho chúng ta một cái nhìn như thế khi đứng trước một người anh em đồng loại, dù họ có là ai đi nữa.
Đức Kitô mà Phêrô vừa tuyên xưng lại là Đức Kitô không như mọi người khát vọng, và ngay cả chính Phêrô cũng lầm lẫn về Ngài như thế. Thật vậy, sau lời tuyên xưng thật xác quyết: “Thầy là Đấng Kitô”, Phêrô đã phải vô cùng ngạc nhiên và bắt đầu trách Ngài. Lời trách cứ của Phêrô đã làm Chúa Giêsu phải nặng lời với ông : “Xa tan, lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (c.33).
Ở đây Chúa Giêsu đã phân định cho chúng ta thấy rõ ranh giới giữa tư tưởng cao siêu của Thiên Chúa và tư tưởng thấp hèn của con người đầy giới hạn. Chúng ta thường suy nghĩ, nhận định về con người hay sự kiện theo nhãn quan rất tự nhiên, nên sai lầm là chuyện thường tình của con người. Điều quan trọng là làm sao chúng ta đủ khiêm tốn để nhận ra những giới hạn của bản thân để cậy nhờ vào ơn Chúa soi sáng trong mọi tình huống của cuộc sống.
Người Do thái và cả thánh Phêrô chỉ biết nhìn về Đấng Kitô sẽ là Vua bách chiến bách thắng giải thoát dân khỏi ách nô lệ của ngoại bang, và lên ngôi thống trị đầy vinh quang danh dự. Họ luôn khát mong một Đấng Kitô như thế. Nhưng tất cả chỉ là nghĩ suy của con người, không phải của Thiên Chúa. Đấng Kitô của Thiên Chúa đích thực là Đấng phải kinh qua nhiều đau khổ, tủi nhục, bị giết chết, rồi sẽ sống lại (x.c.31).
Phêrô đã không thể chấp nhận sự thật ấy, nên đã bị Chúa khiển trách. Khi đứng trước cuộc khổ nạn của Chúa, ông vẫn còn nghi ngờ, ái ngại, rồi chối Chúa những ba lần. Nhưng sau ánh nhìn yêu thương tha thứ của Chúa, ông đã hối hận sâu sa suốt cuộc đời. Để rồi sau biến cố Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã biến đổi ông hoàn toàn để từ đó, ông hăng say loan báo về một Đấng Kitô đích thực của Thiên Chúa, và đã dùng chính cái chết của mình để chứng minh tình yêu và niềm tin vào Đấng Kitô. Bài học của Phêrô thật cụ thể và sống động cho mỗi chúng ta hôm nay trong môi trường đầy nhiễu nhương và phức tạp này.
Để có được cái nhìn chân thực nhất về Thiên Chúa và thánh ý Ngài, chúng ta cần có ơn Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn. Nhưng chỉ trong sự thinh lặng sâu xa của nội tâm, chúng ta mới có thể nhận ra tiếng nói của Ngài. Thế nên, chúng ta cần đẩy xa khỏi tấm lòng những ồn ào náo động của đam mê, thú vui, hưởng thụ với bao toan tính của trần thế, để dễ dàng nhận ra tiếng Ngài.
Đấng Kitô phải kinh qua đau khổ, sự chết mới bước vào vinh quang. Cuộc sống hôm nay của mỗi người chúng ta cũng đầy dẫy bao thương đau khổ sầu, với nhiều thử thách trăm bề. Tất cả đều là những cơ hội để chúng ta bước theo lối đường thương đau của chính Ngài, Đấng đã đi trước và luôn đồng hành với chúng ta. Ý thức giá trị cứu độ cao quý từ những đau khổ trong cuộc sống, chúng ta sẽ dễ dàng đón nhận tất cả với niềm tin yêu phó thác vào tình thương cứu độ của Đức Kitô. Chỉ trong niềm tin vào Thiên Chúa, vào thập giá Đức Kitô, những đau khổ đời này mới được đóng ấn một ý nghĩa và giá trị cao quý, là cửa ngõ đưa chúng ta vào vương quốc yêu thương Nước Trời, nơi Đức Kitô thật sự là Vua muôn vua, Chúa các chúa.
Phêrô và các môn đệ chỉ hiểu được sứ mệnh của Chúa Giêsu, khi Ngài từ trong cõi chết sống lại. Ðấng Kitô là một danh hiệu gắn liền với Thập giá. Mang danh hiệu Kitô, tuyên xưng Chúa Kitô, cũng có nghĩa là chấp nhận đi theo con đường của Ngài, Phêrô và các môn đệ đã sống đến tận cùng lời tuyên xưng của mình; tất cả đều lặp lại cái chết khổ hình của Chúa Kitô.
Xin cho những tâm hồn chưa nhận biết Chúa là Vua đích thực của cuộc đời, được lắng nghe, hiểu biết và cảm nhận sâu xa về tình thương cứu độ của Chúa, qua đời sống chứng tá đầy yêu thương và phục vụ, biết can đảm vui tươi đón nhận mọi đau khổ thử thách Chúa gởi đến trong cuộc đời chúng con.
2022
Ðôi mắt đức tin
16/2 Thứ Tư trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Gc 1:19-27; Tv 15:2-3,3-4,5; Mc 8:22-26
Ðôi mắt đức tin
Tin Mừng theo thánh Marcô mà chúng ta lắng nghe hôm nay, thuật lại việc Chúa Giêsu cho một người mù được thấy. Ðặt câu truyện này vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Marcô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ của Chúa Giêsu. Chữa lành cho người mù, Chúa Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.
Trước tiên, Chúa Giêsu cầm tay người mù và dẫn anh ra khỏi làng, như muốn tránh sự ồn ào của dân chúng, trong khi Chúa đang cần sống im lặng để giáo huấn các tông đồ, và đó cũng là lý do Chúa bảo anh ta sau khi được khỏi hãy đi thẳng về nhà chứ đừng vào làng nữa. Đồng thời, việc đó cũng muốn nói lên rằng người ta có được đức tin là do sự gặp gỡ riêng tư cá nhân với Chúa.
Tiếp theo, Chúa Giêsu đã dùng nước miếng xoa lên mắt người mù. Nước miếng theo quan niệm người xưa, có thể là vị thuốc để trị về mắt và những phần khác của cơ thể (Mc 7,33; 8,23). Vì thế, việc Chúa Giêsu dùng nước miếng xoa vào mắt không phải là thứ dị đoan, nhưng mang ý nghĩa tượng trưng mà qua đó Chúa muốn tăng cường lòng tin còn thiếu nơi anh mù.
Cuối cùng, khi Chúa đặt tay vào mắt anh ta, người mù được thấy dần dần. Chúa hỏi anh: “Con có thấy gì không?” Anh nhìn lên trả lời: “Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi” Chúa lại đặt tay lên mắt người mù lần thứ hai và anh được khỏi hẳn: mắt sáng và nhìn rõ mọi vật.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng được đặt sau cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái, cũng như sự kém lòng tin của các môn đệ, và trước lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Thánh Máccô muốn cho chúng ta thấy rằng ơn sáng mắt đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng của họ, nên đã khước từ Chúa Giêsu, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Vì thế, phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho người mù hôm nay vừa bày tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.
Cũng vậy, con người sinh ra đã mang sẵn trong mình bệnh mù tâm linh. Qua phép rửa tội, chúng ta đã nhận được ánh sáng của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục bước đi giữa ánh sáng và bóng tối, nên có thể bị quáng gà, cận thị, viễn thị trong phạm vi siêu nhiên, bởi tham sân si, bởi tiền của, chức quyền, danh vọng, cùng với sự tự cao, tự đại của mình. Vì thế, nơi trần gian này chúng ta hiểu chân lý của Chúa mới như là nhìn vào gương, nhưng trên trời chúng ta sẽ đối diện với Chúa và lúc bấy giờ sẽ thấy rõ.
Chấp nhận một Thiên Chúa quyền năng, oai phong mạnh mẽ thì dễ nhưng để nhận biết một Thiên Chúa bị người ta sỉ nhục, chịu đau đớn, chịu đóng đinh thì vô cùng khó. Chỉ sau khi Đức Giêsu phục sinh, Phêrô và các môn đệ mới “tỏ tường mọi sự”. Con mắt đức tin của các ông mới hoàn toàn sáng tỏ. Các ông mới thực sự thấy ánh sáng của Thiên Chúa qua Đấng Phục Sinh, Đấng đã tự hiến mạng sống mình để cứu nhân loại.
Hơn bao giờ hết, con người thời nay cũng đang tìm kiếm một Thiên Chúa theo ý họ. Họ đòi Thiên Chúa phải làm những phép lạ, họ chỉ tin Thiên Chúa của sức mạnh, của chiến thắng, của thành công. Trước bao nhiêu thảm họa của cuộc sống, họ đặt vấn đề liệu có Thiên Chúa hay không? Tại sao Ngài cứ im lặng mãi? Còn tôi, tôi có nhận ra sự hiện diện thật sự của Thiên Chúa trong cuộc đời tôi không?
Ước gì chúng ta luôn học hỏi và suy niệm lời Chúa, để được ánh sáng của lời Chúa chiếu soi bước đường chúng ta đi, giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa bằng đôi mắt đức tin trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống. Nhờ đó, chúng ta có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc đời và luôn vững tin nơi quyền năng và tình yêu của Chúa. Amen.
Qua phép Rửa, chúng ta nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài ban cho chúng ta chính đôi mắt của quả tim để có thể nhìn thấy Ngài trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống. Ước gì chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng ta có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc sống và luôn tin vững nơi tình yêu của Chúa.