2022
HY SINH
24.2 Thứ Năm trong tuần thứ Bảy Mùa Quanh Năm
Gc 5:1-6; Tv 49:14-15,15-16,17-18,19-20; Mc 9:41-50
HY SINH
Thế gian này chỉ là chỗ tạm dung, không phải là chỗ định cư đời đời. Mục đích Thiên Chúa cho con người sống trong thế gian khoảng một thời gian là để cho con người luyện tập đức tin và tình yêu vào Thiên Chúa, trước khi cho con người về hưởng hạnh phúc muôn đời với Người trên Thiên Đàng. Nhiều người đã không nắm vững mục đích này, nên họ lấy thế gian làm chỗ định cư, và họ sống như không có nguồn cội và đích điểm. Nhiều tín hữu tuy biết đích điểm, lại không biết cách làm sao để đạt đích.
Lời Chúa Giêsu dạy trong bài Tin Mừng hôm nay: “Nếu tay ngươi làm ngươi vấp phạm, hãy chặt đi, thà cụt một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục đời đời”
Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây là tính chất quyết liệt của những lời đó, có nghĩa là phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Quả thật, sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời kỳ nào đều tồn tại những điều xấu. Đó là những lề thói những đức tính không tốt, có hại cho bản thân, cho mọi người xung quanh và cao hơn nữa cho cả cộng đoàn. Nếu những điều xấu ấy cứ tồn tại, phát triển, lây lan khó mà thay đổi được, lúc đó có thể trở thành tội. Phải ngăn chặn ngay từ đầu, nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.
Khi chúng ta chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống. Vậy khi Chúa bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải muốn hành hạ ta, mà trái lại chính Ngài yêu thương ta, Ngài muốn ta được hạnh phúc, nên Ngài dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi. Nhiều khi vì nhẹ dạ, ham vui, đã đưa đẩy chúng ta đến chỗ sống trong tội lỗi, đam mê dục vọng, để rồi sống một đời khổ sở. Chúng ta hãy chọn chấp nhận đau đớn một lần để được cuộc sống an bình, hạnh phúc.
Của cải trần gian Chúa ban cho con người hưởng dùng. Có được của cải là có được sự chúc phúc của Thiên Chúa. Nhưng có được của cải bằng cách nào đó là do cách thực hiện của con người. Có được của cải là điều quý, có được do làm ăn chân chính, lương thiện thì càng quý hơn, bởi đó là ân lộc của Chúa.
Tuy nhiên có một điều ai cũng biết, xã hội thời nào cũng có những người làm ăn bất chính, làm giàu trên xương máu, trên mồ hôi nước mắt người khác và đó chính là điều Thánh Giacôbê đang cảnh giác chúng ta.
Sự công bằng là điều quan trọng, bởi Chúa nói: “anh em sẽ không thể ra khỏi nơi giam cầm cho đến khi trả xong đồng bạc cuối cùng”. Bởi những đồng tiền bất chính ấy đã kêu thấu tới tai Chúa, và những đồng tiền bất chính ấy là bằng chứng tố cáo tội lỗi chúng ta. Bởi Chúa cứ dựa vào những gì chúng ta làm mà luận phạt.
Nếu chúng ta chỉ biết lo hưởng thụ ở đời này mà quên đi còn có hạnh phúc đời sau thì đó là một sai lầm lớn của người Kitô hữu. CGS đã cảnh tỉnh chúng ta qua dụ ngôn người phú hộ và anh Lazaro nghèo khó.
Khi một ai đó chắp nhập cắt bỏ một phần cơ thể bị hư hoại, để mong giữ lại được cả mạng sống, chúng ta chẳng ngạc nhiên mấy. Tuy việc cắt bỏ luôn đi kèm với đau đớn và mất mát, nhưng người ta vẫn cảm thất vui vì mình còn sống.
Để có được Nước Trời, Đức Giêsu muốn chúng ta phải dứt khoát với tội lỗi. Sự dứt khoát đó được thể hiện qua việc dám chấp nhận mất tay, mất chân nếu chúng là những cớ làm chúng ta vấp phạm. Dẫu biết rằng, tay chân là những bộ phận cần thiết cho hoạt động của con người, nhưng giá trị Nước Trời còn lớn hơn nhiều.
Ai trong chúng ta cũng muốn được phần thưởng là sự sống vĩnh hằng, là Nước Thiên Chúa. Để được phần thưởng vô giá này, chúng ta phải chấp nhận cắt đứt những gì đang làm hủy hoại đời sống chúng ta.
Thế giới hôm nay tràn ngập những người chạy theo vật chất: tiền của, danh vọng là giá trị lớn nhất; mục đích cuộc đời là hưởng thụ, khoái lạc. Đối với họ, Thượng Đế quá mơ hồ; Nước Trời và sự thưởng phạt đời sau quá xa vời. Họ quên rằng một ngày nào đó, họ sẽ phải chết! Hoặc họ cố quên đi điều đó để tận hưởng cuộc đời phù du ngắn ngủi. Lời Chúa hôm nay vạch cho chúng ta một thang giá trị khác: Nước Trời quý giá đến độ đáng cho ta hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để đạt được. Thánh Phao-lô cũng quả quyết: Một chút gian nan nhẹ tênh trong hiện tại sánh sao được với vinh quang bất diệt mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho những kẻ yêu mến Người. Trong lịch sử Giáo Hội, biết bao người đã dám hy sinh cả mạng sống để chiếm hữu được Nước Trời.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, Ngài không chỉ hy sinh một phần nào thôi, mà là dâng hiến toàn thân Ngài. Mỗi ngày trong Thánh Lễ, chúng ta cử hành việc hy hiến của Chúa Giêsu, chúng ta hãy xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta cũng biết trao ban chính mình để làm vinh danh Chúa và đem lại hạnh phúc cho đồng loại.
2022
HIỆU ỨNG GIÊSU
23.4 Thứ Tư
Thánh Polycarp, Gmtđ
Gc 4:13-17; Tv 49:14-15,15-16,17-18,19-20; Mc 9:38-40
HIỆU ỨNG GIÊSU
Là môn đê của Thánh Gioan Tông Đồ và là bạn của Thánh Ignatiô ở Antioch, Thánh Polycarp, Giám Mục của Smyrna (bây giờ là Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ), là một vị lãnh đạo đáng kính của Kitô Giáo trong tiền bán thế kỷ thứ hai.
Tuy nhiên các vị lãnh đạo Giáo Hội thuộc thế hệ thứ hai đã gặp những thử thách mà thế hệ trước không đề cập đến. Họ phải làm gì khi thế hệ chứng nhân thứ nhất ấy không còn nữa? Lời dạy dỗ xác thực của Chúa Giêsu phải truyền lại như thế nào? Phải trả lời thế nào với các câu hỏi chưa từng có?
Khi các tông đồ không còn ở trần gian nữa, các lạc thuyết bắt đầu xuất hiện ngụy trang chính giáo, sự bách hại lại mạnh mẽ và bắt đầu xuất hiện các tranh chấp về vấn đề phụng vụ.
Polycarp, một người thánh thiện và là giám mục của Smyrna, chỉ thấy có một câu trả lời – trung thành với đời sống Đức Giêsu và bắt chước đời sống ấy. Thánh Ignatiô nói với Thánh Polycarp “linh đạo của anh đặt nền móng nơi Thiên Chúa như trên một tảng đá không thể nào lay chuyển nổi.”
Khi đối diện với lạc giáo, Thánh Polycarp có “bộ mặt bộc trực” đến nỗi Thánh Ignatiô phải thán phục, vì ngài đã bắt chước cách Đức Giêsu trả lời người Pharisêu. Marcion, người lãnh đạo lạc thuyết nhị nguyên, khi đối chất với Đức Polycarp đã yêu cầu ngài thừa nhận họ, “Polycarp, hãy thừa nhận chúng tôi.” Đức Polycarp trả lời, “Tôi thừa nhận ngài, phải, tôi thừa nhận ngài là đứa con của Satan.”
Thánh Polycarp đối diện với sự bách hại cũng như Đức Kitô đã làm. Chính giáo đoàn của ngài phải thán phục ngài vì đã theo sát “gương phúc âm” – không tìm cách để tử đạo như một số người đã làm, nhưng trốn tránh sự bách hại cho đến khi thánh ý Chúa được thể hiện như Đức Giêsu Kitô đã làm. Họ coi đó là “một dấu chỉ tình yêu nói lên sự khao khát không muốn chỉ cứu chuộc có một mình, nhưng còn cứu chuộc tất cả anh chị em Kitô Hữu.”
Trong thời kỳ đẫm máu tử đạo Kitô Hữu trong đấu trường, dân chúng trở nên điên cuồng đòi phải tìm bắt Thánh Polycarp, vì ngài nổi tiếng thánh thiện. Ngài thật điềm tĩnh nhưng giáo dân thúc giục ngài đi trốn trong nông trại gần thành phố. Quân lính tìm ra ngài sau khi tra khảo hai đứa bé. Ngài thết đãi họ ăn và xin họ để ngài cầu nguyện trước khi điệu về đấu trường.
Thấy đức tin vững vàng không lay chuyển của Thánh Polycarp, quan thống đốc ra lệnh thiêu sống, và khi quân lính châm lửa, nhiều người chứng kể lại họ được nhìn thấy một phép lạ. Lửa cháy thành một vòng cung chung quanh thánh nhân, bao bọc ngài như các cánh buồm, và thay vì bị đốt cháy, ngài lại rực sáng như vàng đang chảy trong lò lửa. Khi quân lính thấy ngài không hề hấn gì, chúng đã lấy dao đâm ngài. Máu ngài chảy ra đã dập tắt ngọn lửa.
Quan thống đốc ra lệnh đốt xác thánh nhân mà không để giáo dân lấy xác, vì ông sợ họ sẽ thờ Thánh Polycarp mà không thờ tà thần của người Rôma. “Chứng từ” tử đạo của Thánh Polycarp là chứng từ được ghi nhận một cách xác thực về sự tử đạo của người tín hữu Kitô ngay từ thuở ban đầu. Ngài chết vào khoảng năm 156.
Trong nhiều lá thư của Thánh Polycarp, chỉ còn một lá ngài viết cho Giáo Hội Philippi, Macedonia là còn giữ được cho đến ngày nay.
Trong hành trình đào luyện các tông đồ, Đức Giêsu đã từng bước thổi vào nhóm mười hai một hiệu ứng tinh thần Giêsu, khi Ngài nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”
Quả vậy, trẻ thơ đại diện cho thành phần thấp kém trong xã hội thời đó, bởi chúng không thể giúp được ai thăng tiến trong sự nghiệp hoặc tăng thêm uy tín, chúng là thành phần suốt ngày phải để mắt trông coi kẻo gây phiền phức. Thế nhưng khi làm với hiệu ứng Giêsu, thì hiệu ứng được nhân lên theo cấp số nhân vì “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”
Trang Tin mừng lại tiếp tục triển khai ý tưởng hiệu ứng Giêsu, khi thánh sử Marcô đã khéo léo đặt câu truyện tông đồ Gioan thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.”
Chúa Giêsu đã không khen Gioan, trái lại, theo logic của hiệu ứng Ngài đã nói: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy.”
Ngài đang cổ võ cho hiệu ứng Giêsu được nhân ra. Nhân danh Đức Giêsu không để trục lợi, nhưng để nhân rộng trái tim và đôi tay Đức Giêsu hiển nhiên đó là điều Đức Giêsu mong muốn.
Trong chuyến tông du Sri Lanka và Philippines của đức thánh cha phanxicô, từ 15-19/01/2015. Đức Hồng Y Antonio Gokim Tagle – TGM Manila dành cho Đức Thánh Cha Phanxicô, bài diễn văn từ biệt đầy cảm hứng khi ngài nói: “Ngày mai ĐTC sẽ ra đi. Mọi người Phi Luật Tân cũng muốn đi theo ĐTC – không phải đến Rome – nhưng là đến những vùng ngoại vi, đến những khu ổ chuột, những nhà tù, bệnh viện, đến tới thế giới chính trị, tài chính, nghệ thuật, khoa học, văn hóa, giáo dục và truyền thông xã hội. Chúng con sẽ đi đến thế giới để mang tới ánh sáng của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là trung tâm của chuyến thăm mục vụ của ĐTC và là nền tảng của Giáo Hội. Chúng Con sẽ đi tới những nơi mà ánh sáng của Chúa Giê-su đang cần thiết ở đó. Vâng Hiệu ứng Giêsu; Hiệu ứng Phanxicô, đang được nhân ra nơi mỗi người kitô hữu.
Hẳn ta còn nhớ thánh Giacôbê ngỏ lời với những người có lối sống tìm kiếm của cải vật chất hơn là Nước Trời, cách riêng, ngài sẽ nói cho các nhà doanh thương từ thời lưu đày ở Babylon, một số người Do Thái đã trở nên những nhà doanh thương quốc tế chuyên nghiệp: “Bây giờ, hãy nghe tôi, những kẻ nói: Hôm nay hoặc ngày mai, chúng ta sẽ đi đến thành nọ thành kia sẽ ở lại đó một năm và buôn bán kiếm lời”. Thánh Giacôbê không lên án nghề nghiệp của họ, nhưng ngài mang đến cho những Kitô hữu, một soi chiếu đức tin trong nghề nghiệp của họ. Qua sự kiểm điểm đời sống cho các thương gia, thánh nhân mời gọi mọi Kitô hữu phải suy nghĩ về cuộc sống nghề nghiệp của mình. Ngài kết luật: “Vậy kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”. Điều này có nghĩa là, nếu chúng ta không sống hiệu ứng Giêsu, chúng ta sẽ trả lời trước mặt Chúa.
Chiều hôm ấy trong bầu không khí ấm cúng của gia đình và bạn bè thân thích, viên sĩ quan trẻ tuổi tài ba người Pháp Charle de Foucauld đang thao thao kể lại nhũng điều mắt thấy tai nghe và những chiến công của mình trong cuộc viễn chinh tại Maroc, Bắc Phi: Nào là những trận đưng độ, nào là những cuộc thám hiểm.
Đang lúc Charle say sưa kể như thế, thì một đứa cháu gái nhỏ lân la đến bên. Cô bé đặt tay lên gối của ông cậu hào hoa phong nhã, rất thông minh, hỏi:
– Cậu ơi cậu đã làm được biết bao nhiêu là chuyện như thế cho đất nước, thế nhưng cậu đã làm được việc gì cho Chúa chưa?
Câu hỏi ngây thơ, nhưng thâm thúy của cô gái đã khiến cho viên sĩ quan trẽ tuổi kia giật mình suy nghĩ.
Câu hỏi của đứa cháu gái đã làm cho Charle suy nghĩ cả một buổi chiều và một đêm. Sáng hôm sau, Charle đến gặp một người bạn học cùng lớp là cha Huvelin, chàng xin xưng tội. Với ơn soi sáng, Charle đã quyết định thay đổi cuộc đời. Chàng nhất định bỏ binh nghiệp, dù chàng thấy rõ một tương lai rạng ngời ở trước mặt, để dấn bước theo Chúa Giêsu và noi gương Ngài sống cuộc đời khó nghèo.
Hiệu ứng Giêsu nơi công việc, nơi ngóc ngách của xã hội, đó là mong muốn của Chúa Giêsu.
2022
Phêrô, con người trong sáng
22.2 Thứ Ba Toà Thánh Phêrô, Tông Đồ
Gc 4:1-10; Tv 55:7-8,9-10,10-11,23; Mc 9:30-37
Phêrô, con người trong sáng
Ngày lễ lập tông tòa thánh Phêrô là lời mời gọi toàn thể dân Chúa trên hoàn vũ hãy cầu nguyện thật nhiều, cầu nguyện liên lỉ cho vị Cha chung của Giáo Hội, trước một trọng trách nặng nề mà Chúa và Giáo Hội trao phó cho Ngài. Trước muôn vàn thách đố của một thế giới luôn luôn biến chuyển, Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với muôn vàn khó khăn của Hội Thánh, của thế giới. Chính vì vậy, Ngài cần có đầy đủ ơn Chúa và sự soi sáng, khôn ngoan của Chúa Thánh Thầnh để Ngài chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Chúa.
Ngai Tòa Thánh Phêrô trước tiên nhắc nhớ đến sứ vụ Đức Giêsu trao phó cho Simon-Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32). Mặc cho thử thách mà đức tin các Tông Đồ phải chịu (Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo), đức tin của thánh Phêrô giữ vai trò nền tảng trong Hội thánh tiên khởi. Thánh Phaolô xác nhận Chúa Giêsu đã hiện ra với Céphas (Phêrô), sau đó cho nhóm Mười Hai (1 Cr 15,5); cũng thế, Phúc Âm thánh Luca xác nhận trong câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmaus: “Nhóm Mười Một và các bạn hữu nói với họ: Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34)
Phụng Vụ nhấn mạnh việc “đức tin của thánh Tông Đồ Phêrô”
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Phaolô là nhà luân lý như trong thư Ngài viết, vì Ngài là biệt phái trung thành. Còn Phêrô trong các bài diễn văn như Luca kể lại, Ngài chỉ nói về Đức Giê-su và về Đức Giê-su Phục Sinh.
Phaolô trong những thư Ngài viết, dù bị chi phối về những bài giảng mà Ngài nghe, Ngài vẫn có những trực giác do ân sủng Ngài lãnh nhận.
Nhưng Phêrô còn những hung hăng, mãnh liệt lại bước nhịp nhàng theo chân Đức Ki-tô, Phêrô một con người trong sáng về đức tin. Bài diễn văn của Ngài đầy vẻ an bình. Theo gương Thầy chí thánh, Ngài không pha loãng chân lý bằng những lời nồng nhiệt bốc khói. Nhưng cũng như Thầy, trái tim Ngài cởi mở đón tiếp tất cả. Đức Giê-su rao giảng Chúa Cha cho người Do Thái. Phêrô cũng rao giảng cho người Do Thái về Đức Giê-su Đấng thiên sai cứu thế, Đấng tế lễ và ngôn sứ, Đấng con Thiên Chúa. Và sứ điệp Ngài cũng nói cho chư dân đã được Ngài gặp gỡ và làm cho trở lại đạo trước Phaolô.
Ngài là lời, là mục tử, là đá góc tường, là vị kế nghiệp của Đức Ki-tô .
Còn nhớ đến biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. “… Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần” (Cv 2:4a) và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho.
Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: “… Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em” (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần — trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành.
Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô Hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với Dân Ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: “… Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai… Các ông ấy không đi đúng với chân lý của phúc âm…” (Gl 2:11b, 14a).
Thánh Phêrô đã được Chúa trao cho chìa khóa Nước Trời, có nghĩa là thánh nhân sẽ được tham dự vào quyền bính của Chúa. Chính vì thế, thánh Phêrô cũng như các vị kế nhiệm sẽ đại diện Chúa ở trần gian với quyền giáo huấn, quyền thánh hóa và quyền quản trị để phục vụ Dân Chúa. Do vậy, khi người tín hữu không vâng nghe Đấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là không vâng nghe Đức Giêsu.
Điều này cũng như quyền năng của nối kết hoặc cầm buộc và của tách rời hoặc tháo cởi cũng được trao cho cộng đoàn (Mt 18, 18) và cho các môn đệ khác (Ga 20, 23). Một trong những điểm mà sách Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh nhiều nhất là sự hòa giải và tha thứ hoặc khoan dung. Nó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hơn đối với các điều hợp viên của cộng đoàn. Bắt chước thánh Phêrô, họ phải cầm buộc hoặc tháo cởi, đó là, làm theo cách để có sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, xây dựng tinh thần huynh đệ.
Chúng ta nhìn vào đức tin của thánh Phêrô, hầu rút ra bài học cho mình. Phêrô vừa biết Chúa Giêsu thì đã tin vào Ngài, trở nên một trong bốn môn đệ đầu tiên. Ông được nghe lời giảng dạy của Chúa và chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Tưởng chừng như lòng tin của ông kiên vững lắm.
Mừng Lễ hôm nay, Hội Thánh mời gọi tất cả chúng ta hướng về Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị Phêrô. Ngài là vị cha chung của Hội Thánh, có trách nhiệm chăm sóc và hướng dẫn Dân Chúa. Với tấm lòng con thảo, chúng ta hãy yêu mến, vâng lời và siêng năng cầu nguyện cho ngài.
2022
Tình thương chữa lành
21.2
Thứ Hai trong tuần thứ Bảy Mùa Quanh Năm
Gc 3:13-18; Tv 19:8,9,10,15; Mc 9:14-29
Tình thương chữa lành
Các môn đệ đã không hiểu lý do tại sao họ không trừ quỷ cho em bé này được. Chúa Giê-su trả lời ngay rằng họ thiếu đức tin. Chúa không nói họ không có đức tin nhưng vì đức tin của họ chưa đủ, còn non yếu. “Mọi sự đều có thể với người tin”.
Tin Mừng hôm nay kể lại một phép lạ chữa lành ngay sau biến cố biến hình của Chúa Giêsu trên núi cao cho ba môn đệ thân tín của Người. Có lẽ chúng ta tạm chọn đề tài cho đoạn Tin Mừng này là “ TÌNH THƯƠNG CHỮA LÀNH”, bởi vì chính Đức Giêsu – hiện thân của Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình thương, không những trong việc chữa lành thân xác đứa con, mà còn củng cố, thêm sức tâm linh cho người cha.
Hơn nữa, Người còn truyền dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng trong đời sống tông đồ, đó là CẦU NGUYỆN. Thật vậy, chỉ có cầu nguyện mới giúp con người có sự trợ giúp của Thiên Chúa trong tương quan với Ngài. Chỉ có cầu nguyện mới khiến con ngừơi nhận ra những yếu đuối bất toàn của bản thân, để chỉ trông cậy nương tựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Giáo lý Công giáo dạy chúng ta rằng: “Đức tin là ơn nhưng không mà Thiên Chúa ban cho con người. Chúng ta có thể đánh mất ơn vô giá này… Để sống, tăng triển và bền vững đến cùng trong đức tin, chúng ta phải nuôi dưỡng bằng Lời Chúa; chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa tăng thêm đức tin (Lc 17,5; Mc 9,24; đức tin phải “hành động qua đức ái” (Gl 5,6), được cưu mang bởi niềm hy vọng và được ăn rễ sâu trong đức tin của Giáo Hội” (Số 160-162).
Dù đức tin là một ân huệ của Thiên Chúa, nhưng nó cần sự cộng tác của chúng ta để lớn lên và tăng trưởng. Giống như việc tập luyện thể thao, nâng được tạ, thì cần cơ bắp phát triển. Đức tin phải được thực hành, được thử thách và được nuôi dưỡng. Nếu hài lòng với đức tin nhỏ bé mình đang có, thì ‘cơ bắp’ thiêng liêng chỉ là còi cọc. Chúng ta cần phải vun trồng cho đức tin trưởng thành và bền vững. Nuôi dưỡng bằng các sách vở thiêng liêng và cầu nguyện hằng ngày. Thường xuyên lãnh các bí tích thì mới làm cho đức tin vững mạnh được.
Trong câu đầu tiên của đoạn Tin Mừng, thánh sử kể lại quang cảnh miêu tả hành trình xuống núi của Chúa Giêsu và ba môn đệ thân tín, có thêm đám đông dân chúng, các môn đệ và một số kinh sư đang chờ tại chân núi. Tất cả mọi người đang bàn tán xôn xao, đám đông nhốn nháo chạy qua chạy lại. Vừa thấy Đức Giêsu, đám đông kinh ngạc và chạy lại chào Người. Họ kinh ngạc có lẽ vì Chúa xuất hiện ngay vào lúc “nút thắt” lên cực điểm. Các luật sĩ đang lý luận. Các môn đệ thì lúng túng, bất lực. Còn đám đông đang bấn loạn không biết cậy dựa vào ai. Sự hiện diện của Chúa Giêsu khiến họ kinh ngạc nhưng rất đỗi vui mừng.
Như kẻ sắp chìm vớ được mảnh ván, họ chạy lại đón Người. Nhìn thấy cảnh ấy, Chúa Giêsu đoán rằng đã xảy ra chuyện gì, nên Người hỏi các môn đệ “Anh em tranh luận gì với họ thế?” (16). Đến đây, sự chờ đợi và bức xúc của dân chúng như oà vỡ qua lời của một người trong đám đông lên tiếng. Ông ta chính là cha của đứa bé, nhân vật chính trong trình thuật này. Ông kể lể mọi tình trạng khốn khổ mà con ông phải chịu đựng. Ông cũng đã xin các môn đệ chữa lành và ông kết luận : họ không làm nổi (18).
Vừa nghe xong những lời ấy, Chúa Giêsu tỏ vẻ buồn rầu và kêu lên : thế hệ cứng lòng tin (19). Vì họ không tin, nên phép lạ đã không xảy ra. Chúa Giêsu truyền đem đứa bé lại gần Người. Trước tôn nhan Chúa, quỷ tỏ rõ sức mạnh và khống chế đứa bé bằng cách : lay nó thật mạnh, quật ngã xuống, làm cho lăn lộn và sùi bọt mép… Chúa Giêsu hỏi người cha về thời gian ma quỷ đã cầm tù cháu bé. Một lần nữa, ông được dịp bộc bạch tâm lòng và kể lại những tình huống bi thảm hơn như : quỷ xô vào lửa, đẩy xuống nước… và ông nài xin lòng thương xót của Chúa. Nhưng trong lời van xin ấy, ông vẫn chưa đặt trọn tin tưởng vào Chúa Giêsu “ Nếu Thày có thể làm được gì…” (22).
Trước khi Chúa Giêsu chữa trị thân xác cho đứa con, Người cũng mở đôi mắt tâm hồn cho người cha “Sao lại nói : Nếu Thày có thể? Mọi sự đều có thể đối với kẻ tin” (23). Ngay lập tức, người cha đau khổ tuyên xưng đức tin “ Tôi tin” và xin Chúa Giêsu thương xót và nâng đỡ lòng tin non yếu của ông (24). Chỉ chờ có thế, Đức Giêsu đã thực hiện một phép lạ chữa lành. Phép lạ này xuất phát từ lòng thương xót của Người, không những đối với thân xác đứa con mà cả tâm hồn của người cha nữa.
Từ câu 25 đến câu 27, chúng ta thấy thánh sử mô tả như là nguyên nhân mà Chúa Giêsu thực hiện phép lạ “khi thấy đám đông tuôn đến…”. Chúa chữa trị, xua trừ ma quỷ khi có đám đông chứng kiến. Điều này có đối nghịch với sự ẩn giấu uy quyền Thiên Chúa nơi Người hay không? Có lẽ ở đây, Chúa muốn cho dân chúng biết thời đại Mêsia đã đến. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài và Ngài đến để chiên được sống và sống dồi dào. Hơn nữa, Chúa cũng muốn củng cố niềm tin cho các môn đệ, để các ông vững tâm cùng Chúa tiến lên Giêrusalem, đi vào cuộc Vượt Qua của Chúa.
Với hai câu cuối là một bài học thiết thực trong đời sống tông đồ, mà chính Chúa đã nêu gương trong đời sống thường ngày, đó là : cần cầu nguyện. Với một người Kitô hữu, lương thực nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng là sự tương giao với Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô trong các bài gỉang, ngài luôn nhắn gửi chúng ta cần cầu nguyện không ngừng… Dù người đó là giáo dân hay tu sĩ, linh mục, dù người đó già trẻ, lớn bé, giàu sang hèn kém, cũng phải cần đến ơn trợ lực của Thiên Chúa, vì “không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” .. Phải, chỉ trong cầu nguyện chúng ta mới có tương quan kết hợp gắn bó với Chúa, mới có được sức mạnh từ Thiên Chúa để chống trả với thế gian, ma quỷ và xác thịt. Sức mạnh duy nhất của người môn đệ có được khi họ luôn đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa trong lòng tin và tình mến. Với những ai tin và yêu, người đó sẽ chiến thắng đau khổ, thử thách, ngay cả sự chết … khi họ biết dựa trên lòng thương xót và quyền năng cứu độ của Thiên Chúa.
Tin không dễ dàng chút nào. Điều đó cần luôn nhận ra các giới hạn, khả năng của mình về hiểu biết “tại sao” trong các sự kiện và “như thế nào” của nhiều thách đố. Chúa Giê-su không than phiền về những phấn đấu để tin nhưng vì chúng ta thiếu cố gắng khi đức tin bị yếu đuối, lung lay. Điều các môn đệ không làm được, người cha của đứa trẻ bệnh tật làm được nhờ lời cầu xin ngắn gọn nhưng mạnh mẽ: “Xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi !”