2022
ĐƯỢC VÀ MẤT
1.3 Thứ Ba trong tuần thứ Tám Mùa Quanh Năm
1 Pr 1:10-16; Tv 98:1,2-3,3-4; Mc 10:28-31
ĐƯỢC VÀ MẤT
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu hứa sẽ trọng thưởng cho những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Phần thưởng cao quý ấy không phải vật chất hay những gì có thể nắm giữ nhưng là được chung phần đau khổ và vinh quang cùng với Chúa. Sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sức cám dỗ của tiền bạc khiến người ta không thể vào Nước Trời, các môn đệ cảm thấy chạnh lòng vì đã bỏ gia đình vợ con để đi theo Chúa mà không biết cuộc sống tương lai sẽ ra sao, bao nhiêu công sức đổ ra sẽ nhận được gì? Các ông tỏ ra là người biết tính toán lo xa, nhưng các ông chỉ nhìn thấy những điều hữu hạn, còn Chúa Giêsu hướng đến những giá trị thiêng liêng bền vững.
Cái nhìn của loài người luôn khác xa với cái nhìn của Thiên Chúa. Loài người có cái nhìn nhỏ hẹp, còn Thiên Chúa luôn có cái nhìn quảng đại bao dung. Thiên Chúa luôn tạo cho con người nhiều cơ hội tốt, mở ra nhiều lối đi để dẫn đưa họ tới nguồn hạnh phúc đích thực.
Phần thưởng của Thiên Chúa không gì có thể so sánh được. Nhưng để đạt được phần thưởng ấy đòi hỏi các môn đệ phải có thái độ khiêm tốn. Những ai đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và những ai đứng chót sẽ được nâng lên.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cũng thường bỏ qua những điều chính yếu nhưng lại nắm giữ những cái lặt vặt phụ thuộc. Chúng ta thường tính toán với Chúa khi đi tham dự thánh lễ, khi làm việc lành phúc đức. Chúng ta giữ đạo vì thói quen hơn là vì lòng yêu mến. Chúng ta làm việc từ thiện, phục vụ người nghèo để khoe khoang đánh bóng tên mình hơn là để chia sẻ tình yêu thương.
Trước đó, Chúa Giêsu đã khẳng định với các môn đệ rằng: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao…Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10, 23.25). Điều này để nhấn mạnh thêm rằng “khó” không có nghĩa là “không thể” nhưng có nghĩa là phải cố gắng nhiều, có khi phải trả giá bằng những hy sinh. Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng, Người có thể tạo dựng mọi sự từ hư không. Vì yêu thương nên Người cho chúng ta tự do chọn lựa, Người không ép buộc nhưng ban ân sủng để chúng ta khôn ngoan sáng suốt nhận ra kế hoạch yêu thương của Người.
Có nhiều vật cản khiến chúng ta không vào được Nước Trời. Vật cản đó có thể là thói tham lam muốn có nhiều tiền, thói ươn hèn lười biếng, nhát đảm kém tin không dám trao phó cuộc đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt. Vật cản đó có thể là tội lỗi, những đam mê xác thịt kéo ghì chúng ta xuống. Có rất nhiều lý do khiến chúng ta từ chối viên ngọc Nước Trời. Biết bao cám dỗ khiến chúng ta không dám đánh đổi vận mạng của mình để có sự sống đời đời. Chúng ta thường có thái độ “bỏ hình bắt bóng”, tìm kiếm thứ hạnh phúc mau qua chóng tàn mà quên đi hạnh phúc vững bền.
Có một người đàn ông đi hành đạo. Đường đi phải qua một con sông lớn nhưng ông không có bất kỳ phương tiện nào. Sau một hồi suy nghĩ, ông quyết định đi nhặt các cành cây rồi kết lại thành một chiếc bè đơn giản. Để chiếc bè nổi trên mặt nước, ông dùng hai bàn tay làm mái chèo. Cuối cùng ông cũng qua được bờ bên kia.
Nhưng vừa bước chân lên bờ, ông băn khoăn nhìn chiếc bè và tự hỏi: – Mình đã vất vả mới làm được chiếc bè này, bỏ đi thì tiếc quá, hay là mình kéo chiếc bè theo?
Chiếc bè chỉ là phương tiện giúp người ta qua sông an toàn chứ không phải cái để nắm giữ. Nếu cứ nuối tiếc nắm giữ chiếc bè, người đàn ông trên sẽ không thể tiếp tục hành trình.
Chúa Giêsu cho chúng ta một nguyên tắc căn bản đó là: bỏ nhưng không mất, cho đi là nhận lại, muốn có sự sống thì phải chết đi cho thói tham lam ích kỷ, phải từ bỏ ý riêng của mình để chọn thi hành theo ý Chúa. Trên bước đường theo Chúa, chúng ta phải có thái độ dứt khoát, không ước mơ hão huyền nhưng phải gắn với quyết tâm và việc làm cụ thể. Một khi đã chọn Chúa thì không làm nô lệ cho tiền bạc hay bất cứ vật thể con người nào.
Trong đời sống đức tin, Chúa Giêsu muốn chúng ta trao vận mệnh tương lai của mình để cho Chúa dẫn dắt. Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta về sự từ bỏ và vâng phục khi thi hành ý muốn của Chúa Cha. Trong giây phút quyết liệt trên thập giá, Chúa Giêsu đã trao hiến và đổ đến giọt máu cuối cùng để tác sinh nhân loại trong sự sống mới. Sự vâng phục và trao hiến ấy chạm đến tận cùng bản thể của một Vị Thiên Chúa đầy lòng xót thương để dẫn đưa con người vào nguồn sống đích thực.
Nhiều lần chúng ta cũng tự hỏi như thánh Phêrô: – Tôi theo Chúa, sống đạo để được gì? Trong khi thế gian lừa lọc dối trá, tôi sống nghiêm túc thật thà ngay thẳng, chấp nhận thiệt thòi bất công để được gì? Tôi sống yêu thương bác ái để được gì trong khi những người khác chỉ ích kỷ lo cho bản thân mình.
Thật là một nghịch lý khi chúng ta giữ cặn kẽ các điều luật của Chúa mà lại sống thiếu bác ái với tha nhân. Chúng ta bằng lòng với việc giữ tỉ mỉ các điều luật ngoại trừ luật bác ái. Chúng ta sẵn sàng gân cổ bênh vực công lý nhưng lại bỏ qua những nhu cầu cần thiết của tha nhân.
Cuộc sống xã hội hôm nay còn nhiều người nghèo khổ, nhiều gia đình rơi vào cảnh bế tắc, chúng ta được mời gọi ra khỏi tháp ngà của sự yên ổn và ích kỷ để đến với tha nhân. Thiên Chúa không chỉ ở trong đền đài thành quách, nhưng Người đang bị kỳ thị chống đối nơi những vùng đất chìm trong chiến tranh khủng bố. Thiên Chúa không chỉ hiện diện nơi những đại lộ thẳng tắp tinh tươm sạch sẽ, nhưng Người đang co ro ẩn mình nơi góc phố với những người nghèo không nhà không cửa. Thiên Chúa không ở nơi lễ hội cờ hoa đình đám, nhưng Người âm thầm ẩn giấu nơi những con người khiêm tốn bé nhỏ nghèo hèn.
Ước gì mỗi kitô hữu chúng ta biết đến với Chúa và với tha nhân bằng cả con tim yêu mến, cảm nhận niềm vui sâu xa trong tâm hồn khi thi hành luật Chúa và quảng đại hiến dâng đời mình để phục vụ tha nhân. Thiên Chúa luôn dành cho chúng ta một phần thưởng cân xứng lớn hơn những gì ta cầu xin. Phần thưởng đó không phải vật chất bên ngoài nhưng là sự gắn kết gần gũi với Thiên Chúa trong niềm vui và nỗi buồn, trong khổ đau và hạnh phúc, trong thập giá và vinh quang.
2022
Lợi lãi cả thế giới mà mất linh hồn thì còn ích gì?.
Thứ Hai tuần VIII TN
Mc 10, 17-27
Lợi lãi cả thế giới mà mất linh hồn thì còn ích gì?.
Muốn được cứu độ, cần phải có ơn Chúa. Nếu chỉ cậy dựa vào sức tự nhiên và tiền của, ắt không thể được cứu rỗi. Chúa quả quyết: “Không có Ta, các con chẳng làm gì được”.
Hôm nay, có một chàng thanh niên tốt lành đến để gặp Đức Giêsu nhằm xin Ngài chỉ cho con đường dẫn đến hạnh phúc. Thấy thế, Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến và mời gọi anh đi theo mình trên con đường mà chính Ngài đang đi. Tuy nhiên, khi buộc phải để lại mọi sự cho người nghèo thì anh đã không dám và từ từ rút lui!
Như vậy, ơn cứu độ đã đến được với anh thanh niên này, nhưng anh đã để mất bởi sự tham lam, ích kỷ của mình. Anh ta đã coi tiền bạc, của cải là số một trong cuộc đời của anh, nên chính Chúa cũng không còn chỗ đứng nơi tâm hồn người thanh niên đáng thương này thì làm sao ơn cứu độ có thể đến được!
Chúa Giêsu đang mời người thanh niên này đạt được nhiều hơn những thứ mà anh ta đang sở hữu hiện tại. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã nhìn anh ta với tình yêu thương trước khi mời gọi chàng trai trẻ này đi theo Ngài một cách toàn diện và triệt để.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc yêu mến Chúa Giêsu đang bị tổn thương. Việc yêu mến Chúa bị tổn thương theo nghĩa anh ta phải hy sinh tất cả mọi thứ nếu muốn đi theo Chúa Giêsu. Hy sinh một toàn diện và triệt để. Điều này thật là khó, ít nhất là từ quan điểm thuần tuý của con người và thế gian. Nhưng tình yêu của Chúa Giê-su dành cho chàng trai này tuyệt vời đến nỗi Ngài muốn anh ta hy sinh mọi thứ để có thể có được nhiều thứ hơn.
Chúng ta cũng được mời gọi làm tương tự như vậy. Chúng ta không được mời gọi đi theo Chúa Giêsu trong cách từ bỏ tất triệt để tất cả mọi tài sản vật chất của chúng ta. Nhưng chúng ta được mời gọi đi theo Chúa Giê-su trong cùng mức độ của niềm xác tín và sự từ bỏ cho thánh ý của Chúa. Và điều này chắc chắn sẽ đòi hỏi sự hy sinh, một sự hy sinh cao cả lớn lao.
Điểm mấu chốt ở đây là chúng ta phản ứng thế nào đối với lời mời gọi của Chúa Giêsu để làm môn đệ của Chúa? Làm thế nào chúng ta đáp lại lời mời gọi này để dâng hiến chính mình một cách trọn vẹn. Người thanh niên giàu có này lúc đầu đã phản ứng với sự buồn rầu. Anh ta đã không chấp nhận lời yêu cầu của Chúa Giê-su. Chúng ta không biết liệu cuối cùng anh ta có theo Chúa Giê-su một cách hoàn toàn không, nhưng chúng ta đã biết rõ phản ứng đầu tiên của anh ta.
Thông thường đây cũng là phản ứng đầu tiên của chúng ta. Chúng ta muốn trung thành và đi theo Chúa Kitô bất kể yêu cầu gì mà Ngài đưa ra. Nhưng khi Chúa đưa ra cho chúng ta một lời mời cụ thể thì chúng ta lại quay đi trong sự buồn bã và cảm thấy điều này quá khắt khe.
Quả thật: “Đồng tiền đi liền khúc ruột”. Có thể nói: “Tiền đã thắng tình”. Lòng ham mê của cải đã thắng tình yêu dành cho Chúa và tha nhân. Lòng tham đã bóp nghẹt con tim.
Tình yêu của người thanh niên chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Thánh Phaolô có nói: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Ngài cho đó là tội lỗi trong ta đã hành động, và chỉ tin vào Chúa mới giải thoát ta khỏi tình trạng ù lì đó.
Tinh yêu phát sinh sức mạnh. Thánh Augustinô quà quyết: “Cứ yêu rồi làm điều gì mình muốn”. Tình yêu sẽ thúc đẩy ta phải làm một cái gì đó cụ thể, một cái gì đó anh chị em đang thực sự mong đợi. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại làm ngơ trước nhu cầu cấp bách của anh chị em.
“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa”. Đây là kiểu nói Á Đông, diễn tả một việc rất khó. Đức Giêsu đã tông dự bữa tiệc sang trọng của người Biệt phấi giàu có. Từng ăn uống tại nhà người thu thuế lắm tiền, từng chịu ơn những người phụ nữ nhân đức nhiều của.
Vậy, Ngài chỉ lên án những ai ham mê của cải, coi đồng tiền là chúa tể, làm nô lệ cho nó, để không dám mở tay ra vđi anh chị em và quảng đại với công việc của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt bậc thang giá trị, và biết lựa chọn đúng để được hạnh phúc đời đời. Hãy cẩn trọng với vấn đề tiền bạc vì tiền bạc có thể sẽ là rào cản lớn chắn đường về trời nếu nó trở thành ông chủ.
Nếu bao lâu chúng ta vẫn còn chạy đua với đồng tiền, bất chấp mọi thủ đoạn để chiếm lĩnh, hay sống ích kỷ, dửng dưng với người nghèo khổ, thì bấy lâu lời mời gọi đánh đổi kho báu Nước Trời sẽ là lời mời gọi xa lạ với chúng ta.
Như thế, lẽ đương nhiên, chúng ta đánh mất kho tàng đích thực và trở thành người dại trước mặt Thiên Chúa vì: “Lợi lãi cả thế giới mà mất linh hồn thì còn ích gì?”.
2022
Nên như trẻ thơ
26.2
Thứ Bảy trong tuần thứ Bảy Mùa Quanh Năm
Gc 5:13-20; Tv 141:1-2,3,8; Mc 10:13-16
Nên như trẻ thơ
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Chúa Giêsu rất thương mến trẻ em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem các trẻ em đến với Ngài. Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác giả đạo đức Do Thái, Chúa Giêsu đề cao trẻ em như kiểu mẫu đón nhận Nước Trời: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào”. Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: “Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn”.
Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông : “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em . Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em thì sẽ chẳng được vào ” (Mc. 10, 13- 15)
Để được vào Nước Trời, cần phải có thái độ của trẻ nhỏ: “Ai không đón nhận Nước Trời như một trẻ nhỏ sẽ chẳng được vào”. Thái độ của trẻ nhỏ không phải là thái độ sống vô trách nhiệm và ngây thơ, nhưng là ý thức về thân phận yếu đuối bất toàn của mình , để sống ngoan ngoãn tin tưởng, vâng phục. Điều này không dễ dàng đối với những ai quen tự quyết tự trị, đến mức không chấp nhận bất cứ tiêu chuẩn bên ngoài nào.
Suốt cuộc đời Người và khi thi hành sứ vụ. Đức Giêsu Kitô đã chỉ có một sứ mệnh duy nhất là làm cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa : “Sự sống đời đời, chính là họ nhận biết Cha và Đấng Cha sai”. Và Chúa đã thực hiện tốt sứ mệnh đó bằng việc làm cũng như bằng lời nói tốt hơn nữa bằng những quan hệ giữa con người cũng như bằng những phép lạ của Người. Các Phúc âm phần lớn đều là tường thuật về những quan hệ của Chúa Giêsu với người ta. Trong mối quan hệ của Người với tha nhân, Chúa Giêsu tỏ ra hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc lập đối với dư luận quần chúng và người xung quanh. Các môn đệ thì muốn dân chúng ở xa Người, tạo nên một bức màn che chắn Người. Các ông làm như thể muốn sàng lọc những người có thể đến với Chúa Giêsu. Trước một dụng ý như thế, Chúa Giêsu bực mình, nặng lời khiển trách các ông… rồi Người gọi trẻ em đến với mình, đặt tay chúc lành cho chúng và ôm hôn chúng. Lời mời gọi nên như trẻ thơ
Chúa Giêsu không đành đón tiếp các trẻ em như đón tiếp các người thu thuế và tội lỗi, Người đi xa hơn nhiều, Người lấy chúng làm gương mẫu cho những thính giả của mình : “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”. Nên giống như trẻ em, có nghĩa là gì? Chúng ta vốn nghĩ, trẻ em chẳng có chi hoàn hảo, chẳng có chi đáng bắt chước về mọi phương diện. Ông La Bruyère đã viết một cách cay nghiệt rằng : “Trẻ em là đồ ăn cắp, nói dối, chúng đã là những người lớn đấy”. Cũng không phải là chuyện trở lại vẻ hồn nhiên trong trắng của trẻ em như trở lại vẻ tinh tuyền ban đầu của nguyên tổ khi Ơû vườn địa đường. Kinh thánh không nhìn trẻ em ở khía cạnh này. Vả lại đòi hỏi một người lớn phải khổ sở vì không còn là một đứa trẻ nữa có lẽ đó là một yêu cầu có phần nào bệnh hoạn.
Tuổi thơ đồng nghĩa với tươi mát, hồn nhiên, đơn sơ. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận Nước Thiên Chúa với những tâm tình này, nghĩa là với niềm hân hoan vui sướng như được một cái mới, không tính toán, không hậu ý, nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng mình tùy thuộc vào Chúa và liên quan tùy thuộc đối với người khác. Tuy nhiên trong bất cứ trường hợp nào, ta không được là con người ấu trĩ và từ chối làm cho chính ta điều gì có thể làm được. Bởi lẽ, tinh thần thơ ấu mà Chúa Giêsu đề nghị không phải là một sự “nhõng nhẽo”, ươn lười, nhưng là một tâm hồn rộng mở đón nhận lời Chúa với tinh thần đơn sơ vậy.
Nước trời hay sự sống vĩnh cửu chỉ được ban cho những ai biết tin cậy vào Thiên Chúa, và đơn sơ thi hành những gì Ngài chỉ dạy. Đây là công việc cam go, mà tự sức riêng, chúng ta không thể làm được. Để có được tâm hồn đơn sơ của trẻ nhỏ, để có được thái độ tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, chúng ta cần phải có tác động của Thánh Thần. Chính Thánh thần sẽ soi sáng cho ta nhận ra thánh ý Chúa một cách quảng đại.
Trở nên trẻ nhỏ không có nghĩa là sống ngây ngô, vô tâm nhưng là có một tâm hồn đơn sơ, phó thác ; mỗi người đứng trước mặt Thiên Chúa phải tự nhận mình là hèn yếu, thiếu thốn, như thái độ của con cái hoàn toàn cậy dựa vào cha mẹ mà thôi.
Theo gương thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chúng ta hãy nên thánh bằng con đường thơ ấu thiêng liêng, làm tất cả vì lòng mến Chúa và chỉ tìm đẹp lòng Ngài, nhờ đó mọi công việc của chúng ta đều có giá trị trước mặt Chúa và đem lại ơn cứu độ đời đời.
Xin Chúa cho chúng ta có thái độ đơn sơ phó thác khiêm tốn, để biết hoàn toàn cậy trông nơi Chúa, nhờ đó, chúng ta sẽ nhận được Nước Trời làm cơ nghiệp của mình.
2022
LY DỊ
25.2 Thứ sáu Gc 5:9-12; Tv 103:1-2,3-4,8-9,11-12; Mc 10:1-12
LY DỊ
Ly dị ! Ta đi tìm hiểu một chút.
Trước hết, ly di nghĩa là bỏ đàn bà đúng hơn là bỏ vợ và cưới vợ khác. Như vậy ly di là sự tan rã của một gia đình và nó làm đảo lộn nền tảng quan trọng của hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập là bất khả phân lý. Vậy tại sao nhưng người Pharisêu lại đề cập đến vấn đề này? Một đàng, đối với người Do thái hôn nhân là một nhiệm vụ thiêng liêng.
Ở độc thân sau tuổi 20 là vi phạm mệnh lệnh tích cực, là hãy sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất. Kẻ nào không có con là tiêu diệt hậu tự của mình và làm giảm đi hình ảnh của Chúa trên mặt đất. Đàng khác, vấn đề ly dị lại nằm trong luật Môsê. Như vậy, họ vừa dựa vào luật Môsê đồng thời vừa để kéo Chúa Giêsu vào cuộc tranh luận này để thử người. Đứng trước chủ đề tranh luận đầy nóng bỏng và khó khăn như thế Chúa Giêsu giải quyết thế nào?
Thứ đến, câu trả lời của Chúa Giêsu về vấn đề ly dị. Để trả lời cho chủ để này Chúa Giêsu dẫn họ trở về từ thuở ban đầu của công trình tạo dựng là: Thiên Chúa đã làm nên người nam người nữ vì thế người nam sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp loài người không được phân ly. Như thế, sự kết hợp của họ là trọn vẹn và không phá vỡ.
Nếu vậy thì ông Môsê sai lầm chăng? Chúa Giêsu cho họ biết rằng đúng là ông Môsê cho phép ly di, nhưng đó chỉ là một sự nhượng bộ so với lý tưởng đã bị đánh mất. Vì các ông lòng chai dạ đá, theo cha hoàng đắc Ánh là lòng trí chai đá trước sự thật. Tội cứng lòng không chỉ có dân Israel xưa mà ngày nay cũng không tránh khỏi. Như vậy, đứng trước cuộc tranh luận về sự ly dị mà người Phariêu nêu lên, một đàng Ngài không để mình bị rơi vào bẩy của các nhà thông luật Do thái, một đàng ngài cũng không nhượng bộ cho vấn đề ly dị. Ngài bảo vệ luật nguyên thủy bằng mọi giá: sự gì Thiên Chúa đã phối hợp loài người không được phân ly.
Là một xác nhận mạnh mẽ ý nghĩa nguyên thủy mà Thiên Chúa đã ban cho mối dây liên kết hôn nhân. Con đường Ngài mở ra mang tính cách đòi hỏi hơn các quan điểm nhân loại rất nhiều. Tại sao Ngài lại bảo vệ luật bất khả phân ly của hôn nhân? Vì hôn nhân là mối giây tình yêu liên kết hai người phối ngẫu, và tình yêu này phản chiếu tình yêu thần diệu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở: “Chồng hãy yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình đi”. Trong đời sống hôn nhân, hai người nương tựa vào nhau, bổ túc và tài bồi lẫn nhau. Thiên Chúa thấy người nam ở một mình không tốt, Ngài đã dựng nên cho nó một người nữ, rút từ cạnh sườn người nam, và người nam sẽ bỏ cha mẹ để nên một với vợ mình, đó là hình ảnh của một tình yêu kết hợp. Nhờ tình yêu kết hợp trong hôn nhân, người nam và người nữ sẵn sàng chấp nhận việc sinh dưỡng và giáo dục con cái thành những đứa con ngoan của Thiên Chúa, của Giáo Hội, của gia đình và xã hội.
Chính vì những giá trị cao đẹp của hôn nhân như thế, nên thái độ của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân thật dứt khoát. Ngài xác định lại nền tảng thánh thiêng cũng như tính cách bất khả phân ly của giây hôn phối. Ngài mạnh mẽ lên án tội dâm bôn ngoại tình, cả việc rẫy vợ nữa, trừ phi là nố gian dâm, nhưng điều đó có lẽ không nhằm biện minh cho việc ly dị, mà chỉ là đuổi người vợ bất chính, hoặc là ly thân rồi sau đó không được tái hôn nữa. Như thế, chính nhờ Chúa Giêsu, hôn nhân đã được nâng lên hàng Bí Tích và mặc một sắc thái mới phản ánh vẻ đẹp ban đầu đã bị lu mờ vì tội lỗi nhân loại.
Nếu trong tình yêu hôn nhân chấp nhận sự ly dị, thì tình yêu đó đánh mất bản chất là sự tha thứ và hiến thân. Ly dị là lìa xa chính cội nguồn, lìa xa những phúc lành mà Thiên Chúa đã ấn định. Chính Chúa Giêsu đã dang rộng cánh tay tha thứ và đón nhận những kẻ lỗi nghịch vào Hội Thánh Người.
Đề cập đến vấn đề ly di, ngày hôm nay giáo hội còn phải đương đầu với những hôn nhân bị đứt đoạn và vấn đề tái hôn. Giáo hội vẫn luốn dè dặt trong vấn đề này.
Chúa Giêsu đã dạy bảo dân chúng về đời sống hôn nhân và gia đình, đó cũng là bài học giáo lý rất căn bản nói về hai điều răn thứ 6 và thứ 9: cấm ngoại tình và không được ly dị. Ngay từ khi tạo dựng vũ trụ, muôn loài, muôn vật; Thiên Chúa cũng tạo dựng loài người có nam, có nữ và Ngài đã kết hợp hai người nam và nữ thành đôi vợ chồng đầu tiên đó là Ađam cùng với vợ của ông là bà Evà để làm nên một gia đình. Thế rồi hôn nhân này tiếp nối hôn nhân khác làm thành gia đình nhân loại. Thiên Chúa đã tạo dựng con người trong sự bình đẳng để họ yêu thương và nâng đỡ nhau trong cuộc sống.
Khi đã kết hôn, đôi vợ chồng không những phải tìm mọi cách để giữ lòng chung thuỷ trong tình yêu, mà còn phải làm cho tình yêu tươi thắm, tốt đẹp luôn mãi trong đời sống gia đình, bời vì nếu sống trong tình yêu đích thực, thì không được quyền thay đổi, mà đòi phải thật lòng trung tín với nhau. Chính vì thế, mà câu trả lời của Chúa Giêsu với những người biệt phái trong bài Tin Mừng hôm nay là: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân ly“. Điều đó cho chúng ta thấy Thiên Chúa mong muốn những ai sống ơn gọi hôn nhân và gia đình, hãy yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời.
Chúa Giêsu đã dạy bảo dân chúng về đời sống hôn nhân và gia đình, đó cũng là bài học giáo lý rất căn bản nói về hai điều răn thứ 6 và thứ 9: cấm ngoại tình và không được ly dị. Ngay từ khi tạo dựng vũ trụ, muôn loài, muôn vật; Thiên Chúa cũng tạo dựng loài người có nam, có nữ và Ngài đã kết hợp hai người nam và nữ thành đôi vợ chồng đầu tiên đó là Ađam cùng với vợ của ông là bà Evà để làm nên một gia đình. Thế rồi hôn nhân này tiếp nối hôn nhân khác làm thành gia đình nhân loại. Thiên Chúa đã tạo dựng con người trong sự bình đẳng để họ yêu thương và nâng đỡ nhau trong cuộc sống.