2022
Bài học yêu thương
22.3 Thứ ba trong tuần thứ Ba Mùa Chay
2 V 5:1-15; Tv 42:2-3; Lc 4:24-30
Bài học yêu thương
Mùa chay – mùa của tĩnh lặng và sám hối, mùa của sự trở về của những đứa con hoang đàng. Sau một thời gian đi hoang xa cách Cha, xa nhà Cha, đứa con đã cảm nghiệm, đã ngộ ra được hạnh phúc mà mình đánh mất ở bên cha, ở trong nhà cha….Bản kinh lạy Cha hôm nay Đức Giê-su dạy mỗi người chúng ta dùng để trò chuyện với Cha trên trời đã cho chúng ta cảm nghiệm hết hạnh phúc được làm con của Cha thật quá sức tưởng tượng, vượt tầm trí khôn, nhưng đồng thời là một hạnh phúc có thật dành cho chúng ta nhờ Đức Giê-su Ki-tô Đấng cứu chuộc chúng ta.
“Lạy cha chúng con Đấng ngự trên trời.” Chúng ta có cha ở trên trời, một người cha toàn năng và Ngài thể hiện sự toàn năng đó trong tình yêu. Sự toàn năng của ngài là sự toàn năng của tình yêu. Có người cha như thế, còn gì bảo đảm hơn cho chúng ta, còn gì hạnh phúc hơn cho chúng ta, có còn gì làm chúng ta sợ hãi… Xin Thiên Chúa là cha ban ơn giúp chúng con cảm nhận và lãnh hội được niềm hạnh phúc này, để chúng con thôi những bước chân đi hoang mà về bên cha, sống trong tình cha. “Lạy cha chúng con Đấng ngự trên trời” cũng có nghĩa chúng con là anh em với nhau, chúng con là hình ảnh của cha và chúng con phải giống cha mình. Bởi thế, Chúac Giêsu thật có lý khi ngài nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện như cha trên trời là Đấng hoàn thiện.”
Sống ở trên đời người ta thường đến với nhau theo quy luật “có qua có lại”, ta chỉ đối xử tốt với người có đồng quan điểm với mình, chỉ giúp đỡ những ai đem đến cho ta chút lợi lộc. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài dạy chúng ta yêu thương kẻ thù, làm ơn cho những người ghét chúng ta. Những điều chúng con không thích người khác làm cho mình thì đừng làm cho người khác.
Cách yêu thương này thật khó thực hiện bởi con người chúng ta có tính ích kỷ và yếu đuối. Làm sao yêu thương được khi người khác lăng nhục chúng ta. Làm sao đối xử tốt được với người hàng xóm keo kiệt hay gây phiền toái cho ta. Làm sao yêu thương được người đồng nghiệp lật mặt tráo trở trong hợp đồng làm ăn. Làm sao tha thứ được những đứa con hư thân bất hiếu với cha mẹ… Biết bao vấn đề, bao nhiêu con người bị loại ra khỏi mối liên hệ với chúng ta vì chúng ta chưa yêu thương đủ và chưa thực tình tha thứ cho nhau.
Câu trả lời cho tất cả những khúc mắc trên đó là hãy soi mình vào tình yêu của Chúa Giêsu để học biết hai chữ Yêu Thương. Hãy nhìn lên thập giá Chúa để có được câu trả lời trọn vẹn, nhìn vào Thánh Thể Chúa để cảm nhận được tận cùng của sự tự hiến. Tình yêu ấy giúp chúng ta vươn lên sống cao đẹp hơn, quảng đại hơn. Tình yêu ấy có khả năng hóa giải mọi hận thù, ghen ghét. Nhờ Đức Mến, Thiên Chúa đổ vào lòng chúng ta ngọn lửa tình yêu, ngọn lửa ấy thanh tẩy tâm hồn cùng những quyến luyến trần trần tục và quy hướng lòng ta về với Chúa và anh em đồng loại.
Một cách khác để hóa giải những vấn đề trắc trở của mối dây yêu thương đó là đời sống cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dạy “Hãy cầu nguyện cho những người bách hại anh em”. Cầu nguyện không phải để quên đi lỗi lầm của người khác nhưng là để đón nhận họ với tất cả sự yếu đuối và những giới hạn. Cầu nguyện là để biết mình. Đôi khi chính chúng ta cũng đang bách hại anh em một cách gián tiếp. Bách hại trong lời nói, trong thái độ khinh dể loại trừ. Bởi vì đã là người ai dám chắc chắn mình sẽ không phạm lỗi. Thế nên mỗi ngày chúng ta phải cầu nguyện để cảnh tỉnh chính mình khỏi ngã khi nghĩ mình đang đứng vững, khỏi chết khi mình vẫn đang sống.
Cầu nguyện để biết đón nhận tha nhân như món quà Chúa trao. Khi có đời sống cầu nguyện thiết thân với Chúa, chúng ta sẽ nhận ra tất cả là ân sủng của ngài, từ sự “khó thương” của người khác cho đến những chuyện thất bại trong cuộc đời chúng ta đều được an bài trong Chúa. Lúc vui lúc buồn, lúc phấn khởi hay khi chán chường thất vọng thì lời cầu nguyện của chúng ta càng trở nên tha thiết. Giữa lúc sung túc xum họp hay khi túng thiếu chia ly thì lời cầu nguyện càng giúp ta kiên trì giữ vững niềm tin. Và mục đích cuối cùng của cầu nguyện là đạt được chính Thiên Chúa. Thánh Têrêsa Avila khẳng định rằng: “Một linh hồn bền tâm cầu nguyện dù tội lỗi đến đâu, bị cám dỗ thế nào đi nữa và phạm đủ thứ tội ma quỷ xúi giục, tôi tin chắc chắn Chúa cũng dẫn họ tới Ơn Cứu Độ đời đời”
Tin Mừng hôm nay Chúa dạy chúng ta phải tha thứ luôn mãi. Thiên Chúa là người Cha nhân từ không bao giờ chấp tội chúng ta. Trái lại Người còn yêu thương và đón nhận những người tội lỗi. Trong Kinh Lạy Cha, Chúa đã dạy chúng ta phải tha thứ cho người khác thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Khuyết điểm của chúng ta là ghi nhớ những lỗi lầm của người khác nên khó lòng tha thứ cho họ. Sống là bước tiếp, là đi tới. Chúng ta hãy vượt qua những giới hạn lỗi lầm của tha nhân để hướng tới những điều tích cực. Hãy thiết lập mối quan hệ và đối xử tốt với mọi người xung quanh. Hãy mau mắn làm hòa với những người đã xúc phạm đến chúng ta, cách đó giúp chúng ta vượt qua mọi nỗi hận thù ghen ghét để tận hưởng được niềm vui lớn lao của tình yêu thương.
Thế giới này có biết bao nhiêu là sự dữ: sự dữ của chiến tranh, thiên tai, bệnh tật, đói nghèo… sự dữ của bất công, của những tệ nạn, của hận thù, ganh ghét… – sự dữ do con người, sự dữ do ma quỉ. Xin Cha cứu giúp và biến chúng ta như cánh tay nối dài của Cha đẩy lui bóng tối, đẩy lui sự dữ, để cuộc đời bớt đi những bi kịch đau thương và gia tăng thêm tiếng hát cười của tình người.
Tấm lòng của Thiên Chúa thì quá bao la còn tấm lòng của chúng ta thì hết sức hẹp hòi. Chúng ta đã xúc phạm đến Thiên Chúa và đến anh chị em không biết bao nhiêu lần, nhưng cũng ngần ấy lần Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Thiên Chúa vẫn nhẫn nại với chúng ta và Ngài sẽ còn nhẫn nại với chúng ta cho đến tận cùng, cho đến giờ phút cuối cùng của đời ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tha thứ và tha thứ không ngừng nghỉ! Tha thứ như thế thì mới được Thiên Chúa tha thứ cho mình.
Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.
Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa, vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ không ngừng. Thế nên, chỉ có một mình Vị Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.
Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.
2022
Ghen tị
18.3 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mùa Chay
St 37:3-4,12-13,17-28; Tv 105:16-17,18-19,20-21; Mt 21:33-43,45-46
Ghen tị
Lòng ganh ghét đã khiến các con Giacób coi đứa em ruột của mình là kẻ thù. Lòng ganh ghét cũng khiến các thượng tế và kỳ lão Do Thái giết chết Đấng Messia mà toàn dân mong đợi bấy lâu nay. Dù chiếc xe đã ngã, nhưng vết xe cũ vẫn luôn có người theo.
“Giacob mến thương Giuse hơn mọi đứa con khác, vì ông sinh ra Giuse trong lúc tuổi già. Ông may cho Giuse một chiếc áo nhiều mầu. Các anh của Giuse thấy cha mình thương Giuse hơn mọi đứa con, nên sinh lòng ghen ghét và không thể nói chuyện thân mật với Giuse” (St 37, 3-4).
Câu chuyện về ông Giuse là một câu chuyện phản ánh cái tầm thường nhỏ nhoi, cái ghen tị mù quáng và cái xấu xa trong con người, ngay cả trong gia đình anh chị em với nhau. Nhưng nó cũng là một bài học để dạy cho con người về sự quan phòng của Thiên Chúa, Thiên Chúa có thể rút ra sự tốt lành ngay trong những kế hoạch mưu mô của con người, mà nói theo ngôn ngữ của Đức cố hồng y Thuận là: Thiên Chúa vẽ thẳng trên những đường cong. Thiên Chúa có thể rút ra cái tốt lành thiện hảo ngay trong chính những gì đã bị con người phá nát. Như cậu bé Giuse bị trù dập, xém tí nữa bị giết chết, cuối cùng bị bán đi cho dân ngoại lại trở thành vị cứu tinh của gia đình, của cả dân tộc, và là hình ảnh báo trước của Đấng Cứu Thế.
Chúng ta học được nhiều điều trong câu chuyện này, bắt đầu từ nhân sinh quan của chúng ta: sự ghen tị.
Ghen ghét…Đây là đầu mối sinh ra của tất cả mọi sự. Ghen tị dẫn đến thù ghét, không thể nói chuyện thân mật, rồi nổi giận, rồi bạo lực, rồi đổ máu…Chúng ta còn nhớ chuyện Cain và Abel?
Trong cuộc sống chúng ta kinh nghiệm nhiều thảm cảnh bắt đầu từ cái máu ghen này.
Thường chúng ta hay ghen tị với một ai đó được trời thương hơn mình, xinh đẹp hơn mình tí, may mắn hơn mình tí, thành công hơn mình tí….So sánh…Nhẹ nhàng thì ghen tị dẫn đến mâu thuẫn, khó nói chuyện với nhau, nói xấu nói hành sau lưng, tìm mọi cách triệt nhau…Ghen tị làm cuộc sống mình nặng nề hơn, làm mình mất nhiều thời gian và tâm trí hơn cho những chiến thuật mưu mô. Ghen tị ở mức độ nặng hơn nữa là những hành vi bạo lực được mặc bởi muôn vàn cách.
Trong tình yêu thì còn ghê gớm hơn nữa: ghen Hoạn Thư, cuồng ghen…và rồi là những thảm án…
Chương 21 trong Tin Mừng Matthêô khởi đầu bằng trình thuật Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem. Thế nên những lời Chúa Giêsu nói bây giờ trong bối cảnh leo thang căng thẳng giữa Chúa Giêsu và lãnh đạo tôn giáo Do thái. Trước dụ ngôn này là dụ ngôn về hai người con trai, mà qua đó Chúa ám chỉ cách rõ ràng hơn về thái độ vâng nghe Thiên Chúa nơi dân Ngài, mà ám chỉ mạnh mẽ ở đây đó là thái độ của các lãnh đạo tôn giáo Do thái.
Dụ ngôn các tá điền sát nhân lại càng đào sâu thêm căng thẳng giữa Chúa Giêsu và các lãnh đạo tôn giáo này. Có thể nói, qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu công khai nói về sự tráo trở, độc ác và giả hình của nhóm người này. Chúa hỏi và để họ trả lời theo câu chuyện Người kể: “Ông chủ sẽ làm gì?”, “ông sẽ tru diệt bọn chúng, cho các tá điền khác thuê…”. Tuy nhiên, khi hiểu ra ý của dụ ngôn vừa kể và câu trả lời như bị mắc bẫy giăng ra hại chính mình, họ hiểu dụ ngôn ấy nói về họ, họ tìm cách bắt Người. Và chẳng bao lâu nữa, ngay tại Giêrusalem này, họ đã bắt được Người và hành hình theo cách họ tính.
Cũng có những lúc chúng ta trách Chúa, vì sao người nọ người kia được cái này cái nọ, được may mắn, ăn sung mặc sướng, được người này người kia thương, được đủ mọi thứ, còn mình…Những thứ đó rồi cũng qua, cái còn đọng lại là gì: là tình yêu mình sống cho Chúa và tha nhân.
Đức Thánh cha Phanxico cũng có những lời dạy bảo về lòng đố kị, ghen tương rất gần gũi với lối suy nghĩ của chúng ta:
“Lòng đố kỵ thật xấu xa! Đó là một thái độ xấu. Sự ghen ghét và lòng đố kỵ phát triển trong lòng người ta như cỏ dại. Nó phát triển và không để cho bất kỳ thứ thảo mộc tốt lành nào có thể mọc lên được nữa. Thứ cỏ dại ấy sẽ khiến tâm hồn người ta ra tối tăm, bệnh hoạn. Nó không để cho con người được bình an nhưng khiến con tim luôn dằn vặt, đau đớn. Một con tim đố kỵ rất có thể dẫn đến mưu sát và chết chóc. Kinh Thánh đã nói rất rõ: Lòng ghen tị tội lỗi đã mang sự chết vào trần gian.
Lòng đố kỵ dẫn đến việc ‘giết’ những người có điều mà mình không có. Nhưng người ấy sẽ luôn đau khổ, vì một con tim ghen ghét và đố kỵ sẽ luôn khổ đau, một sự khổ đau muốn người khác phải chết. Chúng ta không phải đi đâu xa mới có thể thấy những điều này. Rất nhiều lần, trong cộng đoàn của chúng ta, vì ghen ghét, người ta đã giết hại nhau bằng miệng lưỡi và ngôn từ của mình. Khi không thích hay ghen ghét một điều gì đó, người ta bắt đầu xì xầm, bàn tán. Và chính những lời bàn tán đó sẽ giết chết người khác.”
Khi nào trong lòng chúng ta còn có chỗ cho ghen tị, thì đừng mong một sự bình an nội tâm, một niềm vui thanh thoát và một niềm hạnh phúc dâng trào…
Hãy nhìn ra những điểm sáng, điểm tốt nơi anh em, để mình nỗ lực phấn đấu, hơn là để ghen tị…Hãy học theo những lời của thánh Phaolo: Vui với người vui…
Và hãy cố gắng nhìn thấy sự quan phòng của Thiên Chúa, để cộng tác với Ngài, đừng là những kẻ phá hoại công trình của Thiên Chúa nơi anh chị em, và nơi chính mình.
Điều làm cho chúng ta suy nghĩ đó là cách Thiên Chúa hằng kiên nhẫn với dân của Ngài? Không phải bây giờ, cả đến Con Thiên Chúa đang ở đây và ngay lúc này phải đối diện với sự bắt bớ và giết hại, mà qua từng trang lịch sử dân riêng, các ngôn sứ được sai đến đều chịu cảnh tượng thê thảm như vậy. Đó là sự nhẫn nại đến vô hạn, sự yêu thương đến vô bờ, mà Chúa hằng dành cho dân Israel nói riêng và cho tất cả con người nói chung. Chúng ta có thể thể suy nghĩ theo kiểu của mình rằng: “Ông sẽ tru diệt chúng, sẽ cho các tá điền khác thuê…”, nhưng với Thiên Chúa, quả thật, Ngài không hành động như chúng ta nghĩ. Cả đến Con Một mà Chúa còn dám hy sinh thì nhẫn nại và yêu thương thêm một chút nào có khó khăn gì. Và cứ như thế mà Con của Chúa đã chết cho chúng ta. Tội lỗi hay hình phạt là do con người chọn lựa và chuốc lấy. Nếu chọn lựa sự tráo trở, giả dối và đầy tham vọng, con người phải gánh chịu trách nhiệm trước chọn lựa của mình.
Cái nhìn của Chúa khác cái nhìn của loài người. Khả năng của Chúa cũng tuyệt vời hơn khả năng loài người. Viên đá mà “những người thợ xây” – tức loài người chúng ta – coi là đồ bỏ đi, thì Thiên Chúa có thể biến thành tảng đá góc tường. Thí dụ viên đá Phêrô đã 3 lấn chối Chúa, viên đá Phaolô và biến cố trên đường Đamát, viên đá Augustinô… Nhiều anh chị em tôi cũng có thể là những viên đá như thế, vậy tôi hãy khoan dung… Ngay cả tôi cũng có thể là như thế, nên tôi hãy trông cậy.
2022
Quê Hương Ngược Ðãi Chúa
21.3 Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mùa Chay
2 V 5:1-15; Tv 42:2-3; Lc 4:24-30
Quê Hương Ngược Ðãi Chúa
Tin Mừng Thánh Luca miêu tả, hôm nay như thường lệ Chúa Giêsu vào hội đường Do Thái để cầu nguyện và giảng dạy. Não trạng của người Do Thái không chấp nhận hình ảnh về một Đấng Messia như Chúa Giêsu đang khắc họa, một Đấng Messia có nguồn gốc xuất thân từ quê hương của họ. Họ đinh ninh rằng chỉ mình họ là dân riêng của Thiên Chúa, họ không tin nhận ơn cứu độ sẽ dành cho dân ngoại.
Người ta thường nói “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Một người hàng xóm tốt bụng thì đáng quý như anh em ruột thịt. Thế nhưng trong Tin mừng hôm nay những người láng giềng đồng hương của Chúa Giêsu lại trở thành kẻ đối nghịch.
Thánh Luca thuật lại sau một thời gian giảng dạy ở Caphácnaum, được dân chúng thán phục vì giáo lý mới mẻ kèm theo những phép lạ, Chúa Giêsu trở về thăm Nagiarét nơi Người đã sinh trưởng. Người vào hội đường tiếp tục giảng dạy dân chúng qua đoạn sách của ngôn sứ Isaia. Đoạn sách nói về sứ mạng của Đấng Thiên Sai đến để giải thoát người nghèo khổ bần cùng bị áp bức và công bố cho họ biết năm hồng ân của Chúa. Dân chúng chăm chú lắng nghe và thán phục, nhưng liền sau đó họ phản ứng thách thức và loại trừ Chúa Giêsu.
Với thái độ cứng tin, những người đồng hương coi Chúa Giêsu chỉ là một công dân bình thường xuất thân trong một gia đình lao động tại miền quê nghèo Nagiarét. Đức Giêsu nhắc cho họ biết chuyện xưa ông Êlia không giúp các bà góa ở Israel nhưng đến giúp bà góa sống ở vùng đất của dân ngoại. Cũng vậy ngôn sứ Êlisa chỉ chữa bệnh phong cho ông Naaman xứ Xyria còn các bệnh nhân ở Israel thì không.
Chúa Giêsu nhắc lại số phận của hai vị ngôn sứ quan trọng thời Cựu Ước bị đối xử một cách bất công. Êlia là ngôn sứ lớn nhất trong các ngôn sứ. Chính ông đã xuất hiện cùng Môsê bên cạnh Chúa Giêsu trong lúc Ngài biến hình trên núi Tabo (Lc 9, 28-36). Êlia là người được Thiên Chúa gửi tới phê phán thói hư tật xấu của vua Akháp và vợ là Ideven. Lúc đó vua Akháp đang cai trị vương quốc Israel nhưng vì chiều theo lời vợ, vua đã để bà lộng hành áp đặt dân theo nghi lễ thờ cúng thần Baan (1V 17, 19). Kết cục là Êlia phải chạy trốn vì cơn giận và âm mưu sát hại của bà Ideven. Êlia phải lánh vào sa mạc, Thiên Chúa sai thiên sứ mang bánh và nước tới cho ông. Trải qua rất nhiều thử thách, vâng lời Thiên Chúa, Êlia đã chọn Êlisa làm người kế vị và truyền hết tâm khí cho.
Đến lượt Êlisa cũng chịu một số phận như thầy Êlia. Êlisa xuất hiện như là một ngôn sứ hay làm phép lạ: ông lấy áo đập xuống sông Giođan làm cho nước khô cạn để dân Israel tiến vào Đất Hứa cùng với Hòm Bia Giao Ước. Chính Êlisa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều từ 20 chiếc bánh lúa mạch và cốm (2V 42-44). Một trong những phép lạ ngoạn mục nhất đó là phép lạ chữa lành bệnh cho ông Naaman, một viên tướng người Xyria (2V 5).
Chúa Giêsu lên tiếng giảng giải cho họ bằng một định đề và hai ví dụ minh họa. Ngài nêu định đề trước : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Rồi Ngài lấy hai ví dụ dẫn chứng về hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisa được sai đến với hai người dân ngoại đó là bà góa thành bà goá thành Xarépta miền Xiđon và ông Naaman người xứ Xyria. Định đề và hình ảnh minh họa này đã làm cho đám người Do Thái khó chịu. Họ bực tức vì Chúa Giêsu đã khen dân ngoại ngay trước mặt họ, họ cảm nhận như thể dân ngoại đã được Thiên Chúa ưu đãi hơn chính họ. Họ đã phản ứng, và cách họ phản ứng thật đáng cho chúng ta quan tâm : Họ “đầy phẫn nộ”, “lôi Người ra khỏi thành”, “kéo Người lên tận đỉnh núi”, “để xô Người xuống vực”… Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã “băng qua giữa họ mà đi”.
Suy niệm Lời Chúa hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra hai thái độ khi giải quyết một vấn đề cần, mà vấn đề ấy đụng đến một sự thật : – Trước hết là thái độ của đám đông : đám đông đã không chân nhận sự thật, lấy phản ứng của số đông để phủ nhận sự thật và tấn công số ít… Sau là thái độ của Chúa Giêsu : Ngài bình tĩnh bước đi, vượt qua dư luận, mạnh mẽ và tự tin khi sống bằng sự thật.
Thái độ thứ nhất là thái độ của đám đông, một điều hiển nhiên thấy được qua bối cảnh của đoạn Tin Mừng này, rằng “số đông không phải là chân lý”. Những người lãnh đạo tầm thường thì lấy số đông để chứng minh chân lý. Chúa Giêsu đã không làm thế, dọc suốt hành trình sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã nhiều lần chứng minh cho mọi người thấy “số đông không phải là chân lý” : Câu chuyện trong Tin Mừng (Mt 21,12) miêu tả, người ta đem mọi thứ vào đền thờ để bán trong dịp lễ, một mình Chúa Giêsu đã đánh đuổi họ ; Dịp khác, trong Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 8,1-11), khi người ta định ném đá người phụ nữ ngoại tình, một mình Chúa Giêsu bênh vực ; Trước dinh Philatô trong việc xứ án Chúa Giêsu (Ga 18,28-40), một mình Ngài thua thiệt, dùng mạng sống để bảo vệ chân lý toàn vẹn…
Và hôm nay, trước vấn đề Chúa Giêsu trình bày qua định đề : “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”, và hai ví dụ dẫn chứng về hai ngôn sứ lớn Êlia và Êlisa được sai đến với hai người dân ngoại ; “số đông không hề có chân lý”, họ nổi đóa và tìm cách xô Chúa xuống vực, họ phản ứng theo cảm xúc bên ngoài mà không dựa vào chân lý. Quả là phi lí khi giải quyết vấn đề dựa vào uy thế, phản ứng, và câu trả lời của “số đông”, trong khi “Số đông không phải là chân lý”.
Thái độ thứ hai là thái độ của Chúa Giêsu, thái độ đáp trả lại đám đông bằng cách “băng qua giữa họ mà đi”. Tin Mừng đã làm cho chúng ta ngạc nhiên, làm sao Chúa Giêsu lại có thể “băng qua giữa họ mà đi” đang khi họ “phẫn nộ”… Chúa Giêsu đã mạnh dạn bước trên dư luận, Ngài không bận tâm phản ứng lại đối phương khi họ đang tức giận. Ngài tự tin vì Ngài giữ bên mình một sự thật toàn vẹn. Ngài không cần phản ứng để bảo vệ sự thật, vì sự thật là chính nó, sự thật tự nó đứng vững và sự thật là toàn vẹn. Nếu mỗi chúng ta sống với sự thật, nếu mỗi chúng ta có sự thật trong lòng, chúng ta có thể như Chúa Giêsu, có thể bước qua bất kỳ đám đông nào và băng qua bất cứ phản ứng thắc mắc nào, để hiên ngang bước đi.
Chúa Giêsu đã đến không phải để lên án loại trừ nhưng để phục vụ, kết nối yêu thương và lấp đầy những hố sâu ngăn cách. Ở một góc phố nào đó, con người vẫn bị bỏ rơi trong nghèo đói cô đơn thì Tin Mừng của Chúa vẫn là lời thúc giục khẩn thiết hãy ra đi trở thành lời yêu thương an ủi và chữa lành cho họ.
2022
Thánh Giuse – mẫu gương tuyệt vời
19.3 Thánh Giuse Bạn Đức Mẹ Maria
St 7:14-15,18-20; Tv 103:1-2,3-4,9-10,11-12; Lc 15:1-3,11-32
Thánh Giuse – mẫu gương tuyệt vời
Khi chọn một vị thánh bảo trợ, ta đặt mình dưới sự chở che cứu giúp của Người và cũng mong noi gương bắt chước đời sống đức hạnh của Người. Tất cả những ai xin thánh cả Giuse bảo trợ chắc chắn sẽ được Người chở che gìn giữ, như xưa Người đã gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria trong cuộc đời dương thế. Nhưng ít có ai noi gương được đời sống của Người. Đó là một đời sống thánh đức chiếu toả ra những nét đẹp cao quý mà ta khó bắt chước.
Giuse là một vị thánh rất đặc biệt. Ngài là cha đồng trinh của Đức Chúa Giêsu và là vị hôn phu của Đức Maria. Thánh Giuse được ban tặng đặc ân thật lớn lao là chăm sóc Đức Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa và Đức Maria, Mẹ yêu dấu của Người. Suốt cả một đời, thánh Giuse sống thật khó nghèo. Thánh Giuse phải làm việc rất vất vả trong xưởng mộc của ngài nhưng thánh nhân chẳng bận tâm lo lắng điều gì. Ngài sung sướng khi được làm việc phục vụ gia đình nhỏ bé của ngài. Thánh Giuse rất yêu mến Đức Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria. Bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn thánh Giuse thực hiện, thì thánh nhân liền thi hành ngay dù cho công việc ấy có khó khăn thế nào! Thánh Giuse sống thật khiêm tốn, trong sạch, hiền từ và khôn ngoan. Đức Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria đã hết lòng yêu mến và vâng phục thánh Giuse vì Thiên Chúa đã đặt ngài làm gia trưởng. Đối với thánh Giuse, niềm vui sướng hạnh phúc là được sống với chính Con Thiên Chúa. Đức Chúa Giêsu cũng đã vâng lời, giúp đỡ và yêu mến Ngài.
Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta. Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên “Lời Ngài” đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.
Thánh Cả Giuse là Đấng vững vàng mạnh mẽ. Ngài tin tất cả những Lời Chúa do thiên thần truyền, dầu những Lời nầy được truyền ra trong những hoàn cảnh rất khó khăn: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy” (Mátthêu 1,24) ; “Ông Giuse liền chỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập” (Mátthêu 2,14) ; “Ông liền chỗi dậy, đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ixraen” (Mt 2,21).
Thánh nhân là người thinh lặng, trầm tư, cầu nguyện… nên ngài dễ dàng nhận ra Thiên Ý và sẵn sàng mau mắn thi hành ý của Thiên Chúa trong cuộc đời. Sự thinh lặng của thánh nhân đã biến cuộc đời của ngài trở nên cuộc đời sống vì yêu. Yêu Chúa để thi hành mệnh lệnh. Yêu Mẹ Maria để sống chung thủy. Yêu mến Đức Giêsu để hết mực chăm lo. Yêu mến Giáo Hội để luôn bầu cử, trợ giúp… điều này thật đúng với tác giả Philippon, OP. đã nhận định về sự thinh lặng: “Ai yêu mến sự thinh lặng, sẽ được dẫn tới sự thinh lặng của mến yêu”.
Thánh Giuse là một bài học khiết tịnh cho anh em. Không cần chờ tới tuổi già mới sống đời thanh tịnh. Sự thanh khiết của đôi bạn Giuse và Maria là do tình yêu. Sức mạnh và sự vui tươi của tuổi trẻ không là ngăn trở cho một tình yêu cao thượng. Khi cưới Mẹ Maria về, Thánh Giuse có một “trái tim trẻ trung” trong một thân xác trẻ trung. Khi được thiên thần báo mộng cho biết mầu nhiệm “Đức Maria là Mẹ Chúa Trời”, người đã sẵn sàng đón nhận Mẹ Maria, đồng hành với Mẹ, chăm sóc Mẹ, mà vẫn tôn trọng sự trinh nguyên của Mẹ. Mẹ Maria trở thành một niềm vui, một hồng ân cho Thánh Giuse.
Thánh Giuse còn được sách Tin mừng gọi là “Người Công Chính”. Mà người công chính, theo lời Kinh thánh, là người sống bằng đức tin, hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như tổ phụ Abraham. Người Công Chính, nói đơn giản, là người tốt, ngay thẳng, trung tín. Là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, luôn thực thi trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa. Là con người luôn biết kính trọng và yêu thương tha nhân.
Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất. Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân. Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.
Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào. Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành. Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse. Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện “tình cha thiêng liêng”.
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu”
Ngày nay, Thánh Giuse vẫn đồng hành với chúng ta và che chở chúng ta, như đã đồng hành và che chở Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Với kinh nghiệm của mình, ngài xứng đáng là thầy dạy đời sống nội tâm cho mỗi người chúng ta: dạy cho ta biết Chúa Giêsu, gần gũi với Chúa, chia sẻ cuộc đời của Chúa. Ngài giúp ta ý thức mình là người nhà của Chúa, là thành viên của Giáo hội, Gia đình của Thiên Chúa tại trần gian.