2021
DẤU CHỈ CHO MỌI NGƯỜI
23 17 Tr Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên.
Thánh Pi-ô thành Pi-e-tren-ci-na (Thánh Piô Năm dấu), Linh mục, lễ nhớ.
Kg 1,1-8; Lc 9,7-9.
DẤU CHỈ CHO MỌI NGƯỜI
Thánh Padré Pio tên thật là Francesco Forgione sinh ngày 25 tháng 5 năm 1887 tại Pietrelcina, Benevento, miền Nam nước Ý Đại Lợi trong một gia đình nông dân. Ðã hai lần, cha của Francesco phải xa nhà, đi làm việc ở Jamaica, Nữu Ước để nuôi gia đình.
Khi được 15 tuổi, Francesco gia nhập dòng Capuchin và lấy tên Piô. Ngài được thụ phong linh mục năm 1910 và bị động viên trong Thế Chiến I. Sau khi bác sĩ thấy ngài bị ho lao, họ đã cho ngài giải ngũ. Vào năm 1917, ngài được bài sai đến làm việc ở tu viện San Giovanni Rotondo, cách thành phố Bari 75 dặm.
Vào ngày 20/9/1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn.
Sau biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y khoa, các giới chức của Giáo Hội và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm 1924 và một lần nữa vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không được phép cử hành Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than trách về sự cấm cách này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924 ngài không còn viết gì thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa Giêsu đều được viết trước năm 1924.
Sau khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ 5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ mà chưa bao giờ họ tiết lộ.
Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ. Theo sự đốc thúc của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây cất bệnh viện được phát khởi năm 1940; một ủy ban gây quỹ được thành lập. Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh viện rất khó khăn về kỹ thuật vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở vật liệu xây cất. Sau cùng, “Nhà Chữa Trị Người Ðau Khổ” được hình thành với 350 giường bệnh.
Nhiều người tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự Thánh Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động. Như Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm kỷ niệm.
Một trong những sự đau khổ của Cha Piô là vài lần những người thiếu đạo đức rêu rao những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ nói tiên tri về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội. Cha Piô qua đời ngày 23 tháng 9 năm 1968.
Hai mươi chín năm sau, các nhân đức và sự thánh thiện của Đấng Đáng Kính Piô được Đức Giáo Hoàng John Paul II công nhận ngày 18 tháng 12 năm 1997 và hai năm sau Đức Thánh Cha đã tôn phong ngài lên bậc Chân Phước ngày 02 tháng 5 năm 1999.
Đức Giáo Hoàng John Paul II đã công nhận một phép lạ chữa lành chứng sưng màng óc của bé Matteo Pio Colella, 7 tuổi con trai của một bác sĩ làm việc cho nhà “Chữa trị cho Người đau khổ” tại bệnh viện ở San Giovanni Rotondo do sự cầu bầu của Chân Phước Pio ngày 20 tháng 12 năm 2001. Đức Thánh Cha John Paul II đã nâng Chân Phước Piô ở Pietrelcina lên hàng hiển thánh ngày 16 tháng 6 năm 2002 tại quảng trường Thánh Phêrô, Rome.
Dừng lại một chút, ta đọc lại khi khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu, khởi sự bằng việc Chúa nhận phép rửa Gioan trên sông Giođan. Gioan Tẩy Giả khi thấy Chúa đang tiến về phía mình, Gioan đã giới thiệu với dân chúng biết về Chúa Giêsu: “đây chiên Thiên Chúa đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29). Lời giới thiệu của Gioan đã khẳng định sứ vụ và ơn cứu độ của Chúa sắp được tỏ hiện giữa trần gian.
Sau những năm tháng Chúa Giêsu ẩn dật sống dưới mái ấm gia đình Thánh Gia. Người bắt đầu công khai lộ diện công bố Tin Mừng cứu độ giữa dân chúng, danh tiếng Chúa đã vang cùng khắp nơi, vì Người đã đem tin lành đến cho muôn dân, qua những phép lạ Người đã làm cho dân chúng, những lời giáo huấn của Chúa đã cuốn hút khán giả đến lạ thường, dân chúng chỉ còn biết nghe quên cả ăn nghỉ, nhìn thấy đoàn dân đông đảo đi theo Người, khiến Chúa phải chạnh lòng thương họ, chữa lành nhiều bệnh nhân. (Mt 14, 13-21). Người đã hai lần làm phép lạ hóa bánh ra nhiều qua cử chỉ bẻ bánh đầu tiên của Chúa, từ đó mọi người cùng chuyền nhau bẻ bánh và trao cho nhau, cứ thế từ năm chiếc bánh và hai con cá đã được nhận ra hàng ngàn chiếc bánh, hàng nghìn con cá. (Mt 15, 32-39).
Bốn sách Tin Mừng còn ghi chép nhiều phép lạ khác Chúa Giêsu đã làm trong dân chúng. Riêng Tin mừng Thánh Gioan viết câu kết: “Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra”. (Ga 21 ,25)
Những việc Chúa làm trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Hêrôđê cũng biết tất cả những việc Chúa làm, và ông cũng muốn tìm cách để gặp Người. Nhưng điều đáng tiếc Hêrôđê đã không tìm đến để gặp Chúa, vì trong ý nghĩ của Hêrôđê muốn tìm cách gặp Chúa không giống như các trường hợp khác được ghi chép trong các sách Tin Mừng như: niềm tin của người phụ nữ bị bệnh băng huyết lâu năm chen lấn giữa đám đông để mong chỉ đụng được vào gấu áo của Người (Mc 5, 25-34), như anh chàng Bartimê thành Giêricô mù từ thuở mới sinh kêu gào gọi tên Giêsu khi Người đi ngang qua anh ta (Mc 10, 46-52) hay trường hợp ông Gia-kêu nghĩ ra cách trèo lên cây sung để dễ dàng nhìn thấy Chúa (x Lc 19, 1-10).
Đặc biệt hơn với lòng tin của viên đại đội trưởng xin Chúa chữa cho đầy tớ đang nằm liệt bệnh ở nhà (Lc 7, 1-10). Tất cả họ đến gặp Chúa trong tâm tình yêu mến phát xuất tự trong đáy lòng họ. Họ đến với Chúa vì họ tin tưởng vào ơn cứu độ Chúa sẽ ban cho họ.
Với Hêrôđê ông ta muốn tìm cách gặp Người chỉ vì hiếu kỳ, muốn được nhìn thấy Người làm phép lạ để ông ta xem. Cái chết của Thánh Gioan Tẩy Giả vì Gioan đã mạnh dạn lên tiếng về thái độ của Hêrôđê muốn chiếm đoạt vợ của em mình (Lc 3, 19), tuy Hêrôđê nể phục Gioan nhưng ông không biết sửa những điều mình làm sai, qua những lời Gioan đã góp ý với ông, Hêrôđê đã bị nhục dục làm chủ, chỉ vì một lời hứa với con gái người tình, mà ông đã ra lệnh chém đầu Gioan (Mc 6, 17-29).
Đặt trường hợp nếu Hêrôđê có dịp gặp Chúa Giêsu, thì chắc chắn ông sẽ bị Chúa Giêsu phê phán cách kịch liệt hơn. Trong suốt ba năm Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Hêrôđê không được hạnh phúc nhìn thấy Chúa, chỉ một lần duy nhất được diện kiến Chúa khi Người bị bắt giải từ dinh tổng trấn Philatô sang cho Hêrôđê. (Lc 23, 8).
Giữa một xã hội lấy bon chen làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tinh thần nghèo khó. Giữa một xã hội lấy hận thù làm luật sống, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục yêu thương và tha thứ đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người thường buông xuôi, thất vọng, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống lạc quan tin tưởng vào Ðấng luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại. Giữa một xã hội mà sự tử tế đối với nhau đã thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tử tế với mọi người, ngay cả những người thù địch. Sống như thế quả là một đòi hỏi gay go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà là một thể hiện của một cuộc sống mật thiết với Chúa. Không có ơn Chúa, không sống kết hiệp với Chúa, người Kitô hữu không thể đi đến cùng những cam kết sống chứng nhân của họ.
2021
Lệnh Truyền Giáo
22 16 X Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên.
Er 9,5-9; Lc 9,1-6.
Lệnh Truyền Giáo
Ðược Chúa Giêsu tuyển chọn và sống với Chúa, các Tông đồ cũng đã nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Luca thuật lại biến cố Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, Ngài nhắc nhở các ông phải sống khó nghèo và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
So với lần Chúa sai các môn đệ thì lần này có điểm khác biệt là thay vì được sai đi từng hai người, các Tông đồ được sai đi từng người một và được ban cho sức mạnh và quyền năng để trừ ma quỉ và chữa lành bệnh tật. Tuy nhiên, các ông cũng chỉ được sai đi trước để loan báo Ngài sắp đến. Huấn lệnh cho các Tông đồ trước khi lên đường có thể gồm 3 phần: Thứ nhất, trên đường đi các ông không được mang theo gì cả, mặc dù sứ vụ của các ông kéo dài một thời gian, chứ không phải chỉ có một vài ngày; điều đó có nghĩa là các ông phải hoàn toàn từ bỏ chính mình và chỉ tin vào sức mạnh của Lời Chúa. Thứ hai: khi tới nhà nào thì phải kiên trì, không được lùi bước; nói khác đi, các ông phải tin vào sứ mệnh của mình, tin vào sự quan phòng và chờ đợi thời giờ của Chúa. Thứ ba: các ông phải có can đảm trước sự cứng đầu của những kẻ chống đối các ông.
Mỗi thời đại có những cám dỗ riêng. Ma quỉ đã cám dỗ Chúa Giêsu từ bỏ sứ mệnh cứu thế, cũng như cám dỗ Ngài làm những việc lạ lùng, như hóa đá thành bánh, gieo mình xuống từ nóc Ðền thờ để mọi người thấy và tin. Ngày nay, không thiếu những người chỉ muốn dùng tiền bạc để giảng dạy hoặc dùng quyền bính để làm cho người khác kinh sợ. Một cám dỗ khác mà người Tông đồ thời nay thường mắc phải, đó là sự thiếu kiên nhẫn, chờ đợi thời giờ của Chúa. Họ dễ thoái lui rời bỏ nhiệm sở, thay đổi công việc.
Cũng có những người Tông đồ không dám nói rõ những sai lầm của người khác cũng như những gì trái ngược với giá trị Tin Mừng. Thái độ chung của con người thời nay là ích kỷ và hưởng thụ, số người sẵn sàng để Chúa sai đi thật hiếm hoi, số các tệ nạn do sự sai lầm thiêng liêng ngày càng gia tăng, trong khi đó cái tôi tự do được thổi phồng.
Khi danh tiếng của Chúa Giêsu được lẫy lừng khắp nơi về lời rao giảng mới mẻ và uy quyền, về các phép lạ Ngài làm, có thể là xưa nay chưa có ai làm được như vậy. Vì thế, có những người đến xin theo làm môn đệ của Ngài, trong đó có cả kinh sư, luật sĩ nữa, nhưng ý hướng muốn theo Chúa của họ mang tính trần tục, họ muốn theo làm môn đệ của Chúa Giêsu vì họ thấy nơi Ngài có thể làm thỏa mãn những tham vọng của họ theo kiểu trần thế : giàu có, danh vọng, địa vị. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nên Ngài thẳng thắn trả lời cho một vị kinh sư rằng: “Con chồn có hang, con chim có tổ, con người không có chỗ tựa đầu”.
Chúa nói như vậy để diễn tả Ngài không có gì để bảo đảm cho cuộc sống trần gian, vì Chúa nghèo đến nỗi thua một con chim, nó có tổ, thua một con cáo, nó có hang, còn Ngài thì không có nơi tựa đầu, không có mái nhà để ở.
Vì thế, theo Chúa mà đặt những tham vọng lớn lao nơi trần thế, đòi hỏi những thỏa mãn theo sở thích riêng, tìm kiếm những tiện nghi trong đời sống hằng ngày thì không phù hợp và không thực tế chút nào. Chúa Giêsu đòi hỏi người muốn theo làm môn đệ của Ngài, phải quyết liệt từ bỏ mọi sự thế gian, mọi tham vọng trần thế, mọi tiện nghi hằng ngày, để có một tâm hồn tự do thanh thoát mà theo Ngài, thuộc trọn về Ngài, thực thi trọn vẹn sứ mạng Ngài ủy thác. Với một người khác, Chúa Giêsu mời gọi: “Anh hãy theo tôi”, anh vẫn có thành tâm thiện chí để theo Chúa, nhưng anh chưa dứt khoát xa lìa sự ràng buộc của gia đình, bổn phận với cha mẹ cản trở anh: “Xin Thầy cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã”, tức là phụng dưỡng cha cho tròn chữ hiếu đã rồi mới đi theo Chúa sau. Chúa Giêsu trả lời: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ, còn anh, anh hãy đi loan baó triều đại Thiên Chúa”.
Vậy là Chúa đòi hỏi đi theo Chúa thì phải trọn vẹn cho Chúa, cắt đứt mọi ràng buộc, kể cả sự ràng buộc do mối dây liên hệ tình cảm với gia đình, làm phân tán, cản trở việc theo Chúa, vì: “Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”(Mt 11, 37), vả lại, loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa là cần thiết và cấp bách, là quan trọng hơn, nên phải ưu tiên hơn. Người thứ ba cũng muốn theo Chúa, nhưng chưa dứt khoát, vì còn phải từ giã gia đình nữa. Chúa Giêsu lấy công việc đi cày của người nhà nông để trả lời cho anh ta về điều kiện theo Chúa: người cầm cày đi cày ruộng thì hướng cày phải thẳng, nên người nông phu không được ngoái cổ về đàng sau, làm cho luống cày vênh vẹo, đất không được cày đều, đất sẽ không tốt đối với hạt giống sẽ gieo xuống.
Cũng vậy, việc theo Chúa không được do dự, ngập ngừng, tính toán, làm cho việc theo Chúa bị cản trở, làm cho việc loan báo Tin Mừng bị chi phối không có kết quả. Những điều Chúa đòi hỏi là dấu chỉ người môn đệ thật lòng theo Chúa, theo Chúa vì yêu mến Chúa, chọn Chúa một cách dứt khoát vô điều kiện vì chỉ có Chúa là hạnh phúc của họ, sống với Chúa thì có giá trị gấp ngàn lần những điều họ từ bỏ. Chính Chúa Giêsu cũng đã từ bỏ mọi sự để phục vụ Nước Trời và cứu rỗi các linh hồn đến mức độ chết khổ nhục trên Thập Giá, vì vậy, những đòi hỏi của Chúa Giêsu là điều kiện để các môn đệ nên giống Chúa và trung thành thi hành sứ mạng của Chúa.
Khi chúa gọi chúng ta hay khi chúng ta muốn theo Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta sống thanh thoát, tự do, thong dong cách tuyệt đối về những sự thế gian không còn bám víu sự gì kể cả gia đình ruột thịt của chúng ta, không còn lo toan việc đòi để hoàn toàn theo Chúa và chăm lo việc của Chúa mà thôi. Sống đời sống tông đồ là sống đức tin, sống tin thần phó thác, chấp nhận bấp bênh gắn liền với thân phận Đức Kitô ở trần gian “Con người không có nơi tựa đầu”, luôn gắn bó với Đức Kitô và sứ mạng của Ngài. Chúng ta thực lòng sống theo Chúa Kitô, làm môn đệ Ngài chúng ta luôn quyết chí, sẵn sàng và dấn thân để bảo vệ sự trung thành với Chúa: chúng ta luôn bảo vệ phẩm chất của chúng ta là muối, là men, là ánh sáng cho thế gian.
Người môn đệ theo Thầy không chỉ tin Thầy, đón nhận Thầy mà còn ở với Thầy, đón nhận sự dạy dỗ của Thầy, nên giống Thầy, thuộc trọn về Thầy, làm công việc của Thầy, trung thành cộng tác với sứ mạng của Thầy cách trọn vẹn. Chúa Giêsu cũng đòi hỏi các môn đệ của Ngài như vậy, và còn đòi hỏi dứt khoát hơn nữa, mới trung thành thi hành sứ mạng Chúa trao phó được. Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhìn lại ơn gọi của mình, và kiểm lại phẩm chất của ơn gọi ấy mà sửa sai để trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu cách trung thành và trọn vẹn hơn.
Trên bước đường rao giảng, người môn đệ cũng như Thầy chí thánh luôn quan tâm đến người đau khổ, chữa lành bệnh tật, mang hạnh phúc cho mọi người. Thật thế, người môn đệ của Chúa luôn quan tâm đến những nhu cầu được chữa lành, chia sẻ cho anh em đồng loại như sau này Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ: “Vui với người vui, khóc với người khóc…” (Rm 12, 15), và ở Cửa Đẹp đền thờ thánh Phêrô thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!… anh trở nên cứng cáp” (Cv 3, 6-7).
Lời mời gọi các môn đệ ra đi làm việc trên cánh đồng truyền giáo của Chúa Giêsu ngày xưa cũng là lời mời gọi dành cho mỗi người chúng ta trong cộng đoàn tín hữu và nếu tôi, bạn là người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời mời gọi ấy nhưng đáp trả như Phaolô đã cảm nghiệm và sống sứ mạng: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9, 16). Với ý thức đó, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc”. Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo”.
2021
THEO CHÚA NHƯ THÁNH MATTHÊU
21 15 Đ Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên.
THÁNH MÁT-THÊU, TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ TIN MỪNG, lễ kính.
Kinh Tiền Tụng các Thánh Tông đồ.
Thánh Phan-xi-cô Jac-ca Phan (Francois Jaccard), Linh mục (U1838); và Thánh Tô-ma Trần Văn Thiện, Chủng sinh (U1838), Tử đạo.
Không cử hành lễ cầu cho người qua đời (D2, D3), trừ lễ an táng.
Ep 4,1-7.11-13; Mt 9,9-13.
THEO CHÚA NHƯ THÁNH MATTHÊU
Việc tôn kính thánh Matthêu ở Roma lên tới thế kỷ V. Hồi đó người ta mừng lễ Ngài trong nhà thờ lớn đường Merulana, và đến thế kỷ VIII lễ kính được thiết lập, có cả lễ vọng. Lễ ngày 21 tháng 9 như hiện nay là theo sổ tử đạo của thánh Jérôme, nhưng ở phương Đông mỗi nơi định mỗi khác tùy theo họ thuộc nghi lễ Byzance và Syrie (16 tháng 9) hay Coptes (9 tháng 9).
Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: “Hãy theo Ta”.
Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Ðó là mầu nhiệm đức tin. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha. Thái độ, cử chỉ, hành động của Chúa trong mọi lần mời gọi tông đồ đều làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của mầu nhiệm ơn gọi. Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ: “Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi” (Mt 9, 13) và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9, 12).
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh. Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: “Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
Tin mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế tội lỗi tên là Lêvi (sau này là tông đồ Mátthêu) theo Chúa nhắc chúng ta nhớ lại sự thật: Chúa Giêsu không còn là Chúa, là Ðấng cứu thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Lời xác nhận của Chúa Giêsu không ngừng vang dội và mang lại hy vọng cho con người. Ai là kẻ công chính hoàn toàn vô tội trước nhan Thiên Chúa đến độ không cần tới ân sủng của Thiên Chúa, không cần đến Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót, giàu lòng từ ái, chậm bất bình và hết sức khoan dung nhưng chúng ta đừng vì đó mà lạm dụng và ngồi lì trong tật xấu, trong những tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi để chữa lành, để đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, được sống trong tự do thật của những con cái Thiên Chúa. Chỉ mình Chúa là Ðấng yêu thương vô cùng và quyền năng vô biên mới có thể đối xử đại lượng được như vậy với những tật xấu, những tội lỗi của con người.
Chúa Giêsu khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho dân ngoại xâm, cũng như bị lên án là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Chúa Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Tin Mừng.
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh.
Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
Cuộc sống của người được mời gọi theo Chúa Kitô, như tất cả chúng ta đều thấy, không thể giống như cuộc sống của người anh trong dụ ngôn người con hoang đàng. Anh ta trung thành sống bên cha, làm việc chăm chỉ, và không phung phí tài sản của cha. Tuy nhiên, anh ta thiếu niềm vui và đức ái đối với em trai mới sám hối trở về của anh. Anh ta là biểu tượng rõ nét của loại người công chính nhưng không hiểu được niềm vui được sống bên Chúa và tình thân với tha nhân. Phụng sự Chúa tự thân là một phần thưởng đúng nghĩa, bởi vì phụng sự Chúa là được cùng Người cai trị. Thiên Chúa muốn chúng ta phụng sự trong vui tươi, chứ không miễn cưỡng, bởi vì Thiên Chúa yêu thương người hiến dâng vui tươi. Lúc nào cũng có rất nhiều lý do để vui tươi, tạ ơn và hạnh phúc khi chúng ta được hiến thân cho Chúa và tích cực đáp lại tiếng gọi của Người.
Chúa Giêsu Kitô đến bên từng người chúng ta – cho dù chúng ta đang sống trong độ tuổi hoặc hoàn cảnh nào – và ánh nhìn của Chúa tiếp xúc với ánh mắt chúng ta một cách cá biệt. Người mời gọi chúng ta bước theo. Trong hầu hết các trường hợp, Chúa để chúng ta lại giữa trần gian, công việc, và gia đình. Hãy suy nghĩ về điều Chúa Thánh Thần đã phán, và hãy để bạn biết sợ hãi và tri ân: Người đã tuyển chọn chúng ta trước khi tạo dựng thế gian
2021
Vai Trò Của Người Phụ Nữ
17 11 X Thứ Sáu Tuần XXIV Thường Niên.
(Tr) Thánh Rô-béc-tô Ben-lác-mi-nô (Robert Bellarmine), Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
Thánh Em-ma-nu-en Nguyễn Văn Triệu, Linh mục (U1798), Tử đạo.
1Tm 6,2c-12; Lc 8,1-3.
Vai Trò Của Người Phụ Nữ
Rôbertô sinh ngày 4 tháng 10 năm 1541 tại Montepuciano nước Ý Ðại Lợi trong một gia đình đạo đức và thánh thiện. Mẹ Ngài là Cynthia Cervin,Chị ruột của Ðức Giáo Hoàng Marcellô II.Ngay từ lúc còn nhỏ,thánh nhân đã tỏ ra là một cậu bé đạo đức,hiền lành,khiêm nhượng và đơn sơ. Vốn thông minh sẵn có,thánh nhân đã rất thành đạt trong việc học vấn.Lên 18 tuổi, Ngài xin gia nhập Dòng Tên ở La Mã
Ngài dược nhận vào Dòng Tên và được gửi đi du học ở Louvain vào năm 1569.Rôbertô đã được phong chức linh mục ngay sau khi mãn học ở Louvain. Với trí thông minh,với học vấn uyên thâm, Ngài đã được chọn làm giáo sư ngay tại đại học Louvain trong 6 năm liên tiếp.Trong thời gian làm giáo sư đại học, Ngài đã tổ chức nhiều cuộc tranh luận về đủ mọi đề tài và bao giờ Ngài cũng giải đáp các vấn đề ấy một cách rành rẽ và thỏa đáng.Ngài được cử làm giám tỉnh Dòng Tên ở Naples. Năm 1596, Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê IV phong làm Hồng Y,nhưng với lòng khiêm nhượng, Ngài không mang sắc phục Hồng Y. Năm 1602,
Ngài được phong chức giám mục.
Bất cứ giữ chức vụ nào,ở trong cương vị nào,thánh nhân cũng hoàn thành xuất sắc công việc được Bề Trên trao phó.Ngài giảng giải rõ ràng Tin Mừng của Chúa,bố thí và củng cố đức tin,tinh thần đạo đức cho mọi giới trong Giáo Hội.Thánh nhân được đề cử giữ nhiều chức vụ trong bộ truyền giáo và nghi lễ.Ngài phải đương đầu với nhiều cuộc tranh luận về quyền bính của Ðức Giáo Hoàng và về giáo điều Ðức Maria trọn đời đồng trinh.Thánh nhân đã viết rất nhiều sách có giá trị nói về tu đức.
Thánh nhân là hoa quả quí giá ,Chúa ban cho đất nước Ý Ðại Lợi. Ðóa hoa tươi đẹp,Chúa hái về vào ngày 17/9/1621 sau một cơn sốt nặng khi Ngài đang tĩnh tâm hằng năm tại Dòng Thánh Anrê.Ðức Thánh Cha Benoit XV đã phong Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1930.
Với cuộc đời thánh thiện của thánh giám mục Robertô,nhân loại như nhận ra rằng: thánh nhân đã sống hết mình với bổn phận,trong mọi chức vụ,trong mọi cương vị,thánh nhân đã đem hết tài sức để phục vụ mọi người.Ngài muốn nói với nhân loại:chỉ có tình yêu mới làm được mọi sự . Thánh nhân đã làm mọi sự vì tình yêu,vì sáng danh Chúa.Ngài đã để lại nhiều sách tu đức rất có giá trị . Với những tư tưởng rút ra từ phúc âm,với lòng trung thành với giáo lý chân chính của Chúa Kitô,thánh nhân đã nhắc nhở nhân loại:” hãy gắn bó với Chúa,hãy học hỏi nơi Chúa và chỉ nơi Chúa,nhân loại mới tìm được sự an bình và hạnh phúc”.
Thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Edith Stein trước khi trở lại công giáo đã từng là một triết gia nổi tiếng. Thánh nữ đã trở lại công giáo sau khi đọc tiểu sử của thánh nữ Têrêsa Avila. Và mười hai năm sau khi chịu phép rửa đã vào tu trong dòng Kín. Không giống như thánh nữ Têrêsa, Edith Stein vốn là người đàn bà vụng về trong công việc nội trợ trong nhà dòng.
Tuy nhiên, theo chứng từ của những người còn sống sót trở về từ các trại tập trung Ðức quốc xã, thánh nữ Edith Stein đã luôn giữ vững được tinh thần và là người đứng ra chăm sóc cho các thiếu nhi cùng bị giam giữ với mẹ chúng trong các trại tập trung Ðức quốc xã.
Bí quyết để thánh nữ có thể giữ vững được tinh thần và nâng đỡ những người chung quanh chính là luôn sống giây phút hiện tại và đặt cả niềm phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cũng giống như thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thánh nữ Edith Stein luôn sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại.
Tin Mừng hôm nay nhắc tới tên của một số người phụ nữ đã được Chúa Giêsu chọn làm cộng tác viên của Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc trong chương trình của Ðấng cứu thế. Tuy không được chọn làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ.
Vai trò của họ lại càng quan trọng và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.
Hôm nay ta cũng thấy cách cư xử của Chúa đối với nữ giới. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến, có người đã từng bị quỉ ám, bị người đời khinh khi, xua đuổi, bị dân chúng coi là những người tội lỗi, có mặt trong đoàn truyền giáo của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng trong Giáo hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ mà còn muốn đề cao sự bình đẳng của người phụ nữ, muốn giải phóng người phụ nữ khỏi suy nghĩ hạn hẹp của những người đương thời. Đối với Chúa Giêsu, mọi người bất luận là ai, cũng đều được mời gọi để loan báo Tin Mừng qua cách sống cũng như qua giới tính của mình.
Mỗi phần tử trong Giáo Hội đều có một chỗ đứng, một vai trò riêng. Tất cả đều bổ túc cho nhau, để cùng nhau phục vụ hầu mở mang Nước Chúa. Trong chiều hướng tư tưởng này, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội ý thức và dấn thân cho công việc truyền giáo, không phân biệt giới tính, địa vị, giai cấp, khả năng…tất cả là vì tin mừng Chúa Kitô.
Sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin mừng, không chỉ dành riêng cho nam giới. Theo như thánh sử Luca hôm nay cho biết, thì trong đoàn truyền giáo của Chúa Giêsu, ngoài những môn đệ mà Chúa đã tuyển chọn, còn có các phụ nữ nữa.
Như vậy chứng tỏ Chúa Giêsu tôn trọng phẩm giá người phụ nữ và đánh giá cao phần đóng góp của họ trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta có một quan niệm đúng đắn hơn về người nữ để biết tôn trọng, yêu thương họ. Đồng thời chúng ta cũng cầu xin cho chính những người phụ nữ biết ý thức được phẩm giá cao quý của họ, hầu sống xứng đáng và góp phần tích cực vào những công việc tông đồ trong Giáo hội.