2021
Khôn Khéo
05 01/10 X Thứ Sáu Tuần XXXI Thường Niên.
Thứ Sáu đầu tháng. Ngày đền tạ Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu.
Thánh Đa-minh Đinh Đức Mậu, Linh mục (U1862), Tử đạo.
Rm 15,14-21; Lc 16,1-8.
Khôn Khéo
Chúa Giêsu nói với các môn đệ dụ ngôn “người quản gia bất lương”. Kết luận về dụ ngôn Chúa dạy cho chúng ta hai điều : Một là người quản gia đó đã có hành động “khôn khéo” nhưng vẫn bị coi là “bất lương”, “được khen” nhưng vẫn “bị sa thải” ; Hai là Chúa cho thấy sự khác biệt giữa “con cái đời này” và “con cái ánh sáng”, sự “khôn ngoan theo đời này” và sự “khôn ngoan của con cái Thiên Chúa”.
Trước tiên, chúng ta xem sự “bất lương” của người quản gia đây là gì. Anh bị người ta tố cáo với ông chủ là anh đã phung phí của cải nhà ông. Thái độ “phung phí của cải nhà ông chủ” của người quản gia cho thấy, anh đã “lạm quyền” của chủ, cách nào đó anh không còn phục tùng chủ, không trung tín và không còn nhớ vị thế của mình chỉ là quản gia. Lẽ ra anh phải biết vai trò của anh, làm quản gia anh được quyền quản lý mọi sự trong nhà, anh phải làm sao cho mọi sự diễn ra tốt đẹp và đem lại ích lợi cho gia chủ. Khi anh “phung phí của cải nhà chủ” có nghĩa là anh đã không còn chu toàn chức năng và bổn phận của anh. Sự “bất lương” của anh là như thế.
Tuy nhiên, anh được chủ khen là “khôn khéo”, vậy sự khôn khéo của anh đây là gì. Anh khôn khéo vì khi biết chủ sắp sa thải, anh đã lấy lòng các con nợ của chủ, bằng cách lấy biên lai ghi giảm số nợ cho họ, nhưng cũng bằng cách này anh đã đẩy con nợ vào chỗ thông đồng với hành vi của anh, nếu anh có bị xử phạt thì anh cũng không phải chịu một mình. Anh đã nghĩ đến nghề nghiệp, đến cuộc sống, đến tương quan của mọi người dành cho anh khi anh thất thế… Và anh đã hành động để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước anh về nhà họ, đó là một việc làm được coi là khôn khéo.
Một điều đáng nói ở đây là : sự khôn khéo của anh không che lấp được sự bất lương, hành vi toan tính của anh không thay đổi và giữ lại được vị thế của anh, anh rất khôn khéo nhưng anh không còn được tín nhiệm, anh đã thất trung. Anh đã biết dùng mưu xảo của mình để định đoạt cuộc đời mình thật khôn khéo, nhưng anh quên rằng ông chủ có thể tố cáo và đủ sức tru diệt anh. Anh nghĩ đến việc luồn lách để chạy tội, để sống, nhưng anh lại quên người có quyền ra hành động cuối cùng ảnh hưởng đến sinh mạng của anh vì các việc do anh đã làm đó là ông chủ. Tại sao anh không xin lỗi chủ về sự phung phí của mình, sao anh không “cải tà quy chính” để tiếp tục sống bình an hạnh phúc. Anh “khôn khéo” nhưng anh “bất lương” là ở điểm đó.
Hơn hết, đây là điều mà Chúa muốn dạy mỗi người chúng ta. Sự khôn khéo chỉ là phương tiện, còn lương tâm của con người mới là cùng đích. Chúa cần người có lương tâm trong sáng và trung tín. Nếu sự trong sáng và trung tín kèm với sự khôn khéo thì thật là điều đáng quý. Nhưng nếu phải chọn giữa thái độ sống vụng về mà có lương tâm ngay chính trước nhan Chúa, và thái độ sống khôn khéo nhưng bất lương, thì chúng ta hãy chọn sự trung tín và lương tâm ngay chính mà thôi.
Sự khôn ngoan của con cái thế gian và sự khôn ngoan của con cái ánh sáng khác nhau ở điểm này. Sự khôn khéo thế gian lấn át lương tâm, họ khéo léo làm mọi sự mà bán rẻ lương tâm của họ. Con cái ánh sáng thì tôn trọng tiếng nói lương tâm, tiếng nói của chính Thiên Chúa trong cõi lòng mình. Con cái Thiên Chúa thì sống trung tín với Chúa, chu toàn bổn phận trong chức năng của mình, quy phục quyền năng và ân ban của Chúa.
Khôn ngoan để luôn luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người quản lý trong Tin Mừng hôm nay. Dụ ngôn có lẽ dựa trên một cuộc biển lận xẩy ra trong bất cứ xã hội nào. Chúa Giêsu không có ý tán thành hành vi biển lận của người quản lý; Ngài chỉ khen cung cách giải quyết vấn đề của ông: ông biết nhìn xa thấy rộng để tìm phương thế cho hoạn nạn sắp phủ xuống trên ông. Bài học có thể rút ra từ dụ ngôn chính là tận dụng thời gian, biết tất cả thành cơ may để gặp gỡ Chúa và xây dựng Nước Trời.
Thái độ của con người thường là nổi loạn, than trách, buông xuôi, bỏ cuộc. Chúa Giêsu khuyên chúng ta khôn ngoan điềm tĩnh để biến đau khổ thành cơ may đưa đến một ơn ích cao đẹp hơn. Ðạo sĩ trong câu truyện trên đây không dừng lại để rủa xả con khỉ, nhưng điềm nhiên sử dụng trọn vẹn trái dừa. Người điềm tĩnh khôn ngoan là người biết nhìn một cách lạc quan những thất bại, mất mát trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã có cái nhìn lạc quan ấy, khi nói: “Ðối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều dẫn về điều thiện”.
Dưới cái nhìn của con người, loài người được xếp theo những hơn thua về tài năng, may mắn, thành công, thông minh, nhưng trong cái nhìn yêu thương của Chúa, tất cả đều là ân sủng. Chúng ta hãy tín thác cho Chúa, đón nhận mọi biến cố như lời mời gọi yêu thương, tin tưởng. Bên kia những gì chúng ta có thể ước đoán, tưởng tượng, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Hãy xử thế như người quản lý trong dụ ngôn: biến tất cả thành cơ may để nhận ra tình yêu Chúa, để loan báo, chia sẻ tình yêu ấy với mọi người.
Ước gì mỗi chúng ta khi chu toàn bổn phận Chúa trao, cũng biết chọn tiếng nói của Chúa, tiếng lương tâm. Đừng làm điều gì bán rẻ lương tâm và chống lại ý Chúa. Ước gì chúng ta cũng đứng về phía con cái sự sáng, chịu thiệt thòi ở đời này, chấp nhận vụng về trước thế gian để trở nên khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa.
2021
LÒNG BAO DUNG
04 30 Tr Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên.
Thứ năm đầu tháng. Ngày các Linh mục.
Thánh Ca-rô-lô Bô-rô-mê-ô, Giám mục, lễ nhớ.
Rm 14,7-12; Lc 15,1-10.
LÒNG BAO DUNG
Thánh Carôlô là vị Giám Mục nổi tiếng của giáo phận Milan. Ngài sinh năm 1538 tại Arôna, trong một gia đình quý tộc và đạo đức.
Lớn lên, thánh nhân theo học luật tại Pari, nước Pháp. Và năm 1559, ngài đã đạt bằng tiến sĩ.
Lúc đó cậu ngài là Mêdici được bầu làm Giáo Hoàng, lấy hiệu là Piô thứ IV; ngài được triệu về Rôma làm thư ký, và năm sau được lãnh chức Hồng Y, với quyền cai quản Giáo phận Milan. Nhưng vì nhu cầu đòi hỏi, ngài phải ở lại Rôma, giúp Đức Giáo Hoàng tổ chức công đồng Triđentinô. Sau khi công đồng kết thúc vào năm 1546, ngài lại phải chăm sóc Đức Giáo Hoàng là cậu ngài đang lâm bệnh nặng cho đến khi qua đời. Ngài chỉ được đến Milan vào năm 1566.
Giáo phận này đang gặp cơn khủng hoảng trầm trọng: từ giáo dân đến giáo sĩ và các dòng tu đều sa sút về đạo đức. Ngài nỗ lực canh tân tất cả. Ngài là người làm việc không biết mệt mỏi và luôn luôn cầu nguyện. Lời nguyện và hoạt động là lý tưởng sống đời của ngài. Ngài dành trọn quãng đời còn lại để lo hoàn chỉnh giáo phận, bằng lời dạy dỗ nhất là bằng gương sáng.
Dựa theo những quyết định của công đồng Triđentinô, thánh nhân đổi mới mọi sinh hoạt trong giáo phận: trước tiên ngài lo củng cố lại hàng giáo sĩ và các dòng tu, vì đây là thành phần nòng cốt cho mọi hoạt động mục vụ. Mặc dù giáo phận rộng lớn, ngài cố gắng đi thăm viếng khắp nơi, quan sát từng chỗ rồi khích lệ, bảo ban, sửa đổi cho hợp với đường lối của Hội Thánh. Ngài thiết lập thêm nhiều tu viện và chủng viện, để đào tạo giáo sĩ tu sĩ. Những tu viện hoặc chủng viện nào sa sút kém cỏi, ngài củng cố tu chỉnh lại. Ngài dạy bảo họ:
“Tôi nhận thực là hết thảy chúng ta đều yếu đuối, nhưng Thiên Chúa lại ban cho chúng ta nhiều phương tiện, mà nếu chúng ta biết sử dụng, sẽ trở thành nguồn trợ lực cho chúng ta…”
“Hỡi các bạn, các bạn nên hiểu rằng: không có gì thiết yếu cho giáo sĩ chúng ta bằng việc nguyện ngắm, nó phải đi trước, đi đôi và theo sau mọi hoạt động của chúng ta; như lời vị ngôn sứ xưa đã nói: Tôi sẽ ca ngợi Chúa và tôi sẽ hiểu. Này bạn, nếu bạn ban các Bí tích, bạn hãy suy gẫm điều mình làm; nếu bạn cử hành Thánh lễ, bạn hãy suy gẫm điều mình dâng hiến; nếu bạn hát ca vịnh nơi Cung Thánh, bạn hãy suy gẫm mình đang hát gì và hát cho ai; nếu bạn chăm sóc các linh hồn, bạn hãy suy nghĩ nhờ máu ai mà họ được tẩy rửa. Và như vậy bạn làm mọi việc với lòng yêu mến; như thế chúng ta mới có thể dễ dàng chiến thắng mọi trở ngại mà chúng ta gặp phải hằng ngày, và cũng nhờ đó mà chúng ta mới có thể tác sinh Chúa Kitô nơi chúng ta cũng như nơi tha nhân.”
Nhưng những hoạt động và công cuộc canh tân của thánh nhân bị nhiều người bất mãn chống đối. Họ tổ chức giết hại ngài. Một lần đang khi cầu nguyện, ngài suýt mất mạng vì cuộc mưu sát của họ.
Năm 1576 đến 1578, một cơn dịch hạch đã xảy ra dữ tợn tại Milăn, thánh nhân dồn hết năng lực giúp đỡ dân chúng khổ sở. Ngài bố thí tất cả những gì ngài có, ngài sai các Linh mục tu sĩ chăm sóc cả phần hồn phần xác của họ; ngài tổ chức nhiều buổi cầu nguyện, kêu xin Chúa thương cứu vớt họ. Nhờ đó mà căn bệnh ngặt nghèo này đã chấm dứt. Mọi người vui mừng cảm tạ ơn Chúa và mến phục ngài. Những kẻ trước kia chống đối ngài bao nhiêu, nay quý mến ngài bấy nhiêu. Nhất là những người tội lỗi và ngoại giáo thấy vậy thì ăn năn trở lại với Chúa.
Thánh nhân qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584, hưởng dương 46 tuổi. Đức Giáo Hoàng Phaolô V đã phong thánh cho ngài năm 1610.
Trang Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay kể lại hai dụ ngôn đầu. Dụ ngôn tuy ngắn nhưng giàu hình ảnh và diễn tả nhiều sắc thái tình cảm khác nhau: lo lắng, so bì, ganh tỵ, bao dung, tha thứ, phấn khởi, hân hoan…
Bị mất và đi tìm là điều thường xảy ra trong cuộc sống của con người. Đọc báo hay xem tivi, chúng ta thấy người ta không chỉ đăng tin: tìm trâu bò, giấy tờ, xe máy bị mất mà đặc biệt là còn tìm người thân bị lạc mất.
Sự đánh rơi tài sản quý giá hay lạc mất người thân làm cho chủ nhân hay gia đình lo âu, đau khổ; phải vất vả bôn ba kiếm tìm.
Qua hai dụ ngôn, chúng ta nhận thấy: một con chiên dù không có giá trị là bao so với cả đàn chiên, nhưng người chăn chiên cũng cất công tìm kiếm; cũng thế, một đồng bạc chẳng đáng là gì nhưng người phụ nữ đã vất vả kiếm tìm. Cho nên, khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu không có ý nói về tải sản vật chất nhưng nói về các tội nhân được Ngài tìm kiếm và đưa về. Đối với Chúa, mỗi một con người -dù tội lỗi – đều có giá trị.
Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian là để tìm kiếm những tâm hồn đã hư mất vì tội lỗi. Ngài không quản ngại đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng và mời gọi người ta sám hối. Ngài len lỏi vào mọi ngóc nghách của cuộc sống, giao du tiếp đón mọi hạng người.
Thật vậy, Chúa Giêsu kể những dụ ngôn này trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các luật sĩ và biệt phái lấy làm vấp phạm khi thấy Ngài giao du với những kẻ mà họ gọi là tội nhân.
Trong xã hội Do-thái, có một hàng rào ngăn cách giữa những người được xem là đạo đức và những người bị coi là tội lỗi. Các luật sĩ và biệt phái – những người tự nhận mình là đạo đức – hết sức khó chịu khi thấy Đức Giêsu làm bạn với những người tội lỗi.
Tuy nhiên, đối với Đức Giêsu, hạng người tội lỗi mới là đối tượng khiến Chúa phải cất công kiếm tìm: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất”.
Con chiên lạc, đồng bạc mất là hình ảnh của mỗi người chúng ta, vì mỗi người chúng ta trước mặt Chúa đều là tội nhân. Chỉ những ai – như biệt phái và luật sĩ kiêu ngạo – tự nhận mình là công chính mới tự loại mình ra khỏi tình thương và ơn cứu độ của Chúa.
Chúa Giêsu vui mừng đón nhận những người tội lỗi và thu thuế đến với Ngài, lắng nghe giáo huấn Ngài; trong khi đó, các kinh sư và những người thuộc phái Pharisiêu bưng tai bịt mắt trước những lời giảng dạy của Chúa và các phép lạ Ngài làm, không những thế còn càm ràm, trách mọc Chúa vì sự cởi mở của Ngài đối với những người thu thuế và tội lỗi. Chúa tìm mọi cách để giúp những người yếu đuối, tội lỗi có cơ hội hối cải và Ngài vui mừng đón nhận họ trở lại giống như người chăn chiên vui mừng tìm lại được con chiên lạc hay người phụ nữ phấn khởi tìm lại được đồng bạc đã mất; trong khi đó, những người Pharisiêu và các kinh sư tìm cách ngăn cản và loại họ ra khỏi cộng đoàn.
Dừng lại suy nghĩ. chúng ta có tâm tình đầy yêu thương bao dung của Chúa hay chúng ta có thái độ hằn học, tẩy chay họ. Một khi ta tẩy chay họ thì chúng ta cũng tự loại mình ra khỏi cộng đoàn của những con người biết hoán cải trở về với Chúa để được Chúa vui mừng tiếp rước vào gia đình đầy tình thương và hạnh phục của Ngài.
2021
THEO CHÚA
03 29 X Thứ Tư Tuần XXXI Thường Niên.
Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giuse.
(Tr) Thánh Mac-ti-nô Po-ret, Tu sĩ.
Thánh Phê-rô Phan-xi-cô Nê-rôn Bắc (Pierre Francois Neron), Linh mục (U1860), Tử đạo.
Rm 13,8-10; Lc 14,25-33.
THEO CHÚA
Thánh Mác-ti-nô sinh năm 1579, tại Li-ma, nước Pê-ru, con một hiệp sĩ Tây Ban Nha tên là Gio-an và một phụ nữ da đen được giải phóng tên là An-na Vê-lát-khê. Giữa hàng chư thánh, Mác-ti-nô là một chứng tá của dân da đen bị khinh miệt một cách bi thảm ở Tân Thế Giới. Đang lúc giúp việc một người thợ hớt tóc, Mác-ti-nô xin gia nhập Dòng Thánh Đa Minh và được nhận vào số các anh em trợ sĩ tại tu viện Đức Mẹ Mân Côi ở Li-ma. Cũng tại tu viện này, Mác-ti-nô đã được nhận tuyên khấn trọng thể năm 1603.
Mác-ti-nô có lòng đơn sơ, thanh bạch và đức tin phi thường, được cắt đặt làm những việc thường hèn, nhưng Chúa lại cất nhắc người lên, với nhiều hồng ân và đoàn sủng cao siêu. Người rất nhiệt thành sùng kính mầu nhiệm Thánh Thể và Khổ Nạn của Chúa Cứu Chuộc. Người hiến cả cuộc đời để làm việc bác ái đối với người nghèo, nhất là những người đau yếu, với cả súc vật nữa. Người được tôn phong làm bổn mạng các anh em trợ sĩ quả là xứng đáng. Người quý chuộng việc ăn chay, hãm mình nhiệm nhặt và cầu nguyện, nhất là cầu nguyện ban đêm, theo gương Chúa Giê-su. Từ việc cầu nguyện đó, người đã kín múc được những nguồn sáng soi dẫn người cách lạ lùng trong đường lối dạy giáo lý.
Mác-ti-nô qua đời ngày 3-11-1639 tại Li-ma. Đức Ghê-gô-ri-ô XVI tôn người lên bậc chân phước năm 1837. Thánh Mác-ti-nô được mọi người Bắc Mỹ và Nam Mỹ sùng mộ không những vì đức khiêm tốn phi thường của người, mà còn vì chính người là một dấu chứng. Ngày 6-5-1962, Đức Gio-an XXIII ghi tên người vào số các hiển thánh.
Qua những mẫu gương trong đời sống, thánh Mác-ti-nô chứng tỏ rằng chúng ta có thể đạt tới sự cứu rỗi và thánh thiện bằng con đường mà Đức Giê-su Ki-tô đã vạch ra cho ta, nghĩa là trước tiên chúng ta phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, rồi yêu người tha nhân như chính mình.
Thánh nhân đã thâm tín rằng Đức Giê-su Ki-tô đã chịu đau khổ vì ta, và trên thập giá, Người đã mang lấy tội ta trong chính thân xác Người. Vì thế, thánh nhân đã đặc biệt yêu mến Đức Giê-su chịu đóng đinh, và khi chiêm niệm những đau khổ của Chúa, thánh nhân không thể cầm được nước mắt. Người cũng đặc biệt yêu kính Bí tích Thánh Thể. Thông thường, Người kín đáo chầu Thánh Thể trong nhà tạm nhiều giờ liên tiếp, và mong muốn được Thánh Thể nuôi dưỡng càng nhiều càng hay.
Rồi, vâng theo lời Thầy chí thánh, thánh Mác-ti-nô đối xử với anh em bằng tất cả đức ái, một đức ái phát xuát từ trái tim không phai nhoà và một tâm hồn khiêm nhu. Thánh nhân yêu mến người khác, vì Người thật sự coi họ là con cái Thiên Chúa, và là anh em của mình. Hơn thế nữa, Người còn yêu họ hơn mình.
Thánh nhân chữa lỗi cho người khác, và tha thứ những sỉ nhục cay đắng nhất. Người xác tín rằng, do tội đã phạm, mình còn đáng phải chịu những hình phạt nặng nề hơn nữa. Người hăng say cố công dẫn đưa tội nhân về đàng ngay. Người ân cần trợ giúp người đau yếu, cung cấp cho người thiếu thốn của ăn, áo mặc, thuốc men. Với các nông dân và người da đen hoặc người lai, lúc đó bị coi như những nô lệ xấu xa, thánh nhân vỗ về giúp đỡ theo khả năng của mình, và lo lắng cho họ đến độ được quần chúng mệnh danh là “Mác-ti-nô bác ái”.
Quả thật, nhờ lời nói, gương lành và nhân đức, vị thánh này đã lôi kéo được nhiều người theo đạo. Bây giờ người còn có thể lạ lùng hướng tâm trí ta về trời. Tiếc thay không phải mọi người đều hiểu những của cải trên trời cho đúng mức, không phải mọi người đều quý chuộng những của cải ấy. Tệ hơn nữa, mọi người đều bị tật xấu lôi cuốn, coi thường hoặc chán ghét, hoặc hoàn toàn xao lãng những của cải ấy. Ước chi, vì phần rỗi của họ, gương lành của thánh Mác-ti-nô dạy cho nhiều người biết : thật êm ái và hạnh phúc biết bao, nếu họ bước theo vết chân của Đức Giê-su Ki-tô, và vâng theo các giới răn của Người.
Hành trình đáp lại lời mời gọi bước theo Chúa Giê-su để trở nên môn đệ của Người là một hành trình hết sức tự do: Thiên Chúa mời gọi, con người tự do đáp trả và con người có thể nói tiếng không với Người. Tuy nhiên, Đức Giê-su cho biết: nếu chấp nhận bước theo tiếng gọi của Chúa, con người phải từ bỏ cách triệt để, hy hiến tất cả những gì có thể là thân thương, yêu quí nhất của mình, kể cả mạng sống mình để trở nên môn đệ thực thụ của Chúa. (x. c.26). Và dĩ nhiên, phần thưởng của người biết hy sinh từ bỏ để sống cho Chúa thì không gì ở trần gian này có thể sánh được hay mua lấy được (x. Mc 10, 29 – 30).
Trình thuật Tin mừng hôm nay nối tiếp trình thuật về dụ ngôn ‘Những người khách được mời dự tiệc cưới’ (x. Lc 14, 16 – 24). Những người khách này từ chối vinh hạnh được dự tiệc với nhiều lý do: “Tôi mới cưới vợ”, “Tôi mới mua thửa đất phải đi thăm”, “Tôi mới tậu năm cặp bò phải đi thử” – Họ đã coi trọng những lợi ích bản thân, những giá trị vật chất hơn tình thân mà chủ dành cho họ, và do đó họ không bao giờ được dự bữa tiệc trọng đại mà họ đã được mời ấy nữa. Lời Chúa Giêsu dạy là một đòi hỏi triệt để: bước theo Chúa là phải hy sinh, phải từ bỏ! Không một từ bỏ nào mà không có sự lựa chọn. Chúng ta lựa chọn theo Chúa hay theo thế tục? Ở đây không có sự bắt cá hai tay, không có thỏa hiệp giữa thiện và ác, không có sự dung túng cho những thói hư tật xấu và việc bước theo con đường hẹp của Chúa Giêsu.
Chúa mời gọi chúng ta phải cân nhắc cẩn trọng, có những quyết định dứt khoát và khôn ngoan trong việc chọn lựa theo Chúa hay tinh thần thế tục. (x. c 28 – 32); bởi vì trong suốt hành trình cuộc đời, không phải chúng ta chỉ lựa chọn và quyết định một lần để ‘về phe’ với Chúa, làm môn đệ của Người mà hằng ngày, hằng giờ, trong mỗi thời khắc, chúng ta đều có những lựa chọn và quyết định. Có những lựa chọn bình thường, nhẹ nhàng không cần đắn đo suy nghĩ nhiều, nhưng cũng có những lựa chọn và quyết định đòi sự cân nhắc khôn ngoan, hay những lựa chọn đòi ý chí chiến đấu, khiến người ta đớn đau, day dứt….
Theo Chúa phải từ bỏ mọi sự và phải vác Thập giá của mình. Từ bỏ nào cũng là thập giá. Tuy nhiên, có những thập giá ngoài sự chọn lựa: Thập giá của bệnh tật, thập giá của tai họa, thập giá về những khiếm khuyết, những hạn chế của bản thân… là những thập giá dù muốn hay không ta cũng buộc phải vác. Nếu ta vác trong niềm tin, trong tự do và trong tình yêu, thì thập giá sẽ thăng hoa thành thánh giá trui rèn đức tin và nhân đức của chúng ta, giúp ta trưởng thành trong đời sống nhân linh và giúp chúng ta nên giống Chúa Giêsu hơn, trở thành môn đệ thực thụ của Người. Còn nếu chúng ta bất nhẫn, kéo lê thập giá, thập giá sẽ làm ta thất vọng, sẽ trở nên một ách nặng nề và sẽ đè bẹp chúng ta.
Câu kết Đức Giê-su nói: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (c. 33). ‘những gì mình có ở đây có thể là của cải vật chất, nhưng cũng có thể là thì giờ, tài năng, sức khỏe, năng lực….Sự từ bỏ ở đây Đức Giê-su nhắm tới thái độ tinh thần của chúng ta qui phục Thiên Chúa; chúng ta không được để cho bất cứ sự vật gì có thể ngăn cản bước đường chúng ta thực thi thánh ý Chúa; ngăn cản chúng ta làm môn đệ của Người; hay nói như thánh Phao-lô: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô.
2021
Nay người – mai ta
02 28 Tm Thứ Ba Tuần XXXI Thường Niên.
CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.
Hôm nay, các tín hữu được viếng nhà thờ lĩnh ân xá. (Enchiridion Indulgentiarum năm 1999, concessio 13).
Theo Tông Hiến ngày 10/08/1915 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XV, hôm nay mọi tư tế được phép cử hành hoặc đồng tế ba Thánh lễ vào những thời điểm khác nhau: có thể chỉ một lễ cho bất cứ ai theo ý mình; ngoài ra phải dành một ý lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời và một ý lễ cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng (Không được áp dụng bổng lễ cho lễ Nhì và lễ Ba).
Các Bài đọc gợi ý:
Lễ Nhất: G 19,1.23-27a; Rm 5,5-11; Ga 6,37-40.
Lễ Nhì: Is 25,6a.7-9; Rm 8,14-23; Lc 23,33.39-42.
Lễ Ba: 2Mcb 12,43-45; Kh 21,1-5a.6b-7; Ga 11,17-27.
Hoặc chọn trong sách Bài Đọc các Thánh Lễ Chung lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, (1973, tr.225-249); Sách Nghi lễ an táng và Thánh Lễ Cầu Hồn, (1974, tr.61-106).
Cấm cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Sau lễ Các Linh Hồn, các cha nhớ dâng lễ cầu cho các Đức Giám mục và Linh mục đã qua đời.
Nay người – mai ta
Sự thanh luyện thuộc về “cánh chung trung thời” bởi vì nó sẽ không tồn tại sau ngày tận thệ thế nữa. Luyện ngục chỉ là thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên Chúa mới là bến bờ. Đời sống vĩnh cửu mới là cùng đích, là phần thưởng Thiên Chúa hứa ban. Đạo lý về sự thanh luyện thúc giục chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Tập tục này đã có từ cuối thời Cựu ước và trong suốt lịch sử Giáo hội (x. GLCG số 1032; 958; 1371; 1689). Ngoài những hình thức cầu nguyện riêng tư, phụng vụ Giáo hội khuyến khích tục lệ này. Khởi đầu từ Thánh lễ, nơi đó Giáo hội hiệp thông với Các Thánh trên trời cũng như với các linh hồn còn đang chịu thanh luyện. Hằng năm, ngày 2 tháng 11 được dành để cầu nguyện cho tất cả các linh hồn đã qua đời tiếp sau lễ kính Các Thánh. Giáo hội còn dành cả tháng 11 nhớ đến các linh hồn và mời gọi con cái mình cầu nguyện, hy sinh hãm mình, làm việc bác ái như là nghĩa cử biểu lộ lòng yêu thương đối với họ cũng như tình hiệp thông trong nhiệm thể Chúa Kitô.
Công đồng Vatican II bàn đến tình trạng thanh luyện sau khi chết ở chương VII của hiên chế Lumen Gentium. Số 49, Công đồng nhìn nhận rằng “có những tín hữu đã qua đời và đang được thanh luyện”. Số 50, đạo lý về sự thông hiệp giữa hết mọi phần tử Giáo hội được dựa trên thói tục bắt nguồn từ thưở ban đầu Kitô giáo về sự tưởng niệm người chết và cầu nguyện cho họ. Phần kết chương VII trình bày về đường hướng mục vụ, Công đồng tái khẳng định đạo lý cổ truyền của Giáo hội : “ Thánh Công Đồng kính cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông sống động với các anh em được vinh hiển trên trời hay còn phải thanh luyện sau khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của thánh Công đồng Nicêa II, Firence, Trento ( số 51 a)”
Con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi.
Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
Mang trong mình dòng máu linh thiêng của tổ tiên, dù là người công giáo, phật giáo hay bất cứ ai cũng đều thể hiện lòng biết ơn một cách trân trọng đối với các bậc sinh thành. Trở về cội nguồn tổ tiên, chúng ta một lần nữa nói lên lòng biết ơn sâu sắc, đối với cácbậc tiền nhân.
Vì thế, chúng ta cùng nhau thắp lên một nén nhang để cùng nhớ ơn, ca ngợi công ơn tổ tiên và cầu nguyện cho tất cả những ai đã từng một lần chắp cánh cho chúng ta buớc vào cuộc đời và sống trọn vẹn ý nghĩa của con người.