2022
15.3 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mùa Chay
Is 1:10,16-20; Tv 50:8-9,16-17,21,23; Mt 23:1-12
Đừng giả hình !
Đạo rất hay, nhưng cách hành đạo vị tất lúc nào cũng hay. Ngôn sứ Ma-la-khi cảnh tỉnh các cách giữ đạo lệch lạc của chức sắc trong đạo Do Thái, tức lớp người tư tế: “Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường luật dạy” (Ml 2,8). Còn Chúa Giê-su nói đến những thói giả hình, kiêu căng trong cách giữ đạo của người biệt phái, hạng người tự cho mình trung thành với đạo của cha ông: nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, nói mà không làm, làm mọi việc cốt để người ta thấy,… Cho hay, có “đạo” thì còn phải có “đức” nữa. Đạo-Đức phải đi chung với nhau, như tiếng Việt quen nói, bằng không chỉ là đạo hình thức mà thôi.
Tin Mừng hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong Giáo Hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả những ai mang danh Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ như thế?
Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người Kitô hữu. Khi căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa và Giáo Hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình?
Theo Chúa Giêsu thì các luật sĩ và những người Pha-ri-sêu là những người chỉ sống theo vẻ bề ngoài: bề ngoài trên môi miệng, bề ngoài với việc làm, và bề ngoài trong tương quan với người khác. Ngang qua việc vạch rõ lối sống cụ thể của một nhóm người, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại chính bản thân mình, để nhận ra rằng, sống theo vẻ bề ngoài ở trong mọi lãnh vực, ở mọi nơi và ở mọi cấp độ, là một căn bệnh phổ biến và nan y của mọi người, trong đó có chính bản thân chúng ta.
Chúa Giêsu rất “nhạy cảm” với căn bệnh sống theo vẻ bề ngoài và đã nhiều lần nhắc nhở các môn đệ; và hôm nay trong bài Tin Mừng, Ngài lại tiếp tục cảnh báo “các môn đệ” và cả đám đông nữa về căn bệnh này ngang qua những con người cụ thể là luật sĩ và Pha-ri-sêu.
Trong “Bài Giảng Trên Núi”, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng sống theo vẻ bề ngoài, nhưng sống theo sự thật trong tương quan với chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, nhất là khi bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đó là ba việc đạo đức căn bản trong đời sống đức tin; và chúng ta có thể mở rộng ra tất cả tất cả những việc đạo đức khác, và nhất là mở rộng ra cung cách sống căn tính Kitô hữu hay căn tính tu sĩ của chúng ta.
Thực vậy, Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng của Ngày Lễ Tro: Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm,để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh
Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm,18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh. (Mt 6, 1-18)
Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh người luật sĩ và biệt phải giả hình. Họ là những người nói nhiều làm ít, mồm miệng đỡ chân tay, nói hay nhưng làm dở. Họ lo tô vẽ dáng bề ngoài cho đạo đức mẫu mực nhưng lòng họ thì hám danh, phô trương và tham lam. Chúa phân biệt rõ hai phương diện: những gì họ nói thì đều là nói Lời Chúa, nên hãy nghe theo; nhưng những việc họ làm thì mâu thuẫn với những lời họ giảng dạy, cho nên đừng bắt chước.
Luật sĩ và biệt phái tượng trưng cho quyền bính trong dân. Họ có bổn phận phải giảng dạy dân chúng và người dân có nghĩa vụ tuân giữ những lời họ giảng dạy. Thế nhưng nhiều lần họ đã bị Chúa Giêsu khiển trách, chỉ vì họ tự cho mình là tài giỏi, đạo đức, từ đó họ phê bình chỉ trích lên án người khác; làm gì họ cũng muốn cho người khác thấy và khen ngợi; họ ham muốn danh vọng chức quyền, luôn luôn lên mặt dạy đời, nhất là họ nói mà không làm.
Tuy thế, Chúa vẫn khuyên chúng ta tôn trọng họ vì họ có nghĩa vụ giảng dạy, và hãy thực hiện những lời họ giảng dạy. Vì thế Chúa phán: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ!”
Thay vì phô trương, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta thực hành các việc đạo đức một cách kín đáo. Không phải để thi thố sự khiêm nhường, nhưng để trở nên giống Cha của mình là Thiên Chúa, Đấng hiện diện nơi kín đáo và hành động một cách kín đáo. Trong những lời chúng ta vừa trích dẫn, Chúa Giêsu dùng tới sáu lần từ “kín đáo”, trong đó năm lần được dùng để nói về Thiên Chúa Cha: Cha của anh hiện diện nơi kín đáo; Cha của anh thấy trong kín đáo. Như thế, Thiên Chúa, Cha của Chúa Giêsu, là “Đấng kín đáo” và Ngài mời gọi chúng ta cũng trở nên “những người con kín đáo” như Cha của mình.
Và chúng ta cứ nghiệm lại mà xem: Thiên Chúa hiện diện và hành động kín đáo biết bao trong sáng tạo, trong lịch sử loài người, nơi cuộc đời chúng ta và nhất là nơi Thập Giá của Chúa Giêsu. Chúng ta phải có ngũ quan biết chiêm ngắm, mới có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện, lên tiếng và hành động.
Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh vẻ bề ngoài của loài người chúng ta bằng lời nói, nhưng bằng chính cách sống nữa; như Ngài nói về mình: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng sự sống của mình”. Và phương thuốc tận cùng của Ngài là Thập Giá, nơi đó, vẻ bề ngoài của Ngài không còn là gì nữa: thân xác, danh dự, sự nghiệp, sự sống… Nhưng chính lúc đó Căn Tính đích thật của Ngài lại rạng ngời nhất. Như con rắn đồng xưa, ai nhìn lên Đấng bị đâm thâu, thì sẽ được chữa lành (x. Ds 21, 4-9; Ga 3, 14-15).
Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh các kinh sư và Phrisêu giả hình. Họ giảng dạy đạo lý nhưng lối sống của họ đầy ích kỷ, tự cao và thiếu công bình bác ái. Ðạo lý của Chúa là đạo yêu thương, quảng đại và phục vụ anh em trong sự khiêm tốn. Không dành phần vinh quang cho mình nhưng luôn biết quy hướng về Thiên Chúa.
Đạo đức giả là sống đóng kịch. Sống như thế thì trước sau gì thì người khác cũng biết, như Chúa Giêsu đã từng nói: “Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết” (Lc 12,2). Nếu con người mãi mãi không biết thì chắc chắn, Thiên Chúa vẫn biết. Chúng ta có thể tránh được cái nhìn của người đời, nhưng không bao giờ tránh được cái nhìn xuyên thấu tâm can của Thiên Chúa.
2022
Sống từ tâm
14.3 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mùa Chay
Đn 9:4-10; Tv 79:8,9,11,13; Lc 6:36-38
Sống từ tâm
Xét đoán người khác cho đúng sự thật là một việc rất khó. Xét đoán hành vi bên ngoài đã khó rồi, xét đoán tâm trí bên trong lại càng khó khăn hơn nữa. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ đừng xét đoán người khác.
Chúng ta thường nghe nói: “dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Thời xưa, câu nói ấy đã đúng, ngày nay nó lại càng đúng hơn nữa. Với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhân loại ngày nay đã có thể đo được một cách dễ dàng núi cao, biển rộng, sông dài.
Còn hơn thế nữa, họ đã đo được những khoảng cách vời vợi trong vũ trụ mà đơn vị phải tính bằng triệu năm ánh sáng. Ngược lại, họ cũng đã đo được những khoảng cách cực nhỏ mà đơn vị càng ngày càng được thu hẹp. Ðó là về đo lường. Còn về phân tích và thống kê, nhờ phát minh ra máy vi tính cực mạnh, có thể tính được nhiều phép tính trong vòng một giây, người ta đã phân tích và thống kê được nhiều thứ. Gần đây, người ta đã hầu như hoàn thành được bản đồ gien của con người. Thật là những thành quả đáng kinh ngạc.
Tuy nhiên, trước những thành quả thâm sâu của lòng người, những phát minh và ứng dụng đó tỏ ra bất lực. Có máy móc nào cho biết đích xác hàm ý của một nụ hôn không? Ông Giuđa ngày xưa đã chẳng nộp Chúa với một nụ hôn chỉ điểm đó sao? Tâm hồn chúng ta là một cõi thẳm sâu mầu nhiệm. Có thể nói đó là một chốn mênh mông vô tận mà ngay cả bản thân chúng ta cũng không thể nào khám phá ra hết.
Dù có thành tâm thiện chí đến đâu đi nữa, chúng ta cũng không tài nào nắm bắt được hết mọi ngõ ngách của lòng mình, chúng ta nghĩ rằng mình hiểu quá rõ chính mình, nhưng thực tế không phải như vậy, chỉ có Thiên Chúa là Ðấng toàn trí toàn năng mới hiểu rõ hết mọi ngọn nguồn của tâm hồn chúng ta, và mới có thể phán xét chúng ta một cách chính xác trăm phần trăm.
Còn chúng ta, ngay cả việc xét đoán mình, chúng ta cũng hoàn toàn có nguy cơ rơi vào sai lầm. Xét đoán mình đã khó đến thế, nói chi đến việc xét đoán kẻ khác. Nhờ ý thức được giới hạn của mình, chúng ta sẽ không chủ quan khi nhận xét những người chung quanh. Chúng ta không xét đoán được chính xác thì làm sao chúng ta có thể lên án họ một cách hồ đồ được chứ. Và nếu chúng ta không lên án họ thì chúng ta sẽ làm gì đây? Xin thưa: chúng ta sẽ thông cảm bao dung với họ, sẽ nhìn họ với đôi mắt yêu thương và con tim nhân ái. Và dù họ có thực sự là con người băng hoại đi nữa, chúng ta cũng sẽ thực lòng tha thứ cho họ và cầu nguyện giúp họ cải tà qui chính. Chúng ta không xét đoán chính mình, chúng ta cũng không xét đoán anh chị em chung quanh, nhưng chúng ta hãy phó thác tất cả cho lòng nhân từ của Thiên Chúa.
Chúa dạy các môn đệ phải có tinh thần từ tâm với anh em. Đòi hỏi này gián tiếp chấp nhận sự thật là trong đời sống chúng có những rạn nứt, phiền hà gây đau khổ cho nhau. Nhưng để làm chứng cho tinh thần khoan dung của Chúa đối với tội nhân, Chúa đòi hỏi con cái Ngài, cũng phải có lòng từ tâm đối với nhau. Vì thế, Đức Giêsu đã giới thiệu lòng nhân từ của Thiên Chúa là Cha, như mẫu gương cho các môn đệ noi theo: như Cha anh em trên trời là Đấng nhân từ.
Mahatma Gandhi, một nhà ái quốc Ấn độ, lúc con nhỏ, ông sang Anh quốc học nghề luật sư và nhờ đó có dịp tiếp xúc với Kitô giáo. Ông đọc Phúc âm thường xuyên, đặc biệt ông thán phục bản Hiến chương tám mối phúc thật và lấy đó làm nguồn cảm hứng cho đường lối bất bạo động của ông trong việc giành lại độc lập cho dân tộc mình.
Tuy nhiên, có lần ông đã tâm sự với người thân tín rằng dù thán phục Giáo lý của Chúa Kitô, nhưng ông không thể trở thành kẻ tin Chúa, vì ông thấy nhiều Kitô hữu không sống tám mối phúc thật của Chúa. Ông nói: “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không thích người Kitô. Nếu họ giống như Chúa Kitô thì dân Ấn độ chúng tôi đã trở thành Công giáo cả rồi”.
Nhận xét của Mahatma Gandhi trên đây cảnh tỉnh chúng ta về ơn gọi và trách nhiệm của chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta phải sống như Chúa Kitô, phải có những tâm tình từ bi, nhân hậu và yêu thương như Ngài.
Vì Thiên Chúa nhân từ và giàu tình thương, chúng ta càng biết mở lòng mình ra với Thiên Chúa, đến với tha nhân được nhiều hồng ân hơn chúng ta mong đợi đến từ Thiên Chúa như Đức Giêsu khẳng định: “Hãy cho thì sẽ cho lại các con. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn và đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38).
Chính Chúa Giêsu mời gọi: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Cách nhân từ của Ngài là “chậm bất bình và giầu yêu thương”. Thánh vinh 102 diễn tả những tâm tình rất ngọn ngào và chan chứa lòng nhân từ của Thiên Chúa: “Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu, Ngài đại lượng và chan chứa tình thương. Ngài không xử với ta như ta đáng tội, và không trả ta theo lối của ta”. Phải chăng đây chính là niềm an ủi và khích lệ cho người tín hữu, để mùa chay thánh này can đảm quay trở về giải hòa cùng Thiên Chúa.
Tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa, người tín hữu được mời gọi như Tiên tri Đaniel, can đảm xưng thú tội mình trước nhan Đức Chúa, Cân cứ vào ba yếu tố sau: đã làm điều sai lỗi, không sống theo lề luật của Thiên Chúa, và không nghe theo lời dạy bảo của các ngôn sứ. Tất cả những điều này lẽ ra con người phải bị oán phạt, vi đã phá vỡ giao ước với Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ, bỏ qua và đón nhận khi con người quay trở về.
2022
Tha thứ
12.3 Thứ Bảy trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
Đnl 26:16-19; Tv 119:1-2,4-5,7-8; Mt 5:43-48
Tha thứ
Trong cuộc sống, tâm lý tự nhiên, ai cũng “yêu bạn và ghét thù”. Có những kẻ thù ngoài ta, nhưng cũng có kẻ thù ngay trong lòng mình. Nếu nhìn tha nhân bằng con mắt ghen ghét, ích kỷ, ngờ vực, ta sẽ thấy ai cũng có thể là kẻ xấu, và ở đâu cũng có kẻ thù. Nếu không tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, thậm chí không tha thứ cho chính mình, ta sẽ chất chứa biết bao phiền muộn, bao kẻ thù ngay trong lòng mình.
Đọc Thánh kinh, ta thấy chính ma quỷ gieo thù hận trong lòng con người, đặt con người vào thế thù nghịch và huỷ diệt nhau. Cho nên, ai còn sống trong thù hận là sống trong sự trói buộc của ma quỷ.
Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài chấp nhận cái chết để tha thứ và giải thoát chúng ta. Ngài còn dạy chúng ta con đường giải thoát là tha thứ; và chính Ngài đã nêu gương cho chúng ta khi, trên thánh giá, ngài cầu nguyện cho kẻ thù: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Mỗi người chúng ta thử hồi tâm xét xem khi nói đến từ ‘kẻ thù’ thì trong tâm trí ta xuất hiện người nào? Vậy hãy tha thứ cho họ đi để tâm hồn chúng ta thực sự được giải thoát.
Văn hào Nga Leon Tonstol có kể câu chuyện như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Từ đó, đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất.
Tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình.
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu tha thiết mời gọi chúng ta thực hành giới răn yêu thương, đó là thái độ đổi ghét thành yêu, biến thù thành bạn, Người nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 43-45).
Yêu là lấy thiện thắng ác, lấy tha thứ hóa giải hận thù. Tha thứ không phải là thái độ hèn nhát quên đi lỗi lầm của người khác nhưng là chấp nhận họ để cả hai cùng được lớn lên trong ân sủng. Thực hành lời dạy của Chúa không phải là điều dễ, bởi lẽ chúng ta còn mang nặng thói ích kỷ, khó lòng tha thứ cho người khác khi họ có điều bất hòa với chúng ta. Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta khi hết lòng tha thứ cho nhóm biệt phái Pharisêu đã nhiều lần giăng bẫy để hại Người. Chúa Giêsu còn tiếp đón người tội lỗi, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi và hiến thân mình cứu chuộc muôn người.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta “Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”. Chỉ khi nào ý thức được tha nhân là quà tặng lớn lao Thiên Chúa gửi đến thì chúng ta mới biết tôn trọng và yêu thương họ như Thiên Chúa muốn. Chúa Giêsu không dạy điều gì ngược với đạo lý thời Cựu ước nhưng Người kiện toàn và phả vào đó hơi thở của tình yêu. Chính Chúa Giêsu cũng đã sống đến tận cùng của tình yêu. Suốt những năm tháng đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã đến để yêu thương người khốn khổ nghèo hèn và những người tội lỗi, đã tìm kiếm những con chiên đi lạc. Sau cùng Người đã đón nhận cuộc Khổ Nạn và cái chết trên thập giá để minh chứng một tình thương vô bờ bến.
Biết bao lần trong cuộc sống chúng ta tích chứa hận thù ghen ghét, gây thù oán với người khác để rồi lạc sâu vào vòng luẩn quẩn dối gian. Chúng ta dễ dàng đóng khung người khác trong những thành kiến cá nhân. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy cái rác trong mắt người khác, dễ phân biệt kỳ thị và đẩy họ ra khỏi mối bận tâm của ta. Nếu hận thù chia rẽ làm trái tim chúng ta khép lại trước những nhu cầu của người khác thì tha thứ là lắng nghe và cảm thông, mở ra cho họ con đường sống hạnh phúc. Vì thế, tha thứ chính là tột đỉnh của yêu thương.
Sống tâm tình của Mùa Chay, chúng ta còn được mời gọi dành ra những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, nhìn nhận hành vi thái độ của mình đối với Chúa và tha nhân. Đồng thời chúng ta cũng ra đi chia sẻ cho tha nhân tình yêu thương và sự cảm thông nâng đỡ. Thiên Chúa luôn lắng nghe lời cầu khẩn của chúng ta, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ với những nhu cầu của tha nhân. Đức Chúa đã nói với ngôn sứ Isaia rằng: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm sao? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58, 6-7).
2022
Luật yêu thương
11.3 Thứ Sáu trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
Ed 18:21-28; Tv 130:1-2,3-4,4-6,7-8; Mt 5:20-26
Luật yêu thương
Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người biệt phái. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.
Sau đó Chúa Giêsu đưa ra thí dụ về cách giữ một số khoản luật:
Luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.
Luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình.
Chúa Giêsu kêu gọi môn đệ Ngài phải công chính hơn các luật sĩ và biệt phái (nghĩa là đừng bao giờ tự mãn vì đạo đức của mình). Một phương diện cụ thể của đức công chính mới là tương giao: phải coi mọi người là anh em của mình (chữ “anh em” được lặp đi lặp lại nhiều lần nhất trong đoạn này). Trên cơ sở tình huynh đệ ấy, đừng mắng chửi, cũng đừng nuôi giận hờn lâu, hãy cố gắng làm hoà với nhau.
Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ cũng như chúng ta phải công chính hơn các luật sĩ và biệt phái. Điều này có nghĩa là chúng ta phải giữ luật, bất cứ luật gì, đều phải trọn vẹn cả hình thức lẫn nội dung, bên ngoài cũng như ý hướng nội tâm: lý do là vì Chúa thấu suốt cả bên ngoài lẫn bên trong con người chúng ta.
Các luật sĩ và biệt phái chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài của luật, nhưng chúng ta phải giữ luật từ ý hướng bên trong là căn bản, biểu lộ ra bên ngoài là hình thức.
Luật cũ chỉ đòi hỏi bảo vệ thể xác con người khi áp dụng điều răn thứ năm: chớ giết người. Còn Đức Giêsu lại đi xa hơn, Ngài dạy: phải bảo vệ con người cả thể xác lẫn tinh thần. Luật mới của Chúa vượt trên luật cũ của Cựu ước và vượt trên cả công lý nữa, nghĩa là công lý hay luật pháp chỉ kết án một người phạm tội giết người cụ thể, rõ ràng. Còn Chúa nói đến nguồn gốc của tội là gì và kết án ngay từ trứng nước.
Nói rõ hơn, người xưa chỉ kết tội khi giết người, còn Chúa lên án ngay từ đáy lòng kẻ mắc tội ấy, vì kẻ giết người thì thường bắt đầu từ chỗ ghen ghét, ganh tị, giận dỗi, tức giận, và Chúa cấm ngay từ chỗ tư tưởng đó chứ không chờ cho việc xảy ra bằng hành động, Chúa cấm từ trong trứng nước là thế.
Chúa dạy chúng ta phải làm hoà với nhau trước dâng của lễ cho Thiên Chúa. Hoà giải là một danh từ của thời đại, hoà giải là một nhu cầu cần thiết của thời đại, vì thế hoà giải là mục tiêu phải đạt tới của nhiều phe nhóm kình chống nhau, cũng như của các quốc gia trước đây, coi nhau như thù địch.
Trên bình diện tôn giáo cũng thế, các hoạt động đại kết của các Giáo hội Kitô chỉ đạt được, nếu có sự hoà giải chân thành, khiêm tốn, nhìn nhận lỗi lầm của mình, đồng thời cố gắng tìm hiểu nhau, khám phá những gì giúp liên kết nhau, hơn là đào sâu hố chia rẽ.
Hôm nay Chúa có ý bảo chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Tha thứ là điều kiện để được thông hiệp với Thiên Chúa. Vì thế trong phụng vụ thánh lễ, để xứng đáng cử hành và tham dự, nhất là để hiệp lễ, Hội thánh đòi hỏi chúng ta phải sám hối và tha thứ cho nhau.
Việc làm hòa với tha nhân được coi như một món nợ phải đền, và đền cách trọn vẹn đầy đủ đến đồng xu cuối cùng. Chi tiết này cho thấy việc hòa giải là cần thiết và cấp bách, vì nó cần cho sự thông hiệp với Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu.
Hãy giải quyết với nhau khi còn dọc đường, đừng để khi đến toà rồi thì đã muộn. Cùng trong một ý tưởng trên, Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta, bao lâu chúng ta còn thời giờ (trong thời đại chúng ta đang sống), hãy lo giao hoà với Chúa, với anh em và lo canh tân đời sống, đừng để khi phải ra trước tòa chung thẩm, chúng ta không còn cơ hội để sửa sai nữa, và chúng ta sẽ phải đền trả nơi luyện tội cho tới khi đủ số ngày (Đồng xu cuối cùng).
Nguyên nhân gây nên bất hòa thì có đủ kiểu đủ cách, lỗi về phía này hoặc phía kia và thường khi là lỗi cả hai bên. Nhưng cho dù là lỗi thuộc về ai thì Chúa cũng dạy phải đi làm hòa, cả khi đã đem của lễ đến trước bàn thờ thì cũng cứ để của lễ lại đó. Nghĩa là phải chủ động đi làm hòa và phải đi bước trước. Người ta hay đưa ra lý do để biện minh cho việc trì hoãn làm hòa với nhau, nào là nó gây nên thì nó phải xin lỗi tôi, hay nó ít tuổi hơn tôi thì phải xin lỗi tôi, hoặc nó là cháu tôi thì nó phải có lời trước… Khi Chúa dạy chúng ta phải đi làm hòa thì Người không phân biệt như thế. Điều đó có nghĩa là khi có mâu thuẫn, thì chính chúng ta phải chủ động đi bước trước để làm hòa, chủ động xin lỗi người anh em trước và như thế việc làm hòa được trở nên dễ dàng và đạt được hiệu quả tích cực.
Chúng ta biết Chúa yêu thương loài người chúng ta vì mỗi người là hình ảnh của Chúa Cha và là anh em của Chúa. Không có gì đụng chạm tới chúng ta người mà lại không đụng chạm tới chính Chúa. Chính khi nhập thể làm người, Chúa đã sống trọn vẹn kiếp người và đã tự đồng hóa với chính những kẻ bé mọn nhất. Vì thế, Chúa dạy chúng ta yêu thương anh em. Chúa dạy chúng ta chẳng những không được giết người, mà còn không được xúc phạm đến anh em khi nghĩ xấu, nói xấu, giận hờn, phẫn nộ hoặc thù ghét.