2022
Vững tin vào Chúa
10.3 Thứ Năm trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
Et 138:1-2,2-3,7-8; Mt 7:7-12
Vững tin vào Chúa
Điểm nổi bật của sứ điệp Tin Mừng hôm nay là: Tình thương của Thiên Chúa, tình thương đó được thể hiện như một tấm lòng của người cha độ lượng luôn lắng nghe và đáp ứng những nhu cầu chính đáng của con cái mình. Chúng ta cần có một niềm tin kiên vững vào tình thương của Thiên Chúa, tin rằng Người luôn nhận lời chúng ta kêu cầu. Trọng tâm Lời Chúa hôm nay chúng ta suy niệm có hai ý.
Lời Chúa Giêsu hứa với chúng ta: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7, 7).
Chúa Giêsu dạy chúng ta phải kiên trì trong cầu nguyện, và khi cầu nguyện hãy đặt trót niềm tín thác vào tình thương của Thiên Chúa, và cầu xin với lòng thành trong thánh ý Chúa, để làm sáng danh Chúa và đem lại ơn ích thiêng liêng cho ta, chứ không phải theo ý con người của ta. Như mẫu gương của hoàng hậu Ette trong bài Cựu ước (Et 4, 17 – 17t), trích lời cầu nguyện của bà. Hoàn cảnh lúc đó, dân Do thái đang sống trong kiếp lưu đầy bên Babylon.
Tướng Aman không thương dân Do-thái nên xúi giục Vua Babylon ra chiếu chỉ tàn sát người Do-thái trong khắp đế quốc. Khi đó người ta nghĩ không ai ngoài Hoàng hậu Ette bà có thể cứu họ, Ette là người Do-thái nhưng được làm hoàng hậu trong cung điện.
Tuy là hoàng hậu nhưng bà thấy công việc của đất nước quá khó khăn vượt sức của bà, bà đã khắc khoải âu lo đến chết được nên bà liền đến nương ẩn bên Chúa (Et 4, 17k) kêu xin Người cứu giúp. Bà cầu nguyện ngày đêm cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con chẳng còn ai cứu giúp ngoại trừ Ngài” (Et 4, 17l). Lời cầu xin của bà đã được Thiên Chúa nhận lời, dẫu giữa ngàn gian nan đau khổ, Thiên Chúa luôn ở bên để phù trợ “Lạy Chúa, ngày chúng con gặp gian truân cùng khốn, xin nhớ đến chúng con mà chứng tỏ quyền năng của Ngài” (Et 4, 17k).
Những lời cầu xin của hoàng hậu Ette, đã tin vào quyền năng của Chúa, chính trong sự kiên trì trong cầu xin đã giúp cho hoàng hậu kiên vững trong đức tin, nhất là khi chúng ta gặp thử thách, gian truân chúng ta cầu xin Chúa với tất cả lòng thành, và tin tưởng phó thác trọn vẹn nơi Chúa, Người không để cho ai cầu xin Ngài phải về không bao giờ. Thiên Chúa nhân lành Người không ban điều gì có hại cho ai, điển hình như phần Lời Chúa trong bài đọc Cựu ước.
Chính nhờ hoàng hậu Ette bà đã có tấm lòng vững tin vào Chúa, trong đời sống bà đã kiên trì cầu nguyện ngày đêm xin Chúa cứu người Do – thái và Thiên Chúa đã nhậm lời, kết quả là tình thế đảo ngược lại hoàn toàn, vua đã rút lại chiếu chỉ, dân Do-thái không bị tàn sát, ngược lại tướng Aman người muốn hại dân Do -thái thì lại bị giết trên chính cột hành hình mà chính ông dựng nên để giết người Do-thái, thật đúng như Lời Chúa trong thư Thánh Phalô: “Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát” (Gl 6, 8).
“Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7, 12). Thiên Chúa nhân lành khôn ngoan và thượng trí. Người không ban điều gì có hại cho ai, có những lúc với tính xác thịt yếu đuối chúng ta đã cầu xin Chúa cho xảy ra những chuyện không được may mắn, hay những tai họa hoặc những sự rủi ro cho những người chúng ta không mấy thiện cảm, hay đã làm hại ta với mục đích báo thù. thì Thiên Chúa dạy ta hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những người hại ta.
Thiên Chúa không bao giờ lại ban những điều mà chúng ta cầu xin trái ngược lại đức thương yêu. “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11). Thiên Chúa là tình yêu, Người luôn thương yêu tất cả mọi người, Người cho mưa rơi xuống trên người hạnh phúc cũng như người bất hạnh.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai, nên Người dạy chúng ta hãy theo gương của Ngài mà sống đức bái ái yêu thương với anh chị em mình, và cầu mong điều tốt lành cho nhau. Giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu dạy chúng ta đòi hỏi sự công bằng là trên hết, vì khi ta đối xử với tha nhân thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đối xử lại với ta như vậy “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em và còn hơn nữa” (Mc 4, 21).
Chúa chẳng để cho ai cầu xin với Chúa phải trở về tay không. Tuy thế,ta biết rằng Chúa nhân lành và khôn ngoan, không ban một điều gì có hại cho ta. Có nhiều điều theo thiển ý của con là tốt, nhưng theo Thượng Trí Chúa, Chúa biết chẳng tốt lành gì cho phần rỗi của ta. Hơn nữa, có nhiều điều là ơn lành Chúa ban mà ta lại như mù lòa chẳng nhận ra. Con xin cho được đủ ăn đủ mặc, Chúa cứ để con túng cực, nhưng lại ban cho ta ơn vững tin vào Chúa hơn. Mỗi người chúng ta xin Chúa cho hết bệnh hoạn tật nguyền, Chúa chẳng chiều theo ý riêng ta, nhưng lại ban cho ta ơn biết cảm thông với những anh chị em đau ốm tật nguyền mà trước đây ta khinh miệt.
Xin Chúa giúp con luôn vững tin vào Chúa, và xin dạy ta biết cầu nguyện những điều hợp ý Chúa. Chỉ có Chúa mới biết được điều gì cần thiết và ích lợi thật cho đời con. Mỗi chúng ta xin dâng cuộc đời ta cho Chúa. Chúng ta cùng xin dâng gia đình chúng ta cho Chúa. Chúng ta tin vào Lời Chúa: “Ai xin thì sẽ được”. Mỗi người chúng ta tin Chúa là Cha trên trời sẽ ban sự tốt lành cho ta.
2022
Niềm tin vào Chúa
9.3 Thứ Tư trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
St 3:1-10; Tv 51:3-4,12-13,18-19; Lc 11:29-32
Niềm tin vào Chúa
Niềm tin vào Chúa thật sự là một niềm tin do ân huệ Chúa ban cách nhưng không, cho những ai thành tâm tìm kiếm Ngài, chứ không phải do điều kiện mà có được niềm tin ấy. Người thành tâm như thế, sẽ nhận ra Chúa ở mọi nơi, mọi lúc qua các dấu chỉ trong đời thường, cũng như lúc cầu nguyện, làm các việc đạo đức, khi gặp gỡ người khác, hay khi làm việc tông đồ. Từ đó, họ sẽ có kinh nghiệm về Chúa, tin Chúa, đón nhận những tác động của Chúa mà sám hối, hoán cải trở về với Chúa. Biết được ý Chúa mà thi hành như một sứ mạng Chúa trao, đem lại cho họ một niềm vui thiêng liêng trong đời sống làm người Kitô hữu.
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta biết hiện trạng cứng lòng tin và não trạng đòi dấu lạ của đám đông dân chúng thời Chúa Giêsu. Thực trạng này đã được thánh Luca đề cập trước đó với việc Chúa Giêsu trừ một quỷ câm (Lc 11,14-22), chính thái độ cứng lòng tin, nên dân chúng cho rằng Chúa Giêsu dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỷ và đòi thêm dấu lạ từ trời (Lc 11,15-16). Cùng một hiện trạng đó, dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay cũng xin Đức Giêsu thực hiện một dấu lạ để chứng thực Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, và để họ tin lời Ngài rao giảng.
Tuy nhiên, trái với những chờ đợi của dân chúng, không những Đức Giêsu không thực hiện một dấu lạ nào (ngoài phép lạ Giôna, tức ám chỉ đến cái chết và phục sinh của Ngài), nhưng Ngài còn nhận xét: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác” (Lc 11,29). Nặng nền hơn, chính thái độ cứng lòng không chịu tin Đức Giêsu và giáo huấn của Ngài để sống hoán cãi, họ sẽ bị kết án trong ngày phán xét.
Bởi vì, Salômôn tuy chỉ với ơn khôn ngoan Thiên Chúa ban, nhưng nữ hoàng Phương Nam đã cất công đến nghe những lời hay ý đẹp của vua ấy, và với những lời kêu gọi của Giôna mà toàn dân đã ăn năn sám hối (Lc 11,31-32). Trong khi đó, Salômôn hay Giona chỉ là hình bóng của Chúa Giêsu, chính Ngài mới thực sự là Đấng Khôn Ngoan và là dấu lạ mà muôn dân cần nhận ra và tin vào sứ điệp rao giảng của Ngài.
Có thể nói, chẳng khác gì với não trạng của đám đông dân chúng xưa kia, con người thời nay vẫn rất hiếu kỳ và dễ dàng chạy theo những dấu lạ điềm thiêng xuất hiện đó đây nhằm thỏa mãn tính tò mò của tai mắt. Tuy nhiên, thử hỏi có mấy ai khởi đi từ tính hiếu kỳ đó để thúc bách mình ngẫm nghĩ rằng: con người, cuộc đời và sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô thực sự là một dấu lạ lớn lao trong tương quan với tôi không? Hay một suy nghĩ ngược lại: cuộc đời của tôi có phải là một dấu lạ trong tương quan với Chúa Giêsu?
Quả thực, chúng ta là những kẻ mang trong mình não trạng chạy theo dấu lạ, trong khi đó Chúa Giêsu thực sự là dấu lạ của mọi dấu lạ đã được thực hiện cho nhân loại và mỗi cá nhân mà chúng ta đang bỏ quên. Nếu con người vẫn mãi chạy theo dấu lạ hơn là tin vào Chúa Giêsu, thì Chúa Giêsu có làm bao nhiêu dấu lạ đi nữa thì cũng không làm cho chúng ta thêm vững tin. Bởi vì, như vua Pharaô đã chứng kiến biết bao dấu lạ điềm thiêng của Thiên Chúa thực hiện qua ông Môsê, nhưng rốt cuộc ông vẫn lòng chai dạ đá. Hay như đám đông dân chúng mà thánh Luca đề cập trong trình thuật Chúa Giêsu trừ một quỷ câm (Lc 11,14-22), dù đã chứng kiến phép lạ ngay trước mắt, nhưng họ đã chối bỏ tất cả, và đức tin của họ vẫn là con số không, cuối cùng họ vẫn đòi thêm dấu lạ (Lc 11,29-32).
Vì vậy, điều quan trọng là tin nhận Chúa Giêsu là dấu lạ vượt trên mọi dấu lạ để ăn năn sám hối.
Nhờ ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, ta nhận ra điều khẩn thiết mà Chúa chờ đợi và mời gọi thực hiện trong Mùa Chay là hãy gột rửa não trạng đòi dấu lạ. Bởi vì ẩn núp đằng sau não trạng chạy theo dấu lạ là một biểu hiện của sự cứng lòng tin, và cũng có thể là thái độ thách thức Thiên Chúa. Nhưng chúng ta phải gột rửa bằng cách nào?
Chúa Giêsu đã tự ví mình còn hơn cả vua Salômôn và Giôna, như vậy, chính Ngài là hiện thân cho sự khôn ngoan và là dấu lạ khả tín nhất để chúng ta đặt hết tin tưởng và sống theo giáo huấn của Ngài.
Do đó, Chúa thực sự muốn mỗi người chúng ta hãy noi gương dân thành Ninivê, tin vào sứ điệp Thiên Chúa đang gửi đến chúng ta mỗi ngày để sống sám hối và từ bỏ con đường tội lỗi, ngõ hầu được ân thưởng trong ngày phán xét. Đồng thời, chúng ta hãy bắt chước thái độ sẵn sàng và mau mắn của nữ hoàng Phương Nam đi tìm lẽ khôn ngoan nơi Chúa Giêsu để sống đúng thánh ý Thiên Chúa. Chung quy lại, vượt trên mọi dấu lạ, chúng ta hãy để dấu lạ Chúa Giêsu soi dẫn và biến đổi cuộc đời chúng ta trở nên những dấu chỉ về sự hiện diện của Thiên Chúa trong một thế giới mà con người trở nên lạc hướng vì những dấu lạ giả dối.
Ta thấy các Luật Sĩ và Biệt Phái cứng lòng tin, dù họ đã nghe Chúa Giêsu giảng dạy, thấy những phép lạ Chúa làm, họ còn đòi Chúa các dấu lạ trên trời, như họ đã đọc thấy trong sách khải huyền Dothái: Nước trời đến kèm theo dấu lạ trên không trung, và họ quan niệm đó là kỳ công của Thiên Chúa như trong thời xuất hành, thời ngôn sứ Êlia. Chúa Giêsu nói với họ thật nghiêm khắc: Ôi thế hệ gian ác và ngoại tình chúng đòi dấu lạ, thay vì tin và sám hối. Họ đòi dấu lạ không phải như một bằng chứng để tin, nhưng là để khiêu khích Chúa, những gì họ đã nghe đã thấy chưa đủ cho Chúa thuyết phục họ.
Ta thấy Chúa Giêsu từ chối không làm phép lạ theo ý họ, Chúa dùng tích truyện Giona để nói về dấu lạ cả thể nơi chính bản thân Ngài, qua cuộc tử nạn và sau ba ngày Ngài phục sinh, để mời gọi mọi người tin và sám hối. Chúa Giêsu còn lấy gương mẫu dân thành Ninivê sám hối nhờ lời rao giảng của Ông Giôna, Ngài cũng liên tưởng đến Nữ Hoàng Phương Nam tìm nghe lời khôn ngoan của Vua Salômon. Đáng tiếc cho Biệt Phái và Luật sĩ vì Chúa Giêsu trọng hơn Giôna, và khôn ngoan hơn Salômon mà họ chẳng muốn nghe Ngài. Chứng tích sám hối của dân thành Ninivê và của thế hệ Nữ Hoàng Phương Nam như một lời tố cáo nặng nề tội lỗi của Biệt Phái và luật sĩ, vì họ cứng tin đòi dấu lạ và thất trung với giao ước.
Người Biệt Phái luật sĩ đòi dấu lạ, đó cũng là điều thông thường của chúng ta hôm nay, để thỏa mãn tính hiếu kỳ, sự đắc thắng của mình. Phép lạ chỉ có giá trị nâng đỡ niềm tin chứ không phát sinh hay ép buộc niềm tin. Cũng chính vì Chúa tôn trọng tự do con người Chúa không dùng phép lạ làm áp lực con người, nên Chúa đã không làm phép lạ như Biệt Phái và luật sĩ yêu cầu.
Qua lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với Biệt Phái và luật sĩ, chúng ta hãy thức tỉnh lại, chúng ta có gian ác khi đòi Chúa làm phép lạ mới tin, khi chúng ta chai đá trước lời giảng dạy của Hội Thánh. Chúng ta ngoại tình khi chúng ta sống đạo vụ hình thức, hoặc chưa thực sự sống trọn vẹn cho Chúa mà còn để lòng mình quyến luyến thụ tạo hơn Chúa, đam mê các thú vui trần thế hơn việc đạo đức. Có khi chúng ta phản bội tình thương của Chúa, để chạy theo những đam mê xác thịt.
Trong ngày phán xét, ta có thể bị kết án nặng nề hơn người khác vì chúng ta đã làm mất ơn Chúa, không dùng ơn Chúa để sinh lợi ích cho linh hồn mình và tha nhân. Phép lạ đã xảy ra hằng ngày trong Thánh lễ, trong các Bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, trong đời sống chúng ta, chúng ta có dùng để nâng cao đời sống đức tin, đi sâu vào đời sống đạo hơn không? Trong bầu khí mùa chay, chúng ta hãy sám hối và trở về với Chúa, tin Chúa và sống đạo chân thật không cần dấu lạ nào hơn là chính Chúa đã chết và sống lại. Chúng ta cũng noi gương Chúa trong việc truyền bá đức tin bằng cách dùng lời Chúa, đời sống của Chúa, những việc Chúa đã làm để yêu thương chúng ta, hơn là áp đảo bằng những việc làm thỏa mãn sự hiếu kỳ đắc thắng của người chúng ta phục vụ.
Xin Chúa ban cho chúng ta biết sám hối về cách sống đạo lệch lạc của chúng ta theo kiểu Biệt Phái, luật sĩ, để tin vào lời Chúa, tin vào sự chết và sống lại của Chúa. Sẵn sàng mở rộng lòng mình đón nhận ơn Chúa qua Hội Thánh để sống đạo tốt và đúng ý Chúa hơn.
2022
Cầu nguyện
8.3 Thứ Ba trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
Is 55:10-11; Tv 34:4-5,6-7,16-17,18-19; Mt 6:7-15
Cầu nguyện
Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Kitô hữu là tâm tình con thảo với Cha trên trời, là thể hiện niềm tin và phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay ghi lại Lời kinh Lạy Cha do chính Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy cầu nguyện như thế này”…, sau đó, Chúa Giêsu liệt kê 7 điều nên xin khi cầu nguyện.
Khi mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa Tình yêu, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy chính tâm tình phó thác của Ngài. Khi các Tông đồ xin Ngài dạy họ cầu nguyện, Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Đó là trọn tâm tình và cuộc sống vâng phục và phó thác cho Thiên Chúa. Lời cầu xin duy nhất mà Chúa Giêsu không ngừng ngỏ với Thiên Chúa, đó là được xin vâng ý Thiên Chúa.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc âm thánh Mátthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu xin đầu tiên nói về Thiên Chúa và 4 lời cầu xin sau hướng về loài người.
Phần 1, có 3 lời hướng về Chúa là Cha chúng ta ở trên trời, sau đó xin cho danh thánh Cha được vinh hiển, nước Cha trị đến trần gian, nhất là tâm hồn con người và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời.
Phần 2 có 4 lời nguyện: xin lương thực hằng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em. Xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hằng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta lìa xa Chúa. Xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Ngày nay, có một sự phục hồi sự cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người thời nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn trong khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm: đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên… cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không hiểu biết chính xác những qui luật chính xác của tự nhiên… cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người không Chúa, không Thầy… bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm (Noel Quesson). Chúng ta nghĩ thế nào?
Vào tháng 5 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có đức tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có đức tin sau khi được giải phẫu tim. Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thông miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 261).
Bày tỏ cho chúng ta Thiên Chúa Tình Yêu và mời gọi chúng ta sống phó thác, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta nhìn mọi người bằng cái nhìn yêu thương của Thiên Chúa. Kinh Lạy Cha không chỉ là tâm tình phó thác của chúng ta dâng lên Thiên Chúa, nhưng còn là niềm tin yêu mà chúng ta dành cho anh em.
Chúng ta không đọc “Lạy Cha của con”, mà đọc Lạy Cha chúng con. Như thế lời kinh này không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau. Thiên Chúa là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Kinh Lạy Cha không chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.
Trong đời sống đạo của chúng ta vẫn thấy có những người cầu nguyện rất dài, nhưng lòng đạo thì lại quá ngắn! Tại sao vậy? Thưa bởi vì họ như con sáo, cuốn băng! Cầu nguyện mà không biết mình làm gì, chỉ mong sao đọc cho hết, nói cho xong là yên tâm! Trong khi đó, không hề thay đổi lối sống khi sứ điệp Lời Chúa đòi hỏi…
Mong sao, lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ hôm nay cũng là lời kinh của chúng ta. Và khi chúng ta cất lên, mỗi người hãy đọc với trọn niềm tin kính, yêu mến và khao khát thực hành điều Chúa dạy. Có thế, đời sống đạo của chúng ta mới thực sự là có Chúa và có tình thương với anh chị em mình.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”.
Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Nhiều người nghĩ rằng sống theo ý Chúa thật là khó. Thực ra điều này thoải mái và dễ chịu như nằm trên một chiếc gối bông, bởi vì ta không thể chọn được thứ gì tốt cho bằng thứ Chúa đã chọn sẵn cho ta, không thể nhắm tới thứ gì hay cho bằng thứ Chúa đã nhắm sẵn cho ta, sống theo ý Chúa thì ta không còn gì phải lo, và không có gì an toàn hơn được.
2022
Cho đi là còn mãi
7.3 Thứ Hai trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
Lv 19:1-2,11-18; Tv 19:8,9,10,15; Mt 25:31-46
Cho đi là còn mãi
Tin Mừng hôm nay tập trung về diễn tiến trong cuộc phán xét chung. Đây là quang cảnh thu gọn của cuộc đại phán xét. Cuối bài giảng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Matthêu từ chương 5 đến hết chương 7, Thánh sử đã loan báo về sự phán xét đối với những môn đệ chân chính và khẳng định Đức Tin KiTô Giáo là một hành động được tóm tắt bằng Tình Yêu đối với tha nhân.
Dụ ngôn về “ cuộc phán xét chung” là một trong chuỗi dụ ngôn có nội dung nói lên cách thức chuẩn bị biến cố cánh chung như thế nào và sự tỉnh thức Chúa đòi hỏi mỗi người.
Thánh Matthêu đã nhấn mạnh đến những khía cạnh đáng thương nhất mà người nghèo phải gánh chịu đó là: đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù. Điều họ cần không phải là cái gì cao sang mà đó chỉ là một chén cơm, một ly nước lã, một chỗ nghỉ chân, một manh áo rách, một viên thuốc hay một lời hỏi thăm.
Vì vậy, chúng ta đừng do dự khi mở rộng lòng mình với mọi người. có những lúc, chỉ một ánh mắt trìu mến, một nụ cười thân thiện, hay một câu nói ấm lòng cũng đủ chắp cánh cho một trái tim. Trong dụ ngôn người Samari nhân hậu, mặc dù chỉ là một người khách ngoại kiều qua đường nhưng sự chăm sóc đó nói lên tình yêu không biên giới, tình yêu vô vị lợi. Thánh Vinh Sơn, tấm gương phục vụ và yêu thương được thể hiện rõ nét qua cuộc đời và linh đạo của ngài khi ngài dành phần lớn thời gian, công sức, tâm huyết để theo đuổi một lý tưởng phục vụ người nghèo mà ngài ấp ủ.
Câu 31 mở đầu việc ngự đến trong vinh quang của Con Người có các Thiên Thần theo sau hầu hạ. Trước mặt Con Người là một đám đông hỗn độn gồm cả chiên lẫn dê. Và chính Con Người sẽ là người phân xử, tách biệt và lựa chọn: chiên ở bên này và bên kia là dê. Ở câu 32, tác giả đã nêu lên sứ vụ mục tử của Con Người. Người hiểu rõ và biết được sự khác nhau giữa chiên và dê. Đây là lúc vị mục tử sẽ phân loại bầy chiên dê hỗn tạp này, trong uy quyền và công bằng trong xét xử. Tiêu chuẩn của việc phân loại dựa trên lòng yêu mến của thần dân đối với Vua là cách đối xử của họ với anh em mình ( c.40 và 45). Phần thưởng hay hình phạt đều dựa trên cách đối xử ấy.
Mở đầu lời nói mà Đức Vua dành cho những người thuộc bầy chiên mà Người chăn dắt rằng: “ Những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từthuở tạo thiên lập địa ( c. 34). Cách xưng hô của Đức Vua đủ cho chúng ta biết những người bên phải là người được Chúa Cha tuyển chọn và yêu thương. Họ được chúc phúc “ vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. ( c. 35-36). Đức Vua kể hàng loạt việc tốt, việc lành mà họ đã cư xử với những người anh em đồng loại mà được Ngài kể như là làm cho chính Ngài “ mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
( c.40 ). Chính Ngài xác định người anh em bé nhỏ là hiện thân của Ngài trên trần gian. “ Người anh em bé nhỏ” mà chúng ta thấy Chúa nêu lên là: Người đói khát, người không có áo mặc, người không có nơi trú chân, người đau bệnh và người bị tù đày. Họ thuộc tầng lớp thấp kém trong xã hội, bị xã hội khinh khi, ruồng bỏ… Chính Chúa ở trong họ. Chính Chúa cần đến sự giúp đỡ, ân cần của chúng ta khi họ bị đói khát, bị bỏ rơi, bị xem thường. Chính Chúa cần chúng ta khi họ lang thang trên vỉa hè, đường phố trong những đêm giá lạnh, cô đơn. Chính Chúa cần đến chúng ta khi họ đang phải chống trả với những căn bệnh thời đại, bất trị. Chính Chúa cần chúng ta khi họ bị quên lãng trong chốn tù đày, bị xã hội gắn cho một cái mác “ đi tù về…” và họ sống trong mặc cảm không sao vươn lên để làm lại cuộc đời.
Từ câu 41-45, Thánh sử cũng chỉ lập lại những sự kiện, những câu hỏi đối đáp như trên, nhưng tình thế lật ngược 1800 chỉ vì cách cư xử khác biệt của “ những kẻ bên trái”. Danh từ những người được chúc phúc , được chuyển thành “quân bị nguyền rủa” và nơi chốn cũng thay đổi từ “ Vương quốc dọn sẵn” nay trở thành “chốn lửa đời đời, nơi dành cho Ác Quỷ và đồng bọn”.
Dụ ngôn kết thúc trong câu 46 đủ nói lên “cõi đi về” của mỗi người tuỳ theo cách họ cư xử với anh em đồng loại khi còn sống. Suốt dụ ngôn, chúng ta không hề thấy một lời van xin hay một cử chỉ thương xót. Lúc này chỉ còn sự công bằng, thưởng phạt mà thôi.
Phục vụ, bác ái phải đi đôi với cầu nguyện. cầu nguyện là một cách thức dễ dàng nhất để tiếp cận với Chúa và với tha nhân. Chính cầu nguyện đã chèo lái hoạt động của rất nhiều vị thánh và cả thánh Vinh sơn. Cầu nguyện chiếm một vị trí ưu tiên trong cuộc sống của một vị thánh bác ái. Nhờ cầu nguyện chúng ta kiên vững được trong ơn gọi. Thiên Chúa không từ chối gì khi ta cầu nguyện.
Đời sống cầu nguyện như là linh hồn của người tông đồ, phải làm sao để trở nên một người chiêm niệm trong hành động và tông đồ trong cầu nguyện. Thánh Vinh Sơn, một nhà hoạt động truyền giáo nhưng ngài ý thức rõ tầm quan trọng của việc cầu nguyện. Ngài viết trong hiến pháp: “chúng ta cần chu toàn những thực hành thiêng liêng sau đây, đọc Thánh Kinh, tôn sùng Thánh Thế, nguyện ngắm chung, xét mình, đọc sách thiêng liêng, tĩnh tâm hằng năm và thực hành việc linh hướng.”
Và rồi ta thấy rằng để chúng ta có được những lợi thế trong ngày con Người trở lại trong vinh quang, chúng ta phải làm gì trước những người anh em nhỏ nhất, những người nghèo? ta phải biết phục vụ người nghèo là gì?, cách thức chúng ta phục vụ, và phục vụ phải đi đôi với cầu nguyện. Mỗi người hãy biết chia sẻ, biết cho đi, vì cho đi là còn mãi.