2021
SÁM HỐI
23 18 X Thứ Bảy Tuần XXIX Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
(Tr) Thánh Gio-an thành Ca-pit-tra-nô (Capistrano), Linh mục.
Thánh Phao-lô Tống Viết Bường, Quan thị vệ (U1833), Tử đạo.
Rm 8,1-11; Lc 13,1-9.
SÁM HỐI
Thánh Gioan sinh năm 1386, tại Ca-pít-tra-nô, nước Ý.
Lớn lên, thánh nhân theo học môn luật, và sau khi tốt nghiệp thì hành nghề thẩm phán. Ngài theo lương tâm nghề nghiệp mà thi hành chức vụ cách khôn ngoan, đồng thời biết thương yêu nâng đỡ kẻ nghèo khó, cô thế cô thân, nên được mọi người quý mến kính trọng. Nhưng năm 1416, trong một cuộc giải hòa, ngài bị tố cáo thiên vị, nên bị bắt giam ở Ri-mi-ni.
Những ngày tù ngục gian khổ làm cho thánh nhân thấy rõ đời toàn là giả trá gian xảo và không có gì tồn tại bền bĩ. Danh vọng chức tước nay còn mai mất, chẳng khác trò hề trên sân khấu. Chỉ có Chúa mới tồn tại, chỉ có Chúa mới là chỗ dựa vững chắc, chỉ có Chúa mới là nguồn hạnh phúc thật cho con người. Và ngài bắt đầu quy hướng cuộc đời về Chúa.
Thế là sau khi được phóng thích, thánh nhân xin gia nhập Dòng Anh Em Hèn Mọn, từ bỏ cuộc đời, hiến trọn đời cho Chúa.
Nhưng theo Lời Chúa nói: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt. 11, 38). Mới vào dòng, thánh nhân đã phải thử thách nặng nề. Bề trên nghi ngờ thiện chí của ngài, sợ rằng vì chán đời mà ngài đi tu, chớ không có lý tưởng tốt đẹp vì lòng mến Chúa và thương yêu các linh hồn. Nhưng ngài không sờn lòng nản chí, một sẵn sàng chấp nhận mọi cơn gian nan thử thách, và hoàn toàn tuân theo thánh ý Chúa.
Và thời gian trôi qua. Ngày 4 tháng 10 năm 1416, thánh nhân được lãnh tu phục dòng. Đây là ngày hạnh phúc nhất cho ngài, lúc đó ngài đã 32 tuổi.
Từ đó thánh nhân bắt đầu đi rao giảng Lời Chúa, và ngài đã trở thành nhà giảng thuyết đại tài. Ngài rảo khắp nước Ý, giảng dạy trong các thánh đường cũng như nơi công trường. Các bài giảng của ngài thật phi thường, lôi cuốn hằng ngàn hằng vạn người lạc giáo và kẻ tội lỗi trở về với Chúa.
Đặc biệt ngài khuyên bảo hàng giáo sĩ sống thánh thiện trọn lành, để xứng đáng làm môn đệ Chúa và giúp ích các linh hồn. Ngài nói với họ: “Ai được mời đến dự bàn tiệc của Chúa, thì phải chiếu tỏa một đời sống gương mẫu, đáng khen và đức hạnh, sạch mọi nhơ bẩn của thói hư tật xấu. Phải sống xứng đáng là muối đất cho chính mình và cho người khác; phải soi sáng sự khôn ngoan cho người khác như là ánh sáng thế gian.
Một hàng giáo sĩ không trong sạch và bần tiện, đầy những thói hư tật xấu và vướng mắc trong vòng tội lỗi sẽ bị người ta dẫm đạp như phân bón, đến nỗi không còn ích gì cho mình và cho người khác nữa, vì như thánh Ghê-gô-ri-ô nói: “Kẻ nào mà đời sống bị người ta khinh chê, thì lời rao giảng của họ cũng bị chê bai”.
Ngoài ra việc giảng thuyết, thánh nhân còn được lệnh Đức Giáo Hoàng cổ động cho Đạo Binh Thánh Giá, kêu gọi nhiều người gia nhập đoàn quân nầy, để chiến đấu với quân đội Hồi giáo đang xâm chiếm Công-tăn-ti-nốp. Ngài đã chiêu mộ được hơn 40.000 người tham gia trận chiến, và đã chiến thắng được quân đội Hồi giáo tại Ben-gát ngày 14 tháng 7 năm 1456.
Thánh nhân qua đời tại I-lóc ngày 23 tháng 10 năm 1456.
Trongi Tin Mừng của ngày hôm qua chúng ta đã nghe Chúa Giêsu dạy về việc phải biết nhìn xem những dấu chỉ của thời đại, biết phân định những biến cố xảy ra theo ánh sáng của Lời Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một thí dụ cụ thể là Chúa Giêsu đã đọc dấu chỉ của thời đại, tức là hai biến cố đau thương vừa xảy ra: quan tổng trấn Philatô đã giết chết một số người Galilê nơi đền thờ; và tháp Silôê sập đè chết mười tám người.
Chúa Giêsu đã thuật lại hai biến cố này trước: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết những người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
Tai họa là điều tiêu cực xảy ra, không phải là hình phạt của một vị Thiên Chúa muốn trả thù vì tội lỗi của con người và những anh chị em nạn nhân, không phải là những kẻ xấu tệ, đáng khinh. Những biến cố xảy ra là những dịp kêu gọi con người trở lại cùng Thiên Chúa. Dụ ngôn về cây vả không có trái cũng vậy.
Dụ ngôn mời gọi người nghe hãy ăn năn hối cải và thực hiện đền bù trổ sinh hoa trái tốt và thôi không lạm dụng lòng nhân từ của Thiên Chúa nữa. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đức tin bằng những việc tốt lành của đức bác ái, một đức tin sống động mới xác tín cá nhân để thực hiện những công việc làm của kẻ yêu mến Thiên Chúa và anh chị em.
Trước nhan Thiên Chúa không có những phân biệt đối xử, những kỳ thị cho người này cao trọng hơn người kia. Chúng ta tự nhiên thường hay có thái độ khinh thị anh chị em và kiêu ngạo cho mình tốt lành hơn cả. Chúng ta cần thay đổi tâm thức để mặc lấy những tâm tình của Chúa, hành xử như Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy biến đổi con tim mình để nó đừng ích kỷ, đừng khinh dễ anh chị em, đừng xét đoán hạ thấp anh chị em, nhưng ngược lại biết mở rộng trong sự vị tha, tình huynh đệ, sự hòa hợp, tình thương, lòng nhân từ, niềm vui, sự bình an, lòng quảng đại và hy vọng.
Thay đổi chính tâm hồn mình là một điều khó, một tiến trình liên lỉ, dài hạn, đòi hỏi hy sinh và can đảm cộng tác với ơn Chúa. Ðừng an ủi mình, đừng trấn an lương tâm mình bằng việc phân tích phê bình những sơ sót của anh chị em, dường như thể chúng ta tốt lành hơn: “Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết giống như vậy”.
Cha ông chúng ta vẫn khuyên dạy con cháu: “gieo gió gặt bão”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”… Và trong Thánh Kinh, các câu chuyện như lụt Hồng Thuỷ, thành Sô-đô-ma bị tàn phá,v.v… cũng thường được giải thích theo quan niệm báo ứng ấy. Không lạ gì người Do Thái thời Chúa Giê-su, cũng như chúng ta ngày nay, thích áp dụng nguyên tắc nhân quả “ác giả ác báo” nhưng là áp dụng cho người khác! Trước hai tai hoạ xảy ra gây chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân “tội lỗi hơn mọi người khác” nên mới bị thảm hoạ như vậy. Đành rằng, nếu gieo gió thì có thể sẽ gặt bão, song Chúa Giê-su khuyên mỗi người không nên hồ đồ xét đoán người khác, nhưng hãy xem các biến cố đó là cơ hội giúp ta xét lại chính mình mà trở về với nẻo chính đường ngay. Vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét chung cuộc trên mọi người.
“Sám hối” là từ thường gặp trong Thánh Kinh, nó được kêu gọi bởi Gio-an Tẩy Giả, Chúa Giê-su, các tông đồ và hôm nay luôn được lặp lại nơi sứ điệp của Giáo Hội. Bởi sám hối là động thái tiên quyết để đón nhận ơn cứu độ. Còn sống là còn cơ hội để sám hối! Nếu không tận dụng tốt cơ hội Chúa ban thì Ngài sẽ cất đi như cây vả không chịu sinh trái (Lc 13, 6-9).
2021
HỌC MÃI ĐỂ NHẬN RA DẤU CHỈ
22 17 X Thứ Sáu Tuần XXIX Thường Niên.
(Tr) Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II.
Rm 7,18-25a; Lc 12,54-59.
HỌC MÃI ĐỂ NHẬN RA DẤU CHỈ
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hay Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, tên khai sinh của Ngài là Karol Józef Wojtyła. Ngài sinh ngày 18 tháng 5 năm 1920 tại Wadowice, miền nam Ba Lan, cách Kraków 50 cây số. Ngài là vị Giáo Hoàng thứ 264 của Giáo Hội Công Giáo Rôma và là người lãnh đạo tối cao của Vatican kể từ ngày 16 tháng 10 năm 1978. Cho đến khi qua đời, triều đại của Ngài đã kéo dài hơn 26 năm và trở thành triều đại Giáo Hoàng dài thứ ba trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, sau triều đại Giáo Hoàng của Thánh Phêrô trải dài 34 năm và triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX trải dài 32 năm.
Cho đến hiện tại, Ngài là vị Giáo Hoàng duy nhất người Ba Lan và là Giáo Hoàng đầu tiên không phải người Ý trong gần 500 năm, kể từ Đức Giáo Hoàng Ađrianô VI vào năm 1520. Ngài được tạp chí TIME bình chọn là một trong bốn người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20. và cả những năm đầu thế kỷ 21.
Trong triều đại của mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không ngừng mở rộng ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo trong Thế giới thứ ba. Ngài đã thực hiện rất nhiều chuyến tông du hơn 129 quốc gia, Ngài có thể nói được hơn 10 ngôn ngữ, ngoài tiếng Ba Lan còn có tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga và một chút tiếng Việt.
Trong suốt triều đại của mình, Ngài đã lên tiếng phản đối chiến tranh và kêu gọi hòa bình, phản đối chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản, chế độ độc tài, chủ nghĩa duy vật, các phương pháp phá thai, thuyết tương đối, chủ nghĩa tư bản và cách thức chết êm dịu. Đức Giáo Hoàng cũng được coi là một trong những nguồn lực dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Ba Lan và Đông Âu.
Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên công khai xin lỗi về những lỗi lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Ngài cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đứng ra hòa giải với Chính Thống Giáo Đông Phương, Do Thái Giáo và Anh giáo. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đứng ra tổ chức cuộc gặp gỡ với các lãnh đạo của các tôn giáo khác như Phật Giáo, Khổng Giáo, Chính Thống Giáo Đông Phương, Do Thái Giáo, Cao Đài và Hồi Giáo. Ngài còn là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm một ngôi đền Hồi Giáo ở Syria, và là vị Giáo Hoàng đầu tiên tổ chức ra Ngày Giới Trẻ Thế Giới hằng năm, và cũng là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm vùng Thánh Địa Jerusalem.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã được Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI phong là Đấng Đáng Kính vào ngày 19 tháng 12 năm 2009 và phong Chân Phước vào ngày 1 tháng 5 năm 2011. Mặc dù chưa chính thức được phong thánh nhưng vì Ngài là người sáng lập ra Đại hội Giới Trẻ Thế Giới nên Ngài được chọn là một trong những vị Thánh Quan Thầy bảo trợ cho ba kỳ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới liên tiếp tại Sydney năm 2008, Madrid năm 2011, và tại Rio de Janeiro năm 2013. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sẽ được phong thánh vào ngày 27.4.2014 tại Roma.
Ông bảy mươi còn phải học ông bảy mốt. Dân gian đã nói như thế. Kinh nghiệm, tuổi tác, thời gian như là những bài học quý giá và sự kiện thực tế, bổ ích của con người. Nhờ kinh nghiệm mà con người có thể khám phá ra sự thay đổi của thời tiết, đất trời. Ví dụ khi tiên đoán về thời tiết, người ta vẫn thường nói: “cơn đàng đông vừa trông vừa chạy, cơn đàng nam vừa làm vừa chơi”. Và kinh nghiệm này được truyền miệng từ thời này sang thời khác, từ con người này sang con người kia. Thật thế, từ thời xa xưa, người Do thái cũng đã cho thấy kinh nghiệm sống, khả năng nắm bắt quy luật đất trời, đọc ra các dấu chỉ của thời cuộc. Họ rất giỏi thiên văn và những vấn đề liên quan tới kinh nghiệm sống thường ngày.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng đã khen ngợi họ về sự lanh lợi, sự hiểu biết và mau lẹ ứng dụng kinh nghiệm sống của mình trong đời sống hàng ngày. Và Chúa Giêsu cũng mong muốn họ áp dụng, thích ứng những kinh nghiệm dân gian đó vào đời sống đức tin, đọc ra được những dấu chỉ của thời cuộc. Tuy nhiên, kinh nghiệm sống, giỏi thiên văn của người Do thái dường như đã và đang chôn vùi họ trong sự tự tôn, trong sự ích kỷ, trong sự thiển cận của mình. Chúa Giêsu đã mời gọi họ đi xa hơn những kinh nghiệm thường ngày mà họ đang cảm nhận. Ngài gọi mời họ khám phá, đi ra khỏi sự hạn hẹp và dám tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thế nhưng, mặc cho sự gọi mời, mặc cho chân lý vẫy gọi, người Do thái, những kinh sư, những luật sĩ, họ vẫn cứng lòng, chai dạ trước sự thật, trước đức tin.
Ngày nay, có lẽ nhiều người Ki-tô hữu chúng ta cũng đang mang tâm trạng, đi vào vết xe đổ của những người Do thái và luật sĩ xưa. Chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy. Chúng ta là những người Ki-tô hữu chính danh. Chúng tin tin vào Chúa, chúng ta có Chúa ở trong mình. Thế nhưng chính đời sống của chúng ta lại không phản ánh, chiếu tỏa ánh sáng của Chúa cho anh chị em mình. Là người tin có Chúa, thế nhưng khi gặp những nghịch cảnh trong đời sống như ốm đau, thất bại… chúng ta dễ dàng tìm đến thầy bói toán. Là người mang trong mình dòng máu Ki-tô hữu, thế nhưng khi phải đối diện với thử thách, với chủ nghĩa trần tục, chúng ta dễ dàng chao đảo và buông xuôi…
Lời Chúa ngày hôm nay gọi mời chúng ta biết dùng những khôn ngoan, kinh nghiệm của thời cuộc để khám phá, đào sâu và đọc ra được những dấu chỉ của thời đại. Đứng trước trào lưu trần tục hóa, người Ki-tô hữu cảm nhận được tình yêu vĩnh cửu của Chúa dành cho trần gian. Đối diện với sự tha hóa về đạo đức, người Ki-tô xác tín rằng chỉ nơi Chúa sự thật, công lý mới trường tồn, hằng bất biến. Cuối cùng, người Ki-tô hữu luôn được gọi mời sống tâm tình tạ ơn, xác tín vào lòng Chúa xót thương. Dám tin và đọc ra những dấu chỉ, sự gọi mời mà Chúa đã và đang gửi đến cho nhân loại chúng ta. Có như thế, cuộc đời người Ki-tô hữu luôn là một bản trường ca vang xa, tán tụng hồng ân Chúa như lời thánh vịnh đã nói lên rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà. Thợ nề vất vả cũng là uổng công”(Tv 126).
Ta thấy mọi dân tộc đều trân trọng truyền thống, kinh nghiệm sống của cha ông ví dụ như những bài học áp dụng từ lao động, từ thiên nhiên, người Do Thái thời Chúa Giêsu cũng vậy, họ đón nhận kinh nghiệm từ cha ông họ, biết nhìn cảnh sắc đất trời để có những cách đối phó, ứng xử: Nhìn mây đoán được mưa, thấy gió đoán được trời sẽ oi bức…
Nhưng họ lại không nhận biết được dấu chỉ của thời đại: Không nhận ra Chúa Giêsu, Đấng phải đến loan báo Tin Mừng, chữa lành bệnh tật cho người đau yếu, trừ quỷ cho người bị quỷ ám và làm cho kẻ điếc được nghe, kẻ què đi được, người mù được thấy… như lời các ngôn sứ loan báo, nhưng họ lại không nhận ra đó là dấu chỉ của nước Thiên Chúa đang đến.
Cho nên, Chúa Giêsu đã khiển trách họ chỉ biết “nhận xét cảnh sắc đất trời” trong vũ trụ tự nhiên, nhưng lại không nhận biết những dấu lạ của Con Người đang hiện diện.
Chúa Giêsu kêu gọi hãy nhận ra dấu chỉ thời đại qua sự hiện diện của Ngài, mà tỏ lòng sám hối. Khi bất hòa với anh em, phải biết đi tìm sự hòa giải với anh em trước khi đến với tòa xét xử của Thiên Chúa, vị Thẩm Phán Tối Cao, Ngài sẽ xét xử chúng ta theo tình yêu thương mà chúng ta đối xử với anh em.
Thật thế, chúng ta, những môn đệ của Chúa Kitô trong thời đại hôm nay, cần phải tỉnh táo để nhận ra những dấu chỉ, những ý định của Chúa qua từng biến cố hằng ngày để sám hối, canh tân biến đổi chính mình mỗi ngày.
2021
LỬA TÌNH YÊU
21 16 X Thứ Năm Tuần XXIX Thường Niên.
Rm 6,19-23; Lc 12,49-53.
LỬA TÌNH YÊU
Cứ mỗi mùa Olympic, ngọn đuốc Olympic lại được thắp lên từ quê hương của nó là Olympia và được rước xuyên qua nhiều đất nước, nhiều thành phố, để cuối cùng đến với nước chủ nhà đăng cai. Suốt mấy tháng trời đi qua hàng chục ngàn cây số, ngọn đuốc luôn được giữ cháy sáng liên tục. Đặc biệt, tại lễ khai mạc của chính Đại Hội Olympic, ngọn đuốc được rước lên chỗ trang trọng nhất của sân vận động trung tâm, được làm cho cháy bùng lên và được tiếp tục giữ cháy sáng như thế nhiều tuần lễ, cho đến khi bế mạc.
Hình ảnh đó thật đẹp giúp ta hình dung ngọn lửa mà Thầy Giê-su đã đem đến, ném vào mặt đất. Và nhất là, hình ảnh ấy giúp ta đồng cảm với nỗi khát khao cháy bỏng của Thầy Giêsu: “Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”.
Lời Chúa dạy cho chúng ta hôm nay, xét theo lẽ thường trong đời sống thì quả là “chướng kỳ”. Bởi vì con người ở đời thường khi chạy đến với các thần linh là để cầu xin cho được êm ấm, sung túc, được sự may mắn thành công. Và đặc biệt, với những nơi đang xẩy ra chiến tranh, những gia đình đang gặp cảnh bất hòa, xào xáo đều mong mỏi, khao khát cầu xin cho được hòa bình, được yên ổn. Thế nhưng, hôm nay chúng ta lại được nghe Chúa dạy: “Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là sự chia rẽ”. Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?
Một câu truyện kể rằng: Có một chị Tác viên Tin mừng, tìm cách kết thân với một bà bạn ngoại giáo. Sau một thời gian dài thường xuyên lui tới, chị Tác viên nghĩ rằng thời cơ chín mùi đã tới, cần phải giới thiệu Chúa cho người bạn thân thiết này. Vì vậy, vào một buổi sáng đẹp trời, chị quyết định nói về Chúa và rủ bà bạn này theo đạo. Nhưng vừa mới mở lời, thì đã bị bà kia giảng cho một bài xối xả : “Bà đừng có mà nói với tôi về đạo. Bà theo đạo bao nhiêu năm nay, bà đã được gì? Con cái bà thì chả đâu vào đâu, nhà thì cứ vẫn nghèo rớt mùng tơi, chỗ thân thiết tôi mới nói, tôi không theo đạo, nhưng nhà tôi vẫn có của ăn của để, mọi việc trong ngoài vẫn đâu ra đó. Con cái đứa nào cũng thành đạt: đứa bác sỹ, đứa đi du học, nói chung không thiếu thứ gì…”
Thực sự, nếu chúng ta không có một đức tin vững vàng, một đức tin được nung nấu bằng ngọn lửa mến, một đức tin được tôi luyện trong mầu nhiệm Thập giá và Vinh quang của Chúa Ki tô, thì chắc chắn chúng ta sẽ bị lung lạc trước những lý lẽ của thế gian, như chúng ta thấy ở trên, Lời Chúa dạy thật là “chướng kỳ” : Chúa đến không phải để diệt trừ những đau khổ nơi kiếp người, nhưng Chúa đến để sống và chỉ cho con người hãy dùng tình yêu để thánh hóa những đau khổ của mình, biến nó thành con đường cứu độ vinh quang. Chúa Giêsu dạy những ai theo Chúa không phải là để được của cải vật chất, hay để được đi trên con đường trải thảm hoa hồng, nhưng là đi trên con đường hẹp, con đường vâng phục, con đường yêu thương, vác lấy thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa.
Và như thế, theo Chúa không phải là để giầu sang sung túc hay là nghèo khó bần cùng theo cách hiểu ở đời. Nhưng theo Chúa là để Chúa làm chủ cuộc đời mình, điều đó được thể hiện qua chính những chọn lựa của mỗi người trong cuộc sống . Những chọn lựa đó, có khi lại trở thành những giằng co, xâu xé nơi bản thân mỗi người, nơi cuộc sống thường ngày với những người trong gia đình của mình, khi một bên là lời mời gọi của Chúa đi trên con đường hẹp, sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần: biết yêu thương, tha thứ, quảng đại, hy sinh…và bên kia là cách sống của thế gian: tìm kiếm sự dễ dãi, ích kỷ, chấp nhận một sự thỏa hiệp nào đó, miễn sao mình được có lợi.
Cuộc sống Kitô hữu luôn là một cuộc chiến đấu: Làm sao để chúng ta có thể trung thành cho những lựa chọn của mình? Thưa, Chúa đã ban cho chúng ta ngọn lửa mến của Chúa Thánh Thần . Ngọn lửa hằng cháy nơi Trái Tim Chúa, hướng lòng về ơn Cứu Độ, đó là cái chết thập giá của Chúa Giêsu vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu cũng mong muốn ngọn lửa đó được cháy mãi nơi tâm hồn mỗi người chúng ta, với ngọn lửa ấy, chúng ta sẽ luôn can đảm và trung thành đi trên con đường Chúa đã đi.
Chúa còn mong muốn chúng ta phải làm cho ngọn lửa đó phải bùng cháy lên. Có thể giờ đây, ngọn lửa Thánh Thần, ngọn lửa Tình yêu, ngọn lửa Chân lý đang còn leo loét, thậm chí đã tắt lịm hay chưa cháy lên trong lòng biết bao người. Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta – khi thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng – là luôn cầu xin Chúa Thánh Thần cho Lửa Tình yêu bùng cháy lên trong chúng ta, bùng cháy lên trong Giáo Hội Chúa, để lan tỏa ngọn lửa đó cho những người đã mất lửa, hay những người chưa có lửa. Để, nói như thánh Gioan Thánh giá: “nếu nơi nào không có tình yêu, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa tình yêu, và ta sẽ nhận được ánh sáng của tình yêu. Khi cuộc đời chấm dứt, chúng ta sẽ được xét xử căn cứ vào tình yêu”.
Ngọn lửa mang tên Giê-su là lửa yêu thương, lửa hoà bình. Thế nhưng, cuộc sống này còn quá nhiều ghét ghen, đố kỵ. Người ta vẫn còn tranh chấp, loại trừ nhau – đôi khi ngay trong một cộng đoàn, một gia đình. Hôm nay, Thầy Giê-su vẫn cháy bỏng nỗi khát khao “phải chi lửa ấy đã bùng lên” trong Giáo Hội và trong thế giới này.
2021
Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
20 15 X Thứ Tư Tuần XXIX Thường Niên.
Rm 6,12-18; Lc 12,39-48.
Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Các Tông đồ không ngừng tranh luận với nhau về quyền bính; cái giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông, ai trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao trong Vương Quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập. Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền bính là để phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành, càng phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình để sống cho người khác.
Do phép Rửa, người Kitô hữu chúng ta được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua, nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương với phục vụ. Người ta không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước từ phục vụ.
Chúa Giêsu nói đến hai thái độ cần phải có của người quản gia là tỉnh thức và trung tín “Hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Ông bà ta thường bảo: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Tiền ta có, bao giờ ta cũng ý thức giữ gìn nó cẩn thận, kẻo bị đánh cắp.
Tiền bạc thế gian tuy quý giá, nhưng so với kho tàng hạnh phúc thiêng liêng Nước Trời mà Chúa ban, thì nó chẳng đáng là bao, vì có lời Chúa rằng: Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời, nào được ích gì! Nếu tiến bạc thế gian ta còn biết giữ gìn cẩn thận như khúc ruột của mình, thì kho tàng thiêng liêng Nước Trời vô cùng quý giá mà Chúa ban, làm sao ta có thể thờ ơ hay coi thường cho được!
Satan như kẻ trộm ban đêm, luôn rình rập để đánh cắp đức tin của ta và dụ dỗ linh hồn ta thỏa hiệp với thế gian, thỏa hiệp với chính xác thịt ta để ta xa rời Thiên Chúa là nguồn mạch mọi kho tàng hạnh phúc thiêng liêng, đời đời. Nó rình chờ và dụ dỗ ta tin rằng ta có thể tìm kiếm kho tàng hạnh phúc quý giá ở ngoài Thiên
Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu nói về hình ảnh của những người quản gia trung tín đang chờ đợi chủ trở về. Thật là phúc cho họ vì được ông chủ tín nhiệm do họ luôn làm tốt nhất bao nhiêu có thể công việc được trao phó trong khả năng của mình cho dù ông chủ có vắng nhà. Ông chủ sẽ thưởng công xứng đáng khi đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Tuy nhiên, thật vô phúc cho những quản gia bất trung, gian ác khi chủ vắng nhà thì “đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa”. Ông chủ trở về “vào lúc hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết”, khi ấy người đó sẽ phải lãnh nhận hậu quả dành cho những kẻ thất tín.
Mỗi người đều là những quản gia được Thiên Chúa trao phó cho những công việc theo khả năng của mình. Và Chúa muốn chúng ta chu toàn công việc này trong sự khôn ngoan và trung tín. Sự khôn ngoan và trung tín ở đây là chúng ta phải biết được ý chủ mà chuẩn bị sẵn sàng thi hành ý muốn của chủ. Để nhận ra được ý chủ mà thi hành thì quả là khó khăn và trung tín trong công việc được trao phó lại càng khó khăn hơn nhất là khi chủ vắng nhà. Do đó, thái độ của mỗi người quản gia cần phải có là yêu mến, kính phục chủ của mình và luôn tận tụy trong công việc phục vụ với ý thức khiêm tốn của người đầy tớ. Có như vậy, chúng ta mới đang tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi chủ trở về.
Lời Chúa nhắc nhớ chúng ta hãy canh thức, là đưa chúng ta trở về với sự thật của cuộc sống, đó là chúng ta phải luôn sẵn sàng, để trả lại cho Chúa sự sống của chúng ta. Đó là một sự thật hay bị quên lãng, vì chúng ta quá bận rộn, quá bận tâm và quá gắn bó với những gì trong cuộc đời này. Tuy nhiên, mọi sự không tồn tại mãi, nhưng sẽ qua đi, chúng ta cũng không tồn tại mãi, nhưng có một ngày chúng ta sẽ qua đi, và có thể qua đi bất cứ lúc nào.
Và trong khi chờ đợi và canh thức, Đức Giê-su mời gọi chúng ta sống như người tôi tớ trung tín và khôn ngoan: người tôi tớ khôn ngoan là người hiểu ra rằng Chúa có thể đến bất cứ lúc nào; và vì thế, người này lúc nào cũng trung tín với Chúa, ngang qua việc khiêm tốn và kiên nhẫn “đúng giờ và đúng lúc”, thi hành sứ mạng được giao. Và như thế, Chúa có thể đến bất cứ lúc nào và ban phúc cho người tôi tớ. Và lời Chúa cũng mời gọi chúng ta đừng trở thành người tôi tớ bất trung và ngu dại: đó là người tôi tớ nghĩ trong lòng một cách sai lầm rằng: còn lâu chủ ta mới về! Và vì thế, anh ta tự biến mình thành chủ nhân, chiều theo lòng ham muốn, sống một cuộc sống bạo lực, lệch lạc và bê tha.
Vậy, chúng ta được mời gọi canh thức, để chờ đợi ngày Chúa đến. Nhưng thực ra Chúa vẫn đến với chúng ta mỗi ngày trong Thánh Lễ, qua những ân huệ và biến cố của từng ngày sống. Do đó, chúng ta có thể thực tập đón Chúa đến mỗi ngày, để cho lúc Chúa thực sự đến, chúng ta không còn bị bất chợt và sợ hãi; nhưng chúng ta đón mừng Chúa đến trong niềm vui của đợi chờ, giống như niềm vui được lập lại hằng năm của thời gian chờ đợi Chúa đến lần thứ nhất, trong đêm Giáng Sinh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức. Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chính là phục vụ. Càng phục vụ, họ càng nhận ra được Nước Chúa đang đến; càng phục vụ, họ càng nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua Bí Tích Rửa Tội là để san sẻ; tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban. Sự thức tỉnh đích thực của người Kitô hữu chính là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, và đó cũng là hạnh phúc đích thực, vì “cho thì có phúc hơn là nhận”. Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh trong hướng đi ấy.
Chúa đang khẩn thiết, hối thúc chúng ta phải tỉnh thức với một đức tin vững vàng rằng Thiên Chúa đang đến để dẫn đưa ta tới nguồn mạch sự sống đời đời. Nếu ta mất cảnh giác với xác thịt, thế gian và ma quỷ thì rồi cũng sẽ có ngày ta thỏa hiệp và vùi dập tâm hồn mình trong những đam mê thế gian mà lãng quên kho tàng hạnh phúc thiên đàng.