2021
Sự Mù Lòa Thiêng Liêng
15 11 X Thứ Hai Tuần XXXIII Thường Niên.
(Tr) Thánh An-béc-tô Cả, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
1Mcb 1,10-15.41-43.54-57.62-64; Lc 18,35-43.
Sự Mù Lòa Thiêng Liêng
Thánh Albertô Cả qua đời tại Cologne ngày 15 tháng 10 năm 1280, và lễ nhớ ngài là ngày giỗ của ngài. Ngài được Đức Giáo Hoàng Grégoire XV phong chân phước ngày 15 tháng 9 năm 1622, và được Đức Piô XII phong thánh với tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh ngày 16 tháng 12 năm 1931. Ngài cũng là “thánh bổn mạng của tất cả những ai chuyên nghiên cứu các khoa học vật lý và tự nhiên” (Piô XII).
Thánh Albert sinh tại Lauingen (Bavière), trên bờ sông Danube, khoảng năm 1206. Cha ngài là một sĩ quan cận vệ của vua Fréderic II. Năm 1222, chàng thanh niên Albert vốn tỏ ra có nhiều đức tính, đặc biệt óc quan sát và sự ham thích thí nghiệm, nên được gửi đến thành phố đại học Bologne. Tại đây ngài gặp vị tu sĩ lỗi lạc Jourdain de Saxe, bề trên tổng quyền Dòng Đaminh, biệt danh là “tiếng còi hụ của các trường học” và ngài xin gia nhập giòng Anh Em Thuyết Giáo.
Năm 1229, tại Padua, thày nhận áo dòng thánh Đa-minh từ chính cha Jourdain de Saxe, và cha nhận ra thày là một con người “thực sự cao quí, cả thể chất lẫn tinh thần” (Thư gửi Diane d’Andalo).
Năm 1228, thầy Albert sống tại Cologne, thành phố đại học, tại đây thầy vừa dạy học vừa theo đuổi việc nghiên cứu. Nhận thấy rõ sự xâm nhập ồ ạt của khoa học Hi Lạp và Ả Rập ở phương Tây, “Thầy Albert” là người tiên phong lao mình vào việc nghiên cứu các bản văn ─ đã dịch sang tiếng la tinh ─ của ba “triết gia – y sĩ” lỗi lạc trong việc truyền bá tư tưởng Aristote: Avicenne, Averroes, và Maimonide. Thế là Aristote được thánh Albert đánh giá là “triết gia siêu hình tinh tế”, và không bị phủ nhận, trái lại còn được chấp nhận và “Kitô hóa”. Triết học Aristote bấy giờ trở thành “nữ tì” của tín lý Kitô giáo, vì theo Maimonide trong Hướng dẫn những người lầm lạc, thì “suy tư triết học không mâu thuẫn với mạc khải, trái lại còn giúp hiểu mạc khải rõ hơn.”
Từ 1245 đến 1248, thầy Albert giảng dạy ở Paris và tiếp tục việc học hỏi và nghiên cứu, luôn luôn trung thành với việc suy gẫm mỗi ngày một trang Kinh Thánh. Cho tới hôm nay, nhiều nơi trong thủ đô còn gợi nhớ đến vị thánh tiến sĩ: công trường Maubert (viết tắt của chữ Magister Albertus), đường Maỵtre-Albert… Trong số các học trò của ngài có thánh Thomas d’Aquin, vị “tiến sĩ thiên thần” tương lai.
Cuối năm 1248, thánh Albert trở về Cologne, tại đây ngài lập Trường Thần học Cao cấp (Studium Generale). Thánh Thomas theo ngài làm học trò, được ngài gửi sang Pháp với lời nhắn nhủ sau: “Bây giờ con hãy trở về Paris, vì con thông minh hơn thầy.” Có thiên khiếu hoà giải, thánh Albert đứng ra làm trọng tài cho nhiều vụ xung đột, trong đó có cuộc xung đột giữa thành phố Cologne với vị tổng giám mục của ngài. Năm 1254, ngài được chọn làm bề trên tỉnh dòng Đaminh vùng Teutonie, gồm nước Đức, Alsace, Bỉ và Hà Lan. Khi ấy ngài phát động phong trào nghiên cứu. Ngài nói với các hội viên tu sĩ của ngài: “Anh em hãy là ánh sáng thế gian và nhà vô địch đức tin”. Ngài cũng trông coi việc tuân giữ hiến pháp Dòng và không ngần ngại ra những hình phạt khi cần.
Năm 1256, thầy Albert đến thành phố Anagni thuộc quyền giáo hoàng, gần Rôma, để bênh vực trước Đức giáo hoàng Alexandrô IV cho vụ kiện các Dòng Khất Sĩ bị tố cáo bởi các giáo sĩ “triều” cho rằng họ là những kẻ lừa đảo khi dám kết hợp việc nghiên cứu với sự nghèo khó. “Các ông là tai ương của thời đại mới!” nhà thần học của Paris tên là Guillaume de Saint-Amour tuyên bố. Thánh Albert và thánh Bonaventura đáp lại: “Trái lại, chúng tôi là niềm hi vọng cho thời đại mới!” Đức giáo hoàng xử các “khất sĩ” thắng kiện, và phong Albert làm giám mục Ratisbonne. Nhưng đây là một thất bại! Sau hai năm giám mục (1160-62), ngài từ chức.
Ở tuổi 60, thầy Albert tiếp tục viết các tác phẩm và sẵn sàng cho các hoạt động truyền giáo. Năm 1263, ngài thất bại trong cố gắng phát động cuộc thập tự chinh thứ tám trong vùng nói tiếng Đức, sau đó ngài lại tiếp tục việc giảng dạy: ở Wurzbourg (1264), ở Strasbourg (1267) và ở Cologne (1270). Năm 1274, là năm thánh Thomas Aquinô qua đời, thánh Albert tham dự Công đồng Lyon, tại đây “Người phương Đông và phương Tây ─ theo ghi nhận của vị thánh tiến sĩ – cùng nhau hát chung Kinh Tin Kính bằng tiếng la tinh rồi bằng tiếng Hy lạp”. Năm 1277, khi giám mục Tempier của Paris kết án những luận đề của thánh Thomas, thánh Albert trở lại Paris để biện hộ cho học trò của mình. Thánh nhân tuyên bố về thánh Thomas Aquinô như sau: “Ngài vẫn đang sống giữa chúng ta bằng sự uyên bác và thánh thiện của ngài.”
Những năm cuối đời, thánh Albert Cả mắc những chứng bệnh nghiêm trọng: mắt bị mù và mất trí nhớ. Ngài luôn ở nơi cô tịch “để cầu nguyện và ca hát”, theo lời kể của người viết sử, H. Hedford. Ngài qua đời tại Cologne ngày 15 tháng 11 năm 1280, hưởng thọ gần 80 tuổi, để lại mọi tài sản của mình cho các công cuộc từ thiện.
Con người đã được Thiên Chúa sáng tạo đặt vào trong hiện hữu và cuối cùng sẽ trở về cùng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Trong thời gian chờ đợi ngày trở về này, mỗi người chúng ta phải sống như thế nào? Chúng ta hãy đối chiếu cuộc sống chúng ta với Lời Chúa, nhưng không phải chỉ đối chiếu, mà còn cần phải sửa chữa, vứt bỏ những gì không phù hợp với lời dạy của Chúa.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người mù thành Giêricô. Ðây không phải là dụ ngôn, mà là biến cố có thật. Chúng ta có thể quan sát hai thái độ thực hành. Trước hết là thái độ của những người cản trở không cho anh mù gặp gỡ Chúa, những người này cho rằng chỉ có họ mới được quyền đi bên cạnh Chúa. Thật ra, trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, trên bình diện thông ban ân sủng, cứu rỗi, con người không thể cậy dựa vào quyền lợi của mình mà đòi hỏi Thiên Chúa. Tất cả đều là ân sủng nhưng không của Thiên Chúa, không ai có quyền dành lại ân sủng đó cho riêng mình.
Thái độ thứ hai chúng ta có thể nhận thấy nơi anh mù. Ý thức thân phận của mình, anh không có gì để khoe khoang hay đòi hỏi, nhất là đòi hỏi Thiên Chúa, mà anh chỉ khiêm tốn cầu xin: “Lạy ông Giêsu, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi”. Sự mù lòa thể xác và nghèo nàn vật chất không phải là một ngăn trở con người gặp gỡ Thiên Chúa và lãnh nhận ơn lành của Ngài. Từ ơn lành cho thể xác mù lòa: “Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được”, anh mù đã tiến thêm một bước quan trọng, như tác giả Luca ghi lại: “Tức khắc anh thấy được và theo Chúa, vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân liền ca ngợi Thiên Chúa”. Anh mù đã sống trọn ơn gọi Kitô của mình; anh đã thực hiện lời Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ Ngài: “Ánh sáng của các con phải chiếu soi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc lành các con làm, mà tôn vinh Cha các con Ðấng ngự trên trời”.
Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh và giải thoát chúng ta khỏi sự mù lòa thiêng liêng, để chúng ta luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa và chiếu tỏa ánh sáng ấy trước mặt mọi người.
2021
HÃY KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
13 09 X Thứ Bảy Tuần XXXII Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
Kn 18,14-16;19,6-9; Lc 18,1-8.
HÃY KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
Lời cầu nguyện cũng phải xuất phát từ một tấm lòng chân thành, mong điều tốt đẹp đến với bản thân và những người xung quanh. Có nhiều người chỉ nghĩ đến Chúa khi cầu nguyện cho mình trúng số độc đắc, hoặc thăng quan tiến chức, hay thắng kiện trong những vụ tranh chấp. Cũng có người cầu nguyện mong điều ác xảy đến cho một người đang thù ghét mình.
Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về sự cầu nguyện, dạy các tông đồ cầu nguyện, đặc biệt trong kinh Lạy Cha. Chắc chắn các Tông đồ cũng gặp khó khăn trong việc cầu nguyện, thậm chí các ông có thể “nản chí”, nên hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên các ông: ”Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”(Lc 18,1). Phải cầu nguyện liên tục và kiên trì.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta phải kiên trì cầu nguyện noi gương bà goá bị oan ức đã kiên trì xin ông quan toà “vốn không tin Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người đời” minh oan cho bà. Nhờ biết kiên trì mà cuối cùng bà đã được ông thẩm phán minh oan.
Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giêsu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).
Không được đòi hiệu quả tức thời: Khi cầu nguyện, chúng ta tin chắc Chúa sẽ đáp lời cầu xin của chúng ta. Nhưng Ngài không ban lập tức theo ý riêng của chúng ta, mà ban vào thời gian và cách thức nào đó có lợi nhất cho chúng ta. Thời gian Chúa nhậm lời có thể kéo dài lâu hơn chúng ta nghĩ và cách Ngài ban ơn cũng có thể khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng thích hợp nhất và hữu hiệu nhất cho phần rỗi đời đời của chúng ta.
Phải biết cầu xin theo ơn Thánh Thần soi dẫn: Thánh Phaolô đã dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta… theo đúng thánh ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Như thế, cầu nguyện không phải là chỉ biết xin ơn cách vụ lợi của chúng ta, cũng không phải là bản liệt kê những nhu cầu để yêu cầu Chúa ban theo ý của ta. Nhưng cầu nguyện là cuộc đối thoại với Thiên Chúa, trong đó, chúng ta kể ra các nhu cầu về thể xác và tinh thần của mình, và xin Ngài ban ơn theo thánh ý của Ngài, noi gương Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Tuy nhiên con người vốn yếu đuối dễ nản chí, nên Đức Giêsu đã cảnh báo: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18,8).
Hẳn ta còn nhớ câu chuyện xảy ra trong thời kỳ Xuất Hành: khi dân Ítraen vượt qua sa mạc trong thời gian 40 năm để về tới Đất Hứa dưới quyền lãnh đạo của ông Môsê. Khi tới nơi, dân Ítraen còn phải giao chiến với các dân đang định cư trong miền đất đó.
Trong một trận chiến với quân Amaléc, ông Môsê đã trao trách nhiệm cho tướng Giôsuê trực tiếp giao chiến, còn ông Môsê thì ở trên núi giang tay cầu xin Đức Chúa ban ơn trợ giúp. Bao lâu Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Ítraen thắng thế; Ngược lại khi ông mỏi mệt xuôi tay xuống thì quân Ítraen lại bị thua. Bấy giờ người ta để Môsê ngồi lên một tảng đá, rồi cử hai ông Aharon và Hur đỡ hai tay ông Môsê, để ông có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ. Cuối cùng quân Ítraen đã toàn thắng. Qua đó cho thấy chiến thắng của quân Ítraen không những do sức mạnh chiến đấu của họ, mà còn nhờ vào sự phù trợ đắc lực của Đức Chúa do ông Môsê cầu xin.
Cuộc đời thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu kính ngày 1/10 hằng năm cũng cho thấy sự cần thiết phải cầu nguyện cho công cuộc rao giảng Tin Mừng. Từ năm 15 tuổi vào dòng kín và trong suốt chín năm tu luyện, Teresa đã không giảng đạo cho một người nào. Hằng ngày chị chỉ âm thầm hy sinh hãm mình để cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh, thế mà Hội Thánh đã đánh giá cao lời cầu nguyện của Têrêsa, tôn ngài lên làm thánh tiến sĩ của Hội Thánh và đặt ngài làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê, là người đã dành suốt cả đời đi giảng đạo tại các miền đất thuộc Châu Á.
Thế nhưng rồi chúng ta cũng phải hiểu rằng đôi lúc Chúa trì hoãn, và việc trì hoãn đáp ứng lời cầu xin của chúng ta cũng có lý do mà chỉ Ngài biết. Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Ngài. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Ngài ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu cho mọi người.
Người có tâm tình cầu nguyện không chỉ xin những ơn cho riêng mình, nhưng còn để ý đến lợi ích của cộng đoàn và những người xung quanh. Đó là lời khuyên của Thánh Phaolô đối với môn sinh của mình là Timôthê. Ngài khuyên ông, hãy can đảm cậy trông, hãy kiên trì nhẫn nại để rao giảng Lời Chúa, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện, nhằm mục đích giúp cho các tín hữu được trưởng thành trong đức tin.
2021
NGÀY CÁNH CHUNG
12 08 Đ Thứ Sáu Tuần XXXII Thường Niên.
Thánh Giô-sa-phát, Giám mục, Tử đạo, lễ nhớ.
Kn 13,1-9; Lc 17,26-37.
NGÀY CÁNH CHUNG
Thánh Josaphat chịu tử đạo tại Vitebsk (Biélorussie) ngày 12 tháng 11 năm 1623, được phong thánh năm 1867 và được ghi vào niên lịch năm 1882. Lễ nhớ ngài làm chúng ta sống lại một trong những trang sử bi hùng nhất của lịch sử đại kết.
Thánh Josaphat tên thật là Jean Kuncewycz, sinh khoảng năm 1580 ở Wolodymyr (Ucraina) trong một gia đình quí tộc theo chính thống giáo, từ tuổi trẻ đã gắn bó với Giáo Hội Ucraina hiệp nhất với Rôma, sau khi ngài bỏ nghề buôn bán tại Vilna (Lituanie), trung tâm văn hóa và tôn giáo của dân tộc Ruthènes. Dân tộc này đã được rao giảng Tin Mừng bởi người Hi Lạp, nhưng sau cuộc ly khai của Photius (thế kỷ X) và của Michel Cérulaire (1054), họ bỏ Giáo Hội Rôma để theo phái ly khai phương Đông.
Jean Kuncewycz tin rằng chỉ có các tu sĩ khổ hạnh và những người thấm nhuần phụng vụ mới có thể đưa các anh em Ruthènes ly khai trở về hiệp nhất với người công giáo. Từ thế kỷ XIV, người công giáo đã thiết lập những giáo phận la-tinh ở Ruthènes.
Năm 1595, một thượng hội đồng miền đã diễn ra tại Brest-Litovsk (Biélorussie) và quyết định sự hiệp nhất của Giáo Hội Ruthènes với Rôma, với sự phê chuẩn của Đức giáo hoàng Clément VIII. Năm 1604, Jean gia nhập dòng thánh Basilius, tại tu viện Chúa Ba Ngôi ở Vilna, tại đây ngài lấy tên là Josaphat. Từ lúc đó, ngài hoàn toàn dấn thân vào việc dẫn đưa các anh em ly khai trở về hiệp nhất; ngài viết một khảo luận hộ giáo (1617), trong đó ngài thu thập những bản văn hoàn toàn bằng tiếng Slavơ có nội dung bênh vực sự hiệp nhất Hội Thánh. Đây là thời kỳ vùng đất Ruthènes bị phân chia thành ba Giáo Hội: Giáo Hội công giáo theo nghi lễ la-tinh, Giáo Hội ly khai Hy lạp với các thế lực liên minh được Constantinople và Mascơva ủng hộ, và sau cùng là Giáo Hội công giáo theo nghi lễ Hy lạp.
Thánh Josaphat là tập sinh đầu tiên của tu viện Chúa Ba Ngôi, là tu viện đầu tiên của dòng thánh Basilius gắn bó với sự tái thống nhất với Giáo Hội Rôma. Sau đó ngài trở thành tu viện trưởng của tu viện này. Được phong giám mục của Polotz (1617), ngài sống trong một xứ sở có rất đông người ly giáo. Vì thế trong nhiều năm, ngài dấn thân không mỏi mệt cho việc rao giảng, cải cách, tổ chức các thượng hội đồng và cũng ra những hình phạt chống lại những giáo sĩ bất xứng.
Nhưng tất cả những hoạt động này đã khơi dậy những phản ứng quyết liệt của giới quí tộc Ruthènes, vì họ thấy bị đe doạ mất hết những đặc quyền của giới quí tộc nhờ gắn liền với nghi lễ quốc gia, và họ chống đối việc du nhập các tập tục la-tinh; ngài cũng còn bị dân chúng chống đối, vì không thích có những thay đổi.
Cuộc tấn công chống lại thánh Josaphat khởi sự từ giáo chủ của Giêrusalem, người Byzantin, Théophane III; vị này đã đến Ucraina năm 1621 và đã truyền chức các giám mục ly giáo cho mọi giáo phận của Ruthènes. Tại Léon Sapieha, ông đã liên kết với thủ tướng của Lituanie chống lại thánh Josaphat. Thế là thánh nhân bị tố cáo là phá hoại hoà bình xã hội, bị sát hại một cách rất dã man đang khi ngài trở về nhà, sau khi tham dự phụng vụ ở nhà thờ lớn Vitebsk trong một cuộc kinh lý mục vụ. Thi thể ngài bị ném xuống sông Dvina.
Chúng ta đang sống trên trần thế, đang hoạt động, đang làm việc, đang vui chơi, đang nghỉ ngơi,… Những gì được gọi là “đang” ấy sẽ có ngày chấm dứt, kết thúc tất cả. Đó là ngày cánh chung.
Chúa Giêsu mô tả ngày chấm dứt cuộc sống trần thế của cuộc sống con người bằng câu chuyện thời ông Noe với trận lụt hồng thủy, hoặc câu chuyện lửa đỏ diêm sinh thiêu rụi tất cả thành Sôđôma vào thời ông Lót trong Cựu Ước…thật bất ngờ, ghê gớm và đáng sợ vào ngày Chúa tái lâm để xét xử con người trên trái đất.
Sự việc xảy ra thật bất ngờ đến độ người ta đang vui chơi, ăn uống, cưới vợ gả chồng,…thì lũ lụt xảy đến, mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống.
Sự việc thật bất ngờ khi mà hai người đàn bà đang xay cùng một cối bột, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hoặc hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.
Những điều đó sẽ xảy ra trong ngày Chúa quang lâm, hầu cảnh giác con người hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Và số phận của con người tùy thuộc vào chính cuộc sống của họ trên trần gian : kẻ lành được chọn, kẻ dữ sẽ bị loại trong ngày quang lâm.
Ngày cánh chung sẽ đến, nhưng bao giờ xảy đến không ai biết. Nhưng Chúa cho sự việc xảy ra như thế nhằm đốc thúc con người đừng quá chăm lo cho cuộc sống hiện tại, đừng quá chểnh mảng, lơ là trong công việc chuẩn bị cho ngày cánh chung, mà cần phải biết chăm lo cho cuộc sống mai sau bằng thái độ chuẩn bị và sẵn sàng.
Hôm nay, Chúa cũng nhắc nhở chúng ta, dừng quá bám víu vào thế gian, hoặc vun quén cho sự sống thế tục của mình, nhưng phải lo đến cuộc sống đời đời của mình bằng việc sống đẹp lòng Chúa hơn.
Số phận của chúng ta được định đoạt trong ngày phán xét : được chọn hay bị loại. Tất cả tùy thuộc vào thái độ sống hiện tại của chúng ta : tin hay từ chối đức tin, yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân hay khước từ tình yêu với Chúa và với tha nhân.
Sự hiện của Chúa Giêsu trong cuộc sống mỗi người chúng ta, chính là Thiên Đàng mà chúng ta đang mong ước được vui hưởng.
Những người đã học hiểu về mầu nhiệm Nước Trời, họ sẽ nên những người môn đệ đích thực. “bất kỳ kinh sư nào đã học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ”. Những ai đã được học hỏi về Nước Chúa, thì họ sẽ nên những thầy dạy cho người khác, kho tàng mà họ có không chỉ là những điều luật của Cựu ước (Thập giới) nhưng có cả tinh thần mới của Tân Ước.
Có kho tàng ấy, người thầy dạy không còn chất lên vai người khác những gánh nặng của lề luật, nhưng cùng với người khác sống tinh thần của luật, đó là thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa, điều mà chính Ngôi Hai Thiên Chúa đã nêu gương.
Trong tâm tình tạ ơn, chúng ta hạnh phúc được gọi là người con của Chúa. Mỗi người chúng ta trong niềm tin tưởng vào sự quan phòng yêu thương của Chúa. Chúng ta hãy mau mắn đáp trả Lời Chúa đang kêu mời chúng ta tiếp bước hành trình truyền giáo, đem Chúa đến cho mọi người chung quanh chúng ta. Để mỗi người, cùng tất cả anh chị em sẽ được các Thiên Thần sẽ chọn lựa đem về hưởng hạnh phúc đời.
2021
TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA Ở GIỮA CÁC ÔNG
11 07 Tr Thứ Năm Tuần XXXII Thường Niên.
Thánh Mac-ti-nô thành Tua (Tours), Giám mục, lễ nhớ.
Kn 7,22-8,1; Lc 17,20-25.
TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA Ở GIỮA CÁC ÔNG
Thánh Martin de Tours mất ngày 8 tháng 11 tại Candes (Touraine). Lễ nhớ được mừng từ thế kỷ VIII, vào ngày 11 tháng 11, là ngày ngài được an táng tại thành phố Tours. Nhưng ở Gaule, việc tôn kính ngài đã phổ biến từ thế kỷ V.
Tên gọi Martin lấy từ tiếng Latinh Martinus = thần Marx nhỏ, thần chiến tranh. Theo ông Sulpice Sévère († 420), học trò và người viết tiểu sử ngài, ngài sinh tại Pannonie (Hungari) khoảng năm 317. Là con một sĩ quan Rôma, ngài được học hành tại Pavia (Ý) và được chiêu mộ vào đội cận vệ hoàng gia. Tuy cha mẹ ngài là dân ngoại, ngay từ tuổi nhỏ, ngài đã xin học đạo. Được gửi sang Gaule, người lính trẻ này khi đến cổng thành Amiens đã chia sẻ áo choàng của mình cho một người nghèo. Đêm hôm sau –Sulpice Sévère thuật lại– thánh Martin “thấy Đức Kitô mặc một nửa tấm áo choàng mà ngài đã phủ lên người nghèo khổ kia. Và ngài nghe Chúa Giêsu nói với các thiên thần bằng một giọng nói vang dội: Trong khi còn là người dự tòng, Martin đã mặc cho Ta tấm áo này.”
Ngài rời bỏ binh nghiệp và chịu phép rửa tội năm 20 tuổi, rồi trở thành học trò của thánh Hilariô, giám mục thành Poitiers. Giám mục Hilariô ban chức trừ tà cho ngài. Khi giám mục của ngài bị phe lạc giáo Arius bắt lưu đày, thánh Martin đã đến tận Pannonie để cải hóa mẹ ngài theo đạo. Sau đó ngài trở lại Gaule qua vùng Illyria và Bắc Ý rồi đến Poitiers với thánh Hilariô, lúc đó đã từ nơi lưu đày trở về.
Ở Ligugé, trong vùng Vienne, ngài lập tu viện đầu tiên ở Gaule. Nhờ lời cầu nguyện, ngài làm cho một người dự tòng đã chết sống lại, nhờ đó danh tiếng ngài lan rộng khắp vùng. Nhiều môn đệ đi theo ngài.
Thánh Martin được chọn làm giám mục thành Tours năm 371: nhiệm kỳ giám mục của ngài đánh dấu sự phát triển của Kitô giáo trong vùng Gaule phía tây. Vì có ơn gọi tu sĩ, ngài lập gần thành phố Tours một tu viện tên là Marmoutier; từ đó ngài thường xuyên cư ngụ trong tu viện này. Các môn đệ qui tụ quanh ngài rất nhiều, trong đó phải kể đến Paulin của Bordeaux, sau này là giám mục Nole, và nhà chép sử Sulpice Sévère, tác giả cuốn Tiểu sử Thánh Mác-ti-nô, tác phẩm có công lớn trong việc phổ biến tiểu sử của vị thánh thành Tours. Công cuộc truyền giáo của thánh Martin mở rộng ra bên ngoài giáo phận. Ngài rảo qua khắp vùng Touraine, Berry, Auvergne. . . Người ta gặp ngài ở Autun, ở Paris. Trong những vùng đồng quê, ngài đã tổ chức những giáo xứ đầu tiên và nhiều tu viện được thiết lập với các tu sĩ truyền giáo theo gương thánh Martin, vừa chăm lo đời sống tu đức, vừa hăng say hoạt động rao giảng tin mừng.
Là con người hoà bình, thánh Martin kết thúc cuộc đời ở Candes, gần thành phố Tours, nơi ngài đến để hoà giải hàng giáo sĩ đang chia rẽ. Hôm đó là ngày 8 tháng 11 năm 397. Ngài được an táng ở Tours, thành phố có toà giám mục của ngài, và phần mộ này đã trở thành trung tâm hành hương đầu tiên ở Gaule. Thánh Martin là một trong số các thánh đầu tiên được tôn kính mà không phải là một thánh tử đạo. Người ta kể ra rất nhiều phép lạ ngài đã làm; không vị thánh nào trong thời Pháp cổ xưa nổi tiếng như ngài. Bốn ngàn ngôi nhà thờ được dâng kính ngài và gần năm trăm làng mang tên của ngài.
Các ảnh thánh về ngài rất nhiều, thường vẽ ngài dưới dạng một lính lê dương Rôma hay một giám mục với mũ gậy, hay như một người làm phép lạ. Truyền thống dân gian đã giữ lại kỷ niệm về ngài qua lễ hội Mùa hè của lễ thánh Martin: người ta đặt tên như thế cho những ngày đẹp trời cuối cùng mà người ta thường tổ chức quanh ngày 11 tháng 11.
“Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” Hầu hết Người Ki-tô hữu cầu nguyện bằng kinh lạy cha chí ít một tuần một lần khi tham dự thánh lễ Chúa nhật. Và lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng câu:
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước (triều đại) Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. (x. Mt 6, 9 – 11; Lc 11,2)
Thường thì người ta cầu nguyện, người ta van xin khi khát khao, mong mỏi hoặc cảm thấy cấp thiết được đáp ứng một điều gì đó. Lời cầu nguyện đúng nghĩa phải là lời cầu nguyện phát xuất từ thẳm sâu tâm hồn con người; không câu nệ, không máy móc, không cảm thấy áp lực hoặc bị cưỡng ép. Chúng ta thường đọc kinh lạy Cha với tâm tình nào?
Phải hiểu, phải cảm được sự tối cần thiết của nước Thiên Chúa trong cuộc sống con người thì con người mới khát khao mong mỏi ‘Nước Chúa hiển trị’. Nhưng trình thuật Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su cho chúng ta biết nước Thiên Chúa đã đến rồi: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (c. 21b). Vậy chúng ta cần hiểu triều đại Thiên Chúa như thế nào?
Cha Tu viện trưởng Pierre, một người nổi tiếng trong việc chăm sóc giúp đỡ người nghèo ở Pa-ri, sống trong một tu viện rộng lớn với mười hai anh em. Vào một đêm trung tuần tháng giêng, khi băng giá và tuyết trắng bao phủ khắp mặt đất, một gia đình nghèo rét mướt bấm chuông cửa và xin cho được nương nhờ một góc nào đó trong tu viện để ngủ, nếu không thì tất cả gia đình họ sẽ bị chết trong giá rét. Cha Bề trên Pierre rất băn khoăn vì mỗi phòng trong căn nhà đều đã đầy ắp người. Chỉ còn mỗi ngôi nhà nguyện nhỏ là còn trống. Vì vậy, cha đành kiệu Thánh Thể từ bàn thờ lên đặt trên căn gác mái, nơi mà không ai có thể ở được vì rét lạnh. Cha đã sắp xếp và đưa gia đình nghèo tội nghiệp kia vào ngủ trong căn phòng cầu nguyện duy nhất của Tu viện.
Sáng hôm sau, các anh em vô cùng ‘shock’ khi thấy Thánh Thể ‘biến mất’, thay vào đó là một gia đình đang ngủ trên sàn nhà. Họ rất khó chịu vì cho đây là sự bất kính không thể chấp nhận được và giận dữ khi cha bề trên cho biết Thánh Thể được đặt trên gác mái, nơi gió tuyết có thể thổi xuyên qua mái nhà. Nhưng cha Tu viện trưởng giải thích: “Các anh em của tôi, Đức Ki-tô không cảm thấy lạnh hay nóng trong bí tích Thánh Thể, nhưng Đức Ki-tô trong mỗi con người sẽ cảm được điều đó trong chính họ!”
Đức Ki-tô là hiện thân của nước Thiên Chúa. Đức Ki-tô đã đến. Người không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh. (x. Mt 25, 35 – 36)
Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tôn thờ Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Bởi vì bộ mặt thế gian này luôn qua đi, nhưng nước tình yêu của Thiên Chúa sẽ tồn tại mãi, nơi ấy chúng ta có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.
Vì thế nước Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở giữa chúng ta, và mỗi người chúng ta có bổn phận trách nhiệm xây dựng nước ấy bằng tình yêu chân thực phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Đồng thời lời kinh lạy Cha mà chúng ta đọc có thể là rất nhiều lần trong một ngày “xin cho nước cha hiển trị” sẽ không là những lời máy móc, vô nghĩa, nhưng là lời khẩn nài tha thiết với ước vọng ơn Cha giúp cho Giáo hội, mọi Ki-tô hữu cũng như chính bản thân ta biết sống như là một công dân của nước trời làm sáng danh Thiên Chúa tình yêu và làm cho tình yêu ngự trị khắp vũ hoàn.
“Người ta sẽ bảo anh em: ‘Người ở kia kìa!’ hay ‘Người ở đây này!’ Anh em đừng đi, đừng chạy theo.” (c. 23) Ngược lại với lời Đức Giê-su, dường như thói thường chúng ta thường thích xem chuyện lạ, thích xem Chúa, Mẹ hiện ra; nghe ở đâu có chuyện lạ là ùn ùn đến ‘xem’; nhưng lại không muốn tuân giữ những điều Chúa dạy – con người, đời sống chẳng có gì biến đổi. Niềm tin của chúng ta thật mong manh. Chúng ta đang đắm mình và hòa vào một thế giới loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Cuộc sống chỉ còn là những ganh đua và cạnh tranh, lao theo những nhu cầu vật chất không bao giờ đủ.
Vì vậy, lời Chúa hôm nay như một tiếng chuông cảnh tỉnh, mời gọi mỗi người Ki-tô hữu nhìn lại tâm linh, duyệt xét đời sống của mình xem chúng ta có còn tin Chúa thực sự để biết rằng chúng ta là con Thiên Chúa và chúng ta phải sống như là con cái Chúa, như là công dân của nước trời.