2021
Pharisiêu Cứng Lòng
10 07 Tm Thứ Sáu Tuần II Mùa Vọng.
(Tr) Đức Trinh Nữ Maria Lôretô.
Mt 11, 16-19
Pharisiêu Cứng Lòng
Ngày 31/10/2019, Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích ra sắc lệnh xác lập: lễ nhớ tuỳ chọn Đức Trinh nữ Maria Loreto được ghi vào lịch phụng vụ chung của Giáo hội Công giáo Roma và được mừng vào ngày 10/12 mỗi năm.
Sắc lệnh viết: “Sự tôn kính Nhà Thánh Loreto, có từ thời Trung cổ, là nguồn gốc của đền thánh đặc biệt này, và ngày nay nhiều khách hành hương vẫn đến để nuôi dưỡng đức tin bằng Lời Thiên Chúa nhập thể cho chúng ta.
“Đền thờ này gợi lại mầu nhiệm Nhập thể và thúc đẩy tất cả những ai đến thăm viếng được cảm nhận “thời gian viên mãn”, khi Thiên Chúa sai Con của Người, sinh bởi một người nữ và qua cả lời thiên thần loan báo trong Tin Mừng lẫn lời xin vâng đáp lại của Đức Trinh Nữ. Được bao phủ bởi Thánh Thần, người tôi tớ khiêm nhường của Chúa đã trở nên ngôi nhà của Thiên Chúa, hình ảnh tinh khiết nhất của Giáo hội thánh thiện.”
“Tại Nhà Thánh, trước hình Mẹ của Đấng Cứu Thế và của Giáo hội, các thánh và các chân phước đã đáp lại tiếng gọi của riêng mình, những bệnh nhân đau đớn đến khẩn cầu và được an ủi, dân Chúa đã bắt đầu ca ngợi và cầu nguyện với Mẹ bằng kinh cầu Loreto vốn được phổ biến trên toàn thế giới. Đặc biệt những người di chuyển bằng máy bay tìm thấy nơi Mẹ là đấng bảo trợ trên trời.
Dưới ánh sáng này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban sắc lệnh với thẩm quyền của ngài, thiết lập lễ nhớ tuỳ chọn Đức Trinh nữ Maria Loreto được ghi vào lịch Roma ngày 10/12, ngày lễ tại Loreto và được mừng mỗi năm.
Do đó, lễ nhớ mới phải được ghi vào tất cả các lịch, sách phụng vụ Thánh Lễ và phụng vụ các Giờ kinh; những bản văn phụng vụ liên quan kèm theo sắc lệnh này và các bản dịch, được chuẩn nhận bởi các Hội đồng Giám mục, sẽ được phổ biến sau khi được Bộ này xác nhận.
Kiêu ngạo, mù lòa là căn bệnh của những người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là óc phê phán chủ quan và họ cứ tưởng mình sáng hóa ra lại chẳng thấy gì. Vì nếu người mù biết mình tối thì họ sẽ cố gắng tìm hiểu sự việc trước mắt khi không nhìn được sự khác. Còn người chủ quan và phiến diện thì muôn đời sẽ tăm tối trước chân lý, vì khi chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý mà họ cứ tưởng là đã đạt được chân lý để rồi cứ thế mà cố chấp trước những vẻ đạp của chân lý. Họ chẳng khác gì năm người mù đi xem voi, người thì cho con voi là cái cột đình to tướng, kẻ lại nói con voi là chiếc quạt khổng lồ, người khác lại cho con voi là quả núi đồ sộ.
Khi thánh Gioan Tẩy Giả đến rao giảng ơn cứu độ, người không ăn uống thì được gán cho nhãn hiệu là bị quỉ ám. Ðức Kitô đến, Người ăn uống như bình thường thì bị kết án là người mê ăn uống, là bạn của quân thu thuế và tội lỗi. Họ chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ nhìn Ðấng Messia theo cái nhìn phiến diện nên người Do Thái đã khép chặt cửa lòng trước lời mời gọi của ơn cứu rỗi. Với cái nhìn phiến diện đã nảy sinh những phe phái chủ quan chẳng khác gì bọn trẻ nít ngồi nơi phố chợ: “Chúng tôi thổi sáo sao các bạn không nhảy múa. Chúng tôi than vãn sao các bạn không than khóc?” Chính vì thế mà ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng nhận ra: “Ngài đã đến trong nhà Ngài nhưng người nhà đã không nhận ra Ngài, không đón tiếp Ngài”.
Chúa Giêsu đã phải than phiền, trách móc những kẻ khôn ngoan giả thời Ngài. Thế hệ mà Ngài đã đến, rao giảng lời Chân lý, nhưng họ đã trở thành người khuyết tật của đôi tai, đôi mắt, thành những kẻ cứng lòng tin. Rao giảng thế nào, họ cũng chẳng tin. Nếu Gioan Tẩy Giả đến sống khắc khổ, mời gọi ăn năn sám hối, thì họ lại lên án Gioan là người bị quỷ ám.
Ngược lại, Chúa Giêsu đến, cùng đồng bàn, cùng ăn, cùng uống trong nhịp đời của họ, thì họ lại ta thán, chỉ trích Ngài là kẻ mê ăn mê uống, bạn bè với những người thu thuế và tội lỗi. Ngài ví thế hệ chai lì ấy như cái lũ trẻ con chơi trò múa hát giữa phố chợ. Nhóm này thổi sáo, nhưng nhóm kia không thèm nhảy múa; nhóm này than vãn, nhóm khác tỉnh queo, không than không khóc. Đề nghị thế nào, họ cũng chẳng làm theo, bởi cái “cứng lòng” đã chi phối hết tất cả. Họ đã không tin Ngài.
Chúa Giêsu đã phản ứng lại và chỉ rõ cho thấy sự giả tạo của những kẻ khôn ngoan thông thái thời ấy. Cái khôn ngoan mà họ tự hào, dương oai tự đắc, thật ra là sự dốt nát, vì nó không chỉ bảo cho họ con đường sống, con đường nhận ra Đấng Thiên Sai. Sự chai lì trong tâm hồn đã phá đổ hạnh phúc, mà lẽ ra, con người có quyền được thừa hưởng.
Chúa Giêsu đến, Ngài đem lời của Tin Mừng cứu độ và ngỏ với con người. Chỉ những ai khôn ngoan thật mới nhận ra Ngài, mới nghe được tiếng Ngài. Ngài đã đồng kiếp người, trong những cái nhỏ nhoi nhất để chia san, để cùng sống với những cung bậc của nhịp đời con người đang sống với. Giữa những sai lầm của con người, Thiên Chúa lên tiếng, chỉ dạy, kêu gọi con người sám hối, trở về, tin vào Ngài để đón nhận ơn cứu rỗi. Ngài hướng dẫn, chỉ ra con đường của sự thật, con đường đi đến hạnh phúc trường sinh. Kẻ khôn ngoan thực phải là người rất tinh tế để nhận ra Ngài, Thiên Chúa của lòng mình. Sự khôn ngoan ấy sẽ giúp con người có được lòng khiêm tốn, mở ra để đón nhận chân lý và trở về với Thiên Chúa.
Một cuộc trở về với niềm tin. Niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy sẽ đưa con người đến cánh cửa của Chân Lý, của hạnh phúc thật. Niềm tin ấy sẽ vực dậy con người từ những hố cách ngăn của tội lỗi, xoa dịu những vết đau hằn sâu trong tâm hồn. Niềm tin vào Thiên Chúa cho con người hy vọng sống tròn đầy, chờ đợi ngày hạnh phúc vĩnh cửu. Niềm tin ấy hướng dẫn con người đi trên nẻo đường ngay chính, xây dựng một cuộc sống hạnh phúc ngay tại trần thế và ngưỡng vọng về đời sau.
Niềm tin vào Thiên Chúa, phải là điều căn bản của người Kitô hữu. Niềm tin ấy phải được thể hiện một cách sống động, hiện thực, cụ thể. Tin trong lòng, và tuyên xưng ngoài miệng chưa đủ, nhưng còn phải sống niềm tin ấy bằng cách thức riêng của mỗi cảnh đời chúng ta đang có.
Trong Giáo Hội ngày nay cũng không thiếu những trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái. Ðức Kitô được trình bày trọn vẹn trong Kinh Thánh, qua Phụng Vụ và qua Giáo Hội, thế mà người ta lại giới hạn Ðức Kitô trong cái nhìn của họ. Họ cũng giới thiệu Ðức Kitô cho người khác nhưng đây chỉ là một Ðức Kitô bị bóp méo cho hợp với chủ trương của họ, có lợi cho họ. Và nếu có một ai giới thiệu Ðức Kitô khác với chủ trương và đi ngược lại với quyền lợi thì họ sẵn sàng kết án hoặc bôi nhọ làm sao để đừng mất đi quyền lợi của mình.
2021
DỌN ĐƯỜNG
09 06 Tm Thứ Năm Tuần II Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Gio-an Đi-ê-gô (Juan Diego).
Mt 11, 11-15
DỌN ĐƯỜNG
Chính nhờ Juan Điêgô mà Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa lần đầu tiên đã mạc khải chính mình cho thế giới với tước hiệu Đức Mẹ Guađalup. Juan Điêgô sống vào thế kỷ thứ 16 khi Mêxicô lúc ấy chỉ được biết đến với cái tên Thung Lũng Anahuac. Juan Điêgô thuộc gốc người Chichimeca, và có tên gọi là “con Đại Bàng biết nói.” Juan Điêgô là tên thánh của ngài.
Vào ngày 12 tháng Mười Hai, ngày lễ kính Đức Mẹ Guađalup, (chúng ta có thể đọc cuốn sách Các sự kiện lạ lùng về việc Đức Mẹ hiện ra với Juan Điêgô), khi nhiệm vụ đặc biệt của Juan hoàn tất, người ta nói rằng ngài đã đi tu làm ẩn sĩ. Juan dùng phần đời còn lại của mình để cầu nguyện và sám hối. Túp lều nhỏ của Juan nằm gần bên ngôi đền thờ đầu tiên được xây trên ngọn đồi Têpêyac. Juan rất được dân chúng quý trọng. Các bậc cha mẹ đều coi đó như niềm ao ước lớn nhất của họ nếu con cái họ cũng sống như Juan Điêgô.
Juan trông coi ngôi đền nhỏ và chào đón những khánh hành hương tới kính viếng Đức Mẹ Guađalup. Ngài chỉ cho họ xem tilma, hay còn gọi là tấm áo choàng kỳ diệu, có in hình Đức Mẹ.
Đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong Juan Điêgô lên bậc chân phước ngày 6 tháng Năm năm 1990. Đức thánh cha đã thân hành đến viếng ngôi thánh đường nguy nga dâng kính Đức Mẹ Guađalup. Ở đó, đức thánh cha đã cầu nguyện cho tất cả mọi người dân Mêxicô, cách riêng cho những người bị giết chết trong cuộc bách hại Giáo hội khủng khiếp vào nửa đầu thế kỷ thứ 20. Ngài cũng cầu nguyện cho hết thảy các khách hành hương đến viếng ngôi thánh đường xinh đẹp này với niềm tin vào Mẹ Thiên Chúa. Juan Điêgô được đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh hôm 31 tháng Bảy năm 2002.
Thánh Juan Điêgô là một người rất nhạy cảm và hay cầu nguyện. Lối sống của thánh nhân đã giúp người khác nhận ra tình thương của Thiên Chúa đối với dân Người trong bức ảnh Guađalup kỳ diệu
Đôi khi sự vâng lời đơn sơ là tất cả những gì làm trung gian chúng ta và sức mạnh tuyệt vời của Thiên Chúa.
Sự thật này được chứng minh rõ rệt trong cuộc đời của Thánh Gioan Điêgô, người Ấn Độ da đỏ ở Mêxicô, lòng trung thành của thánh nhân đã thay đổi tiến trình lịch sử.
Vào tháng 12 năm 1531, Đức Trinh Nữ Maria đã xuất hiện với Gioan Điêgô trên đồi Tepeyac gần Thành phố Mêxicô ngày nay và yêu cầu Gioan Điêgô mang một thông điệp đến cho giám mục địa phương, tên là Juan de Zumarraga. Mẹ muốn xây dựng một nhà nguyện trên đồi Tepeyac, nơi Mẹ sẽ lắng nghe tiếng khóc của mọi người và sẽ giúp đỡ họ trong những nỗi buồn phiền, những nhu cầu cần thiết và trong những nỗi bất hạnh của họ”. Một cuộc hoán cải mới đối với Đạo Công Giáo, nên Gioan Điêgô lập tức vâng lời Đức Mẹ và đi đến Zumarraga. Nhưng vị giám mục đã không coi trọng Gioan Điêgô. Khi Đức Maria yêu cầu Gioan Điêgô quay trở lại, ngài thưa với Mẹ hãy sai ai đó biết ăn nói hùng hồn hơn. Nhưng Đức Maria khăng khăng nói: “Có nhiều người Mẹ có thể sai đi. Nhưng con là người Mẹ đã chọn.
Gioan ngoan ngoãn trở lại gặp vị giám mục, người bảo anh hãy xin một dấu hiệu. Gioan đã mang đến cho giám mục không chỉ một thứ: những bông hoa hồng Castile (tỉnh Tây Ban Nha) mà bình thường không có vào tháng Mười Hai, và hết sức ngạc nhiên, một hình ảnh tuyệt đẹp của Đức Maria, in một cách kỳ diệu trên chiếc áo choàng của Gioan. Cho đến ngày nay, chiếc áo choàng miêu tả hình ảnh Đức Maria mang thai Chúa Giêsu, đôi chân Mẹ đang đạp nát đầu Satan vẫn còn.
Vì Gioan Điêgô đã thưa “vâng (có)” với yêu cầu của Đức Maria, nhà thờ mà Mẹ yêu cầu đã được xây dựng. Gioan sống bên cạnh nhà thờ trong suốt phần đời còn lại của mình, ngài kể cho du khách câu chuyện đã xảy ra và cho họ xem chiếc áo choàng kỳ diệu của của mình. Tin về sự hiện ra của Đức Maria lan đi và ngày càng nhiều người đến với Giáo Hội, hàng triệu người đã từ bỏ những mê tín của tổ tiên họ và đã được biến đổi tin vào Chúa Kitô. Đó là cuộc truyền giáo vĩ đại đầu tiên của châu Mỹ.
Những sự kiện này đã xảy ra từ nhiều thế kỷ trước, nhưng chúng vẫn nói với chúng ta ngày hôm nay. Trong một nền văn hóa tuyệt vọng đang rất cần Tin Mừng, chúng ta cũng được mời gọi trở nên ánh sáng cho dân Chúa. Giống như Thánh Gioan Điêgô, chúng ta không thể biết kết quả của sự vâng lời của chúng ta sẽ ra sao. Nhiệm vụ mà Chúa ban cho chúng ta thực sự có thể trông rất đơn giản. Nhưng nếu chúng ta cảm thấy sự thúc đẩy để nói: “Không phải con!” Chúng ta hãy nhớ rằng tiếng “có” của chúng ta có thể là chìa khóa mở ra phép màu.
Được đặt trong lộ trình Mùa Vọng, đoạn Tin Mừng hôm nay góp một nét vẽ khắc họa nên chân dung Gioan Tẩy Giả: Chúa Giêsu xác nhận ông là người cao trọng nhất trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ ; ông là hiện thân của ngôn sứ Êlia với sứ mạng kêu gọi người ta sám hối để chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế.
Cao trọng là vậy, nhưng nhiệm vụ của Gioan xem ra rất đỗi bình thường, chẳng khác một phu dọn đường quét rác là mấy ; có khác chăng, con đường đây chính là lòng người, rác rưởi đây được hiểu là những lỗi tội của con người. Cao trọng là vậy, mà Gioan vẫn bị xếp dưới hạng so với những công dân Nước Trời. “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”, tuyên bố có vẻ mâu thuẫn và phần nào gây sốc này của Chúa Giêsu dường như lại hé mở một ngõ mới, lại chắp thêm cánh cho con người trên hành trình tìm kiếm trường sinh và hạnh phúc vĩnh cửu, đó là niềm khát mong chiếm được Nước Trời.
Khát mong này không phải là giấc mơ viển vông, cũng không phải là hy vọng hão huyền, nó là ước mơ chính đáng, phải đạo và có thể đạt được.
Và rồi chúng ta ssẽ hỏi làm thế nào để đạt được ước mơ thành công dân Nước Trời ? – Chúa Giêsu đã trả lời khi nói rằng: Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. Làm thế nào để có được sức mạnh ấy ?
Thiết nghĩ một mặt ta cần tin tưởng vào Chúa, Đấng đã hứa sẽ đến cứu ta (x. Is 41, 13 – 20); mặt khác ta cần can đảm lao vào cuộc chiến đấu với bản thân mình vốn dẫy đầy những lỗi tội và yếu đuối, vốn hay đòi hỏi những điều nguy hại cho linh hồn ; ngoài ra, cũng cần dứt khoát vượt thắng những cản trở ngoài ý muốn của ta nhưng không nằm ngoài kế hoạch của ma quỷ và những thế lực thù địch vốn tìm mọi cách kéo ta xa lạc con đường về Trời.
Hôm nay, rất có thể tôi, bạn và anh chị, ta được đặt trước hai con đường với hai lựa chọn rõ rệt: ở trong hay ở ngoài Nước Trời ? Nếu chọn ở trong Nước Trời, hẳn ta đã biết mình phải làm gì. Nhưng có lẽ đây không phải là lần đầu tiên hay bây giờ ta mới lựa chọn. Ta đã chọn từ lâu, và ngay lúc này ta vẫn dễ dàng xác tín về lựa chọn ấy. Có điều là ta dường như vẫn còn trong vòng luẩn quẩn, vào – ra đến khó hiểu, đến sốt ruột vì đã bỏ lỡ nhiều cơ hội tiến nhanh và tiến xa trên lối về Thiên Cung.
Hôm nay, lúc này, hẳn là dịp thuận tiện, là ngày lành tháng tốt để ta mời Chúa đến, để ta dám đặt tay mình vào bàn tay Chúa ngõ hầu Người có thể dắt ta đi, cùng ta chiến đấu và chiến thắng những khó khăn cản bước ; ngõ hầu Người có thể giúp ta hiểu và yêu mến những nghịch lý của Tin Mừng mà ở đó, các thang giá trị bị đảo ngược đến không ngờ như người rốt hết sẽ lên hàng đầu, hạt giống thối nát sẽ sinh cây xanh tốt, hạt giống bé tẹo sẽ tạo cây cao lớn, …
Tất cả viễn ảnh trên sẽ trở thành hiện thực, nếu ta muốn chấp nhận sứ mạng dọn đường của Gioan tiền hô, nếu ta muốn dùng đôi tai để lắng nghe tiếng gọi sám hối của ông và can đảm qua trở về dọn lòng đón Đấng Cứu Thế. Hãy để cho Lời chạm vào hồn ta và chính Lời sẽ uốn nắn, đẽo gọt, sửa chữa hồn ta thành máng ấm cỏ êm cho Hài Vương vui ngự ; và nhất là biến ta thành những Gioan tiền hô mới, những phu dọn đường cho con người thời đại ngày nay, cho những anh chị em đang lạc đường xa lối và cho những anh chị em chưa từng được nghe Tin Mừng.
2021
MẸ TINH TUYỀN
08 05 Tr Thứ Tư Tuần II Mùa Vọng.
ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI, lễ trọng.
Lc 1, 26-28
MẸ TINH TUYỀN
Hôm nay toàn thể Hội Thánh tôn vinh Mẹ Maria, Ðấng Tuyệt Ðẹp “ Tota Pulchra”, Ðấng đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài, Đấng được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của Ân sủng Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết.
Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Chân phước Piô IX Giáo hoàng long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (DS 2803)
Như thế, Mầu nhiệm Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội nhắc nhớ chúng ta hai chân lý căn bản của đức tin, đó là tội nguyên tổ và nhất là sự chiến thắng của ơn thánh Chúa trên tội này, chiến thắng ấy được phản chiếu tuyệt vời nơi Đức Maria chí thánh.
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã thực hiện hai công trình tuyệt tác và vĩ đại nhất đó là: Công trình tạo dựng muôn loài và công trình cứu chuộc nhân loại. Trong công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã dọn cho hai ông bà nguyên tổ một địa đàng sán lạn huy hoàng, tràn trề hạnh phúc. Nhưng vì phạm tội ông bà đã phá vỡ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng rồi kế hoạch yêu thương nữa lại bắt đầu với lời tuyên phạt con rắn: “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người đàn bà”. (St 3, 15).
Rồi trong những trang Kinh thánh suốt mấy nghìn năm đã thấp thoáng hiện lên những người nữ “hơn các phụ nữ” (Tl 5, 15), “Người thiếu nữ mang thai, sinh hạ một con trai…” (Is 7, 14). Đến hôm nay sau bao ngàn năm chuẩn bị, người “nữ” đích thực mà Thiên Chúa kén chọn đã tỏ hiện: Đức Trinh Nữ Maria. Để đón nhận Chúa Cứu Thế đến với nhân loại, cung lòng người Trinh Nữ phải trở nên thiên đàng, một “địa đàng mới” không cỏ dại, không bẩn bụi, không một vết “rắn” bò, để cho Chúa Cứu Thế ngự trị.
Vậy giờ đã đến thời viên mãn, sứ thần Gaprien đã được Thiên Chúa sai đến với Trinh Nữ: “Mừng vui lên hỡi Đấng đầy ân sủng”. Lời chào thăm, chúc mừng và truyền lệnh yêu thương của Thiên Chúa: “Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu”. Sứ thần nhắc lại câu nói của ngôn sứ Isaia trước đấy mấy trăm năm về Chúa Cứu Thế. Nhưng với lòng khiêm nhường, thật thà, đơn sơ, trong trắng và ý chí tự do của người Trinh Nữ, sứ điệp ấy chưa dễ dàng được chấp nhận. Vì Trinh Nữ như yêu đời sống trinh khiết hơn là được làm mẹ Chúa Cứu Thế. Sứ thần phải mất thêm thời gian, lời đôi co trao đổi qua lại nhiều nữa: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là con Thiên Chúa… Vì đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được”.
Rồi Trinh Nữ Maria đã nhận lời: “Vâng tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Là Thiên Chúa quyền năng, nhưng Người đã không ra mệnh lệnh, cưỡng bức thực thi ý Chúa, mà tôn trọng sự tự do mà Chúa đã ban cho con người. Sứ thần đã làm cho Mẹ thật sự nhận ra thánh ý Chúa để Mẹ tự nguyện “xin vâng”. Sự tự nguyện ấy mẹ đã suốt đời chiêm niệm “suy đi nghĩ lại trong lòng” mà quyết tâm thực thi ý Chúa. Mẹ Maria đã tự coi mình là nữ tỳ, là tôi tớ, nên đã trở thành người diễm phúc, xứng đáng làm mẹ Thiên Chúa nhập thể làm người, và làm mẹ của cả loài người chúng ta.
Mẹ Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Chúa Giêsu – Con Một Người. Để Mẹ được xứng đáng với thiên chức đó hơn, Mẹ đã được Người ban cho đặc ân “vô nhiễm nguyên tội”. Nhờ đó, Mẹ đã không bị truyền tội tổ tông do Adam và Eva gây ra ngày trước. Tuy nhiên, việc lãnh nhận đặc ân đó không phải ngẫu nhiên mà chính là nhờ hai tiếng “xin vâng”. Chính sự vâng phục Thiên Chúa đã đưa Mẹ rời khỏi hàng tội nhân của tội nguyên tổ và trở thành người diễm phúc nhất trong tất cả phụ nữ.
Quả thật, Mẹ đã tin tưởng hết lòng và vâng phục Thiên Chúa. Niềm tin ấy đã thôi thúc Mẹ nói lên lời “xin vâng” để tuân theo ý Người một cách tuyệt đối. Tuy nghe có vẻ dễ dàng, nhưng nếu thử đặt mình vào hoàn cảnh của Mẹ lúc bấy giờ, ta sẽ thấy niềm tin và sự vâng phục ấy to lớn đến mức nào. Ngày nay, việc có con trước hôn nhân không còn là việc quá khủng khiếp như xưa. Giới trẻ có thể thoải mái chiều theo ý muốn của mình mà không bị lên án nghiêm trọng (miễn là vẫn giữ và dưỡng dục đứa con nên người).
Tuy nhiên, vào thời bấy giờ lại không như thế. Một người phụ nữ có con trước khi chính thức về nhà chồng nếu bị phát hiện sẽ bị ném đá đến chết. Không chỉ vậy, họ còn để lại tai tiếng cho gia đình nếu việc đó xảy đến. Do đó, để chấp nhận thi hành ý muốn của Thiên Chúa, Mẹ đã phải phó thác mọi sự trong tay Người.
Mẹ Maria là mẫu gương để chúng ta học tập. Mẹ đã tin tưởng và vâng phục suốt cả cuộc đời, đã đồng hành cùng Chúa Giêsu cho đến phút cuối cùng và tiếp tục đồng hành cùng Hội thánh của Người. Do đó, ngoài việc noi gương Mẹ, ta cũng không quên chạy đến với Mẹ trong những giây phút khó khăn của cuộc sống. Tình yêu của Mẹ sẽ chở che và đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn. Đặc biệt, ta phải ghi nhớ rằng: tin tưởng và vâng phục là chìa khóa quan trọng cần phải có để ta có thể sống đẹp lòng Chúa.
Mỗi người chúng ta cần phải biết noi gương Mẹ. Dù cuộc sống có nhiều đau thương, khó khăn, dù hiểm nguy luôn rình rập, đe dọa, ta cũng vẫn phải tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Mọi thánh giá Người để ta vác đều không vượt quá sức của ta, Người biết điều đó và Người tin ta sẽ đủ khả năng gánh vác. Khó khăn, đau khổ là điều không thể thiếu của đời người, quan trọng là ta đối mặt với nó như thế nào.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một đóa hoa rạng ngời luôn tỏa hương thơm ngát là Mẹ Maria. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một đóa hoa luôn thanh thoát, cao quý bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một đóa hoa thơm ngát dâng tặng cho đời và ca tụng Thiên Chúa.
2021
Khiêm tốn
07 04 Tr Thứ Ba Tuần II Mùa Vọng.
Thánh Am-brô-xi-ô, Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh, lễ nhớ.
Mt 18, 1-14
Khiêm tốn
Thay vì mừng lễ thánh Ambroise vào ngày mất của ngài (4 tháng 4 năm 397), thường rơi vào các ngày lễ Phục sinh, Giáo Hội mừng vào ngày 7 tháng 12, là ngày kỷ niệm ngài thụ phong giám mục (394). Tại Rôma, từ thế kỷ XI, người ta đã mừng lễ ngài vào ngày này, cũng như trong các Giáo Hội Byzantin và một số nhà thờ chính toà hay tu viện thời Trung cổ. Cùng với thánh Augustin, Hiêrônimô và Grégoire, thánh Ambroise là một trong bốn thánh giáo phụ và tiến sĩ lớn của Giáo Hội la-tinh, và là một trong những vị thánh được yêu mến nhất.
Thánh Ambroise sinh tại Trèves (Augusta Trevirorum) khoảng năm 339, trong một gia đình Kitô giáo thuộc giới quí tộc Rôma, vào thời kỳ cha ngài làm pháp quan của tỉnh Gaules. Khi cha mất, mẹ của ngài về sống tại Rôma cùng với ba người con: hai trai và một gái, Marcellina, cô em gái này sẽ nhận khăn choàng trinh nữ từ tay Đức giáo hoàng Libère. Sau khi hoàn tất các môn văn chương và luật, Ambroise đã hành nghề một cách xuất sắc, đưa ngài tiến mau đến tận Milan, tại đây ngài được bổ nhiệm làm tổng trấn tỉnh Ligurie và Émilia của Rôma.
Năm 374, khi giám mục Auxence thuộc phe lạc giáo Arius qua đời, quan tổng trấn Ambroise tới nhà thờ lớn Milan để giữ trật tự vào dịp bầu tân giám mục. Nhưng, tuy mới chỉ là một dự tòng, chính ngài lại là người được chọn làm giám mục trước sự phấn khởi của toàn dân. Họ la to: “Ambroise giám mục!” Ngài miễn cưỡng chấp nhận, và tám ngày sau, ngài được rửa tội, được truyền chức và tấn phong. Lúc đó ngài khoảng ba mươi tư tuổi. Sau khi trở thành người đứng đầu Giáo Hội ở Milan, thánh Ambroise học tập thừa tác vụ đến độ ngài trở thành một trong những vị mục tử hoàn hảo nhất trong lịch sử Hội Thánh.
Việc đầu tiên ngài làm là phân phát tài sản của mình cho người nghèo và chọn một nếp sống khổ hạnh. Rồi, dưới sự hướng dẫn của một cha Simplicien, một linh mục giàu kinh nghiệm, ngài dấn thân miệt mài vào việc học Kinh Thánh và các tác giả Ki-tô giáo. Ngài học nhằm phục vụ trước hết cho việc rao giảng và thi hành tác vụ huấn giáo. Bị lôi cuốn bởi Tin Mừng Luca, ngài đã viết một bình luận về Tin Mừng này, còn truyền lại tới chúng ta ngày nay. Chúng ta cũng còn giữ được một sưu tập các khảo luận của ngài về các nhân vật và chủ đề Kinh Thánh: Abel, Cain, Nôê, Abraham, Isaac, thiên đàng, tạo dựng. . .
Thánh Ambroise không ngừng quan tâm tới việc dạy giáo lý cho dân chúng, nhất là trong việc khai tâm đức tin và chuẩn bị phép rửa. Trong khảo luận Các Mầu Nhiệm và các Bí Tích, thánh giám mục Milan cắt nghĩa cho các tín hữu về các bí tích và phụng vụ. Nhưng ngài không chỉ giới hạn vào việc giảng thuyết. Nhằm giúp các tín hữu tham dự tích cực vào phụng vụ, ngài đã sáng tạo ra nhạc bình dân – thể loại đầu tiên ở phương Tây – và ngài đưa các bài hát xen vào các thánh vịnh. Cũng vậy, ngài soạn ra các thánh thi và các ca vãn, và một số sáng tác của ngài ngày nay vẫn còn được dùng để cầu nguyện hay hát trong phụng vụ thuộc nghi lễ Ambroise ở giáo phận Milan.
Trong một xã hội mà Kitô giáo chưa thấm nhuần hoàn toàn, thánh Ambroise quan tâm canh tân các phong tục với mục đích Kitô hoá chúng; ngài cống hiến cho phương Tây khảo luận đầu tiên về đạo đức học Kitô giáo (De Officiis), lấy hứng chủ yếu từ Cicéron. Nhiều khảo luận bàn về đề tài trinh khiết, trong đó có một tác phẩm ngài viết cho em gái ngài là Marcellina, lúc đó đã qui tụ được một số chị em thành một cộng đoàn trinh nữ. Một tiểu luận khác ngài viết cho các bà góa.
Viết đã giỏi, ngài còn là nhà hùng biện lỗi lạc; chính nhờ ngài mà chàng thanh niên Augustin ở Tagaste đã hoàn tất hành trình hoán cải của mình. Cuối đời, bị suy yếu và biết giờ chết sắp tới, ngài đọc cho người ta viết bình luận về thánh vịnh 43 (44). Ở câu 24, ngài nói: “Thật khó khăn khi phải kéo lê lâu dài một thân xác mà bóng tử thần đã che phủ. Lạy Chúa, xin đứng lên. Tại sao Người vẫn ngủ? Người sẽ xua đuổi con mãi sao?” Sự vĩ đại và thánh thiện của thánh Ambroise được diễn tả trong tiếng kêu la cuối cùng này, mà Chúa đã nghe vào một ngày thứ sáu tuần thánh, 4 tháng 4 năm 397.
Suốt ba năm đi theo Chúa Giêsu, các môn đệ cũng có cao vọng muốn được trở thành người lớn nhất trong Nước Trời nên đã đặt câu hỏi với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?”.Hiểu được tâm tư ấy, Chúa Giêsu liền dạy các ông một bài học thật ý nghĩa đó là “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”.
Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh rất cụ thể đó là trở nên khiêm tốn đơn sơ như trẻ thơ. Khiêm tốn là một đức tính cao quý của con người. Người người có tâm hồn trẻ thơ thì tin tưởng vào tình thương Thiên Chúa,khiêm tốn không cậy dựa sức riêng nhưng biết nhìn nhận những giới hạn của mình.
Thiên Chúa dựng nên mỗi người một vẻ khác nhau, chính sự khác biệt đó càng diễn tả quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa.Hình dáng bên ngoài của một người dù đẹp hay xấu, cao hay thấp, trắng hay đen…đối với Chúa không có gì là xấu.Điều quan trọng nằm ở tâm hồn và thái độ sống của mỗi người. Dù nhỏ bé xấu xí nghèo hèn đến đâu, con người đều có phẩm giá và nhân vị vì họ được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa. Nhận biết được điều này, chúng ta được mời gọi phải tôn trọng người khác với tất cả sự khác biệt của họ.
Ông Gerandy, nhà tư tưởng người Mỹ đã từng nói: “Chúng ta cần giống nhau một chút để hiểu nhau, nhưng cần phải khác nhau một chút để yêu thương nhau”. Chính sự khác biệt nơi mỗi người mà chúng ta được chia sẻ đắp đổi cho nhau, cùng cộng hưởng làm cho cuộc sống thêm phong phú và ý nghĩa.
Giá trị của cuộc sống không căn cứ trên số đo chiều cao của một người, chất lượng của cuộc sống không tính bằng sự hơn thua về nhan sắc hay hình thức bên ngoài nhưng dựa vào thái độ chúng ta đối xử với mọi người. Chúng ta không sống như một ốc đảo nhưng là sống cùng và sống với người khác. Chúng ta không thể tự thỏa mãn với chính mình nhưng luôn cần sự chia sẻ, nâng đỡ và an ủi của người khác. Người kiêu căng tự cho mình là đầy đủ nên Thiên Chúa không thể ban thêm điều gì, trái lại người khiêm tốn như một chiếc ly còn trống rỗng sẽ dễ dàng đón nhận được nhiều ân sủng của Thiên Chúa.
Đọc lại Kinh Thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa đặc biệt yêu thích người có tâm hồn khiêm tốn. Chúa sẽ không mạc khải cho những bậc khôn ngoan thông thái biết về mầu nhiệm Nước Trời nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải đón nhận người khác như đón nhận chính Chúa, vì “Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Ga 13,20).
Vì thế mỗi người chúng ta cũng đừng tự mãn cho mình là người có đầy đủ mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác. Trái lại chúng ta là một thụ tạo với đầy khuyết điểm và tính hư nết xấu. Mang trong mình di chứng của tội nguyên tổ, chúng ta luôn bị cám dỗ chiều theo sự xấu. Nhận ra điều này để chúng ta biết cậy nhờ vào ơn Chúa giúp mà hoàn thiện chính mình.
Và để minh chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa, Chúa Giêsu còn đưa ra một ví dụ về người chủ chăn đã bỏ 99 con chiên mà đi tìm một con chiên lạc. Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian không phải để kêu gọi người công chính nhưng là kêu gọi người tội lỗi.
Ai khiêm tốn nhận mình là yếu hèn tội lỗi thì Thiên Chúa càng ban ơn giúp sức. Thánh Phaolô tông đồ có nhiều kinh nghiệm về điều này, thánh nhân đã khiêm tốn nhận mình là tôi tớ yếu đuối chẳng có gì để vênh vang.Chúng ta có là gì thì cũng nhờ bởi ơn Chúa. Còn thánh Augustinô thì xác quyết: “Chúa là Đấng cao cả, nếu con hạ mình xuống, Người cũng hạ mình xuống kết hợp với con; nhưng nếu con nâng mình lên, Người sẽ tránh xa con”.