2022
Gương sống của Chúa Giêsu
31.3 Thứ Năm trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Xh 32:7-14; Tv 106:19-20,21-22,23; Ga 5:31-47
Gương sống của Chúa Giêsu
Mọi người đều khao khát gặp Đấng Cứu Độ để được sự sống đời đời. Qua Kinh thánh, người Do thái được Thiên Chúa ưu ái cho biết Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện trong dân tộc của họ. Vì thế, họ đã kiên nhẫn chờ đợi Người suốt cả hàng ngàn năm. Tuy nhiên, chỉ vì thành kiến sai lầm và cố chấp không chịu tin, nên khi Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ đích thực đến, họ không nhận ra, nên đã bỏ lỡ cơ hội để gặp gỡ và yêu mến Người.
Tin mừng hôm nay, trước sự chất vấn của người Do Thái về việc Chúa Giêsu làm phép lạ chữa người bại liệt đã 38 năm trong ngày Sabát (Ga 5, 5-16), Chúa Giêsu đưa ra hai ‘nhân chứng’ cho hành động của Ngài.
Ngài không nại đến nhân chứng là con người, dù người đó là Gioan. Điều Ngài nại đến chính là Chúa Cha và Sách Thánh.
Chúa Giêsu tiếp tục tranh luận với những người biệt phái sau khi việc Ngài chữa một người bất toại vào ngày sabát. Ngài đã nói với họ rằng sở dĩ Ngài làm việc trong ngày sabát vì Ngài noi gương Thiên Chúa là Cha của Ngài. Họ không tin, Chúa Giêsu lại nói: chính Thánh kinh và Môisê (phải hiểu trong Cựu ước) làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Messia, Con Thiên Chúa. Nếu họ tin Môisê thì họ phải tin lời chứng của Môisê.
Chúa Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian. Chúa Cha là ‘Đấng làm việc liên lỉ’ (Ga 5, 17) thì Ngài là Chúa Con cũng làm việc như vậy, dù đó là ngày Sabát. Các phép lạ Ngài làm, nhất là phép lạ chữa lành và làm cho người ta được sống, minh chứng Ngài là con Chúa Cha, vì Cha là Đấng làm cho người ta sống (Ga 5, 21). Hành động của Chúa Giêsu là hành động ban sự sống: người què đi được, người điếc được nghe, người mù được thấy, kẻ chết sống lại. Lời Chúa Giêsu nói và việc Ngài làm minh chứng hiển nhiên sứ vụ cứu thế của Ngài.
Chúa Giêsu đã làm đủ cách để minh chứng Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến, nhưng người Do thái vẫn không chịu tin để được sống, để khỏi bị xét xử và bị luận phạt. Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải nại đến ba nhân chứng có uy tín để làm chứng cho Ngài, đó là Chúa Cha, Gioan Tẩy giả và Thánh kinh, bởi vì theo luật thời đó, phải có hai ba nhân chứng thì mới được chấp nhận.
Trước hết, chính Thiên Chúa Cha làm chứng cho ChúaGiêsu. Chúng ta thấy có hai lần Chúa Cha tuyên bố: “Đây là Con Ta rất yêu dấu”, một lần khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, và một lần khi Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê. Đó là bằng chứng hùng hồn cho thấy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, và Chúa Cha muốn mọi người tin Chúa Giêsu thật là Con Ngài.
Thứ đến, Gioan Tiền Hô làm chứng cho Chúa. Tin mừng nói: “Có một người, tên là Gioan, ông đến để làm chứng, để chứng thật về ánh sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin”. Chính Gioan đã làm chứng cho Chúa Giêsu bằng sự tự khiêm tự hạ: “Tôi không đáng cởi dây giày cho Đấng đến sau, nhưng đã có trước tôi”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói cho các môn đệ: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Sau hết, Gioan đã làm chứng cho Chúa bằng sự nhỏ đi, bằng cái chết của mình.
Sau cùng, Kinh thánh chép về Chúa Giêsu và chính Chúa Giêsu đã thực hiện như lời Kinh thánh chép về mình. Đáng lẽ Kinh thánh là chứng từ có giá trị nhất để người Do thái tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, vì họ vẫn công nhận Kinh thánh là lời hứa của Thiên Chúa; nhưng rất tiếc họ đã đọc Kinh thánh hằng ngày, đã nghiền ngẫm Kinh thánh mà không nhận ra rằng Đức Kitô đã được Chúa Cha sai đến để cứu họ.
Kinh thánh Cựu ước loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu thế, cũng như về sứ vụ của Ngài; và giờ đây, Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế đã xuất hiện với tất cả nhhững việc mà Kinh thánh cựu ước đã loan báo.
Thế nhưng, những người Do Thái lại không tin Ngài; bởi đó chính Môsê, người mà người Do Thái luôn tin tưởng, sẽ tố cáo họ.
Chính nhờ sự tận hiến ý riêng để thi hành Ý Cha mà cuộc đời Chúa trở nên một hiến tế đẹp lòng Cha, có sức cứu độ toàn thế giới, trong đó có mỗi người chúng ta. Chính nhờ cuộc đời tận hiến đó, tận hiến đến chết trên Thánh giá, mà Chúa được Cha siêu thăng phục sinh và cho vinh hiển bên Cha. Nhờ thấy vậy, các Tông đồ nhận ra Chúa thật là Chúa và họ đã dám sống chết theo Chúa.
Không chỉ quở trách người Do thái cố chấp không tin, hôm nay Chúa cũng đang chất vấn và quở trách chúng ta về cách sống “thực dụng” của mình mang những dấu ấn không tin một cách thực tiễn, khi chúng ta khước từ Thiên Chúa để chạy theo vật chất, những danh vọng, những đam mê trên thế gian làm chúng ta xa dần Thiên Chúa – hạnh phúc đích thực.
Quả vậy, Ngài được Chúa Cha sai đến để làm ‘công việc của Thiên Chúa’; mọi việc Ngài làm là làm theo ý Chúa Cha (x. Ga 5, 30). Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện cho biết Chúa Cha chứng nhận việc Ngài làm.
2022
Tương quan giữa Cha và con
30.3 Thứ Tư trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Is 49:8-15; Tv 145:8-9,13-14,17-18; Ga 5:17-30
Tương quan giữa Cha và con
Tin Mừng của thứ tư tuần IV Mùa chay được Giáo Hội chọn theo Tin Mừng của thánh sừ Gioan. Trong tư tưởng của Gioan, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, Đấng mang đến cho thế gian sự sống đời đời, miễn là những người trong thế gian này tin rằng Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa sai xuống thế gian.
Tin Mừng hôm nay tiếp ngay sau câu chuyện hôm qua ở hồ nước Bết-da-tha : một người bệnh 38 năm được chữa lành. Đoạn văn hôm qua đã kết thúc bằng dòng chữ: “người Do-thái chống đối Chúa Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày sa-bát.”
Chúng ta có thể thấy rằng : cùng với một số vụ chữa lành ngày Sa-bát khác, vụ chữa lành này hoàn toàn không có gì khẩn cấp, 38 năm thì thêm một vài ngày nữa có sao đâu. Đây chỉ là dấu hiệu cho thấy thẩm quyền thiêng liêng của việc Chúa Giêsu làm.
Vì vậy, câu trả lời của Đức Giêsu, là thẳng thắn và không hối tiếc: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” Sách Sáng Thế nói ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi nên không biết liệu Thiên Chúa có làm việc trong ngày đó không ? Một số người tin rằng công việc sáng tạo và quan phòng của Người ngừng lại, một số khác lại nghĩ Người vẫn tiếp tục xét xử trong ngày Sa-bát.
Nghĩ thế nào đi nữa thì Chúa Giêsu đang tuyên bố ở đây : Ngài có quyền làm việc trong ngày Sa-bát như Cha của mình và có cùng quyền lực trên sự sống và cái chết.
Các nhà lãnh đạo Do Thái tức giận vì Chúa Giêsu nói Thiên Chúa là Cha của Ngài. Họ muốn giết Ngài. Họ hiểu Chúa Giêsu đang tự biến mình thành Thiên Chúa. Chúa Giêsu phủ nhận lời buộc tội, Ngài xác nhận
“Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm ; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy.” Câu này nói theo mô hình của người học việc. Người con học việc làm chính xác những gì cha anh ta làm. Mối quan hệ của Chúa Giêsu với cha mình cũng tương tự. “Chúa Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc.” Và “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý.” – và bất cứ khi nào Người muốn. Ban sự sống như vậy là điều chỉ thuộc về Thiên Chúa. Cũng như quyền phán xét, mà Chúa Giêsu nói đã được ủy thác cho Ngài.
Mở đầu trang Tin Mừng bằng câu 17: “Đến nay, Cha tôi làm việc, tôi cũng làm việc”. Vì các thầy Do Thái cho rằng: Thiên Chúa đã nghỉ ngơi. Ngài không còn hoạt động nữa. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định: Hiện nay Cha vẫn làm việc và Ngài cũng làm việc. Điều này không những chứng tỏ về một sự mới mẻ của giáo lý, phá đổ quan niệm của các thầy Ráp-bi mà còn khẳng định Thiên Tính của Đức Giêsu. Ngài cho mình ngang hàng với Chúa Cha qua câu “Cha tôi làm việc thì Tôi cũng làm việc”. Ngài gọi Thiên Chúa là Cha, chứ không là Thượng Đế, là Thiên Chúa. Câu nói này đã gây thù hận giữa người Do Thái và Chúa Giêsu; họ tìm cách giết Chúa Giêsu (c.18) vì Ngài dám nhận mình là Đấng Thẩm phán Tối Cao.
Từ câu 19 đến câu 30 nói về một đề tài nổi bật đó là: sự hợp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trong hoạt động ban sự sống và xét xử. Ngài nói “Người Con không thể tự mình làm điều gì nếu không thấy Chúa Cha làm; và điều gì Chúa Cha làm thì Chúa Con cũng làm y như vậy” (c.19). Đức Giêsu không tự ý làm bất cứ điều gì. Người không tự ý xuống thế, nhập thể và ở cùng con người. Người không tự mình đi con đường cứu độ, đường Thập Giá, nhưng luôn có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng đồng hành. Chúa Cha đã cho Người thấy mọi công việc Chúa Cha làm (c.20) nên Người sẽ làm y như Cha đã làm (19b). Vậy ở đây công việc của Chúa Con là gì ? Đó là ban sự sống và xét xử.
Chúa Cha cho kẻ chết chỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào thì Người Con cũng…. Tùy ý (c.21). Như thế, ban sự sống là công việc của Cha và cũng là công việc của Chúa Con. Điều này nói lên sự tương quan mật thiết giữa Cha và Con trong chương trình cứu độ. Và cũng một mục đích để con người tôn kính, thờ phượng Chúa Con y như họ đã tôn kính, thờ phượng Chúa Cha (c.23) vì chính Cha đã sai Con. Chúa Giêsu nói rõ: “Ai tin… sẽ có sự sống đời đời (c.24). Ai nghe sẽ được sống (c.25). Vậy phần thưởng sự sống đời đời được trao ban cho những ai tin và nghe lời Người Con, tức là Lời đến từ Chúa Cha. Sự sống đời đời này xuất phát từ Chúa Cha và ở nơi Chúa Cha, thì nơi Chúa Con cũng có sự sống ấy. Như thế, sự sống giữa Cha và Con thông chuyển cho nhau. Đó là sự hiệp nhất giữa Cha và Con, sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đức Giêsu còn khẳng định: Đến ngày cánh chung, những ai làm điều lành sẽ được sống lại và sống muôn đời. (c.29)
Chúa Cha đã ban quyền xét xử cho Chúa Con (c.22). Như vậy câu này xác định lại một lần nữa : Chúa Giêsu chính là Đấng Thẩm Phán Tối Cao. Ngài tự nhận và không chối cãi về danh hiệu này. Nếu bất cứ ai tin vào Ngài, thì không bị xét xử, nghĩa là không phải chết muôn đời. Ở câu 27, Thánh sử nhắc lại một lần nữa: “Chúa Cha lại ban quyền xét xử cho Chúa Con, vì Chúa Con là Con Người.” Con Người trong Kinh Thánh Cựu Ước được xem là Đấng đến từ Thiên Chúa sẽ xét xử gian trần vào ngày chung thẩm. Nếu ai làm điều dữ khi còn sống trên trần gian, thì sẽ bị kết án (c.29).
Và ở câu 30, Chúa Giêsu đã nói: Tôi không tự ý làm gì… Nhưng theo ý Đấng đã sai tôi. Ở đây, Chúa Giêsu không nói về danh xưng Người Con nữa. như ở câu 19, nhưng Ngài khẳng định cách mạnh mẽ, làm chứng một cách dứt khoát “Tôi”… và Ngài còn nói “Tôi xét xử”. Như thế, Ngài tự khai mở cho người Do Thái về Thiên Tính và uy quyền của một vị Thiên Chúa đời đời của Ngài, chứ không chỉ trong danh phận Con Người yếu đuối, giới hạn mà thôi.
Chúa Giêsu là tấm gương hoàn hảo của Chúa Cha. Ngài là Lời của Thiên Chúa. Trong Ngài và qua Ngài, Thiên Chúa nói và hành động. Lời Chúa là Lời tạo dựng. Chúa Giêsu, giống như Chúa Cha, là sự sống, là nguồn sống.
Quyền phán xét đã được Chúa Cha giao cho Con. Và từ chối tôn kính Chúa Con là từ chối tôn kính cùng một Danh như Danh Cha. Trong tất cả mọi việc, Chúa Giêsu chỉ hành động theo ý muốn của Cha mình và làm những gì Cha mình muốn.
Chúa Giêsu là Đường, là con đường mà chúng ta đến với Thiên Chúa. Đối với chúng ta, không có cách nào khác. Ngài là Lời của Thiên Chúa đến với chúng ta và cho chúng ta.
2022
Mong ước chữa lành
29.3 Thứ Ba trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Ed 47:1-9,12; Tv 46:2-3,5-6,8-9; Ga 5:1-3,5-16
Mong ước chữa lành
Chúa Giêsu là Đấng chữa lành mọi bệnh tật, là Đấng ban phát và phục hồi sự sống thân xác cũng như linh hồn. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa để được chữa trị tận căn mọi tội lỗi và mọi đau khổ, bệnh tật.
Hồ Bếtdatha khá lớn, những bệnh nhân đến đây để với một niềm hy vọng là được chữa khỏi bệnh. Dọc bên bờ hồ này có rất nhiều loại bệnh tật khác nhau, chờ đợi để được xuống hồ chữa cho khỏi bệnh. Anh bại liệt 38 năm cũng là một trong số những người nằm chờ để được ai đó đưa xuống hồ, nhưng chắc chẳng ai quan tâm và không ai giúp đỡ anh ta: “không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”.
Có lẽ Chúa Giê-su đã quan sát quang cảnh náo động và hối hả của dân chúng tranh giành để được lành bệnh tại hồ nước Bếtdatha và hiểu thấu được tâm trạng thấp thỏm và mòn mỏi để được ai đó đem xuống hồ cho khỏi bệnh, nên dù chưa yêu cầu hay van xin, Chúa Giê-su đã hỏi anh bại liệt lâu năm: “Anh có muốn trở nên lành mạnh không?” (c.6) Anh không trả lời trực tiếp câu hỏi của Chúa Giê-su “có hay không”, nhưng anh lại trả lời bằng một cách lý giải “không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”.
Anh đã mòn mỏi trông mong được chữa lành thân xác bại liệt lâu năm của anh, thế nhưng Chúa Giê-su đã đặt vấn đề “lành mạnh”, tức phục hồi thân xác bại liệt của anh và cả tinh thần lành mạnh của anh nữa. Với quyền năng của Ngài, Ngài có thể phán một lời với anh bại liệt thì anh có thể đứng lên và đi lại được…nhưng ở đây thì không! Chúa Giê-su lại bảo anh: “hãy đứng dậy, vác chõng, và đi”. Chúa Giê-su cần sự hợp tác của anh để giúp anh được lành mạnh: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Chúa Giêsu chữa người bất toại ở bờ hồ Bếtsaiđa. Nếu chúng ta đặt mình vào vai bệnh nhân 38 năm, chúng ta mới thấy những người hạch hỏi anh thật độc ác. Tại sao họ không cảm thông với anh khi anh bị khổ suốt 38 năm trong tình trạng khốn nạn. Đáng lý ra họ cùng phải với anh tôn vinh, tạ ơn Vị đã cứu giúp anh mới phải. Tại sao họ lại bắt bẻ Ngài ? Ngài và họ, ai là người thương yêu đích thực ? Ngài và họ, ai là người đi trong đường lối của Thiên Chúa ?
Tin mừng cho biết khi Chúa Giêsu đến bờ hồ Bếtsaiđa, thì đã có rất nhiều bệnh nhân nằm la liệt cùng với thân nhân của họ chờ chực sẵn bên hồ. Giữa đám đông bệnh nhân ấy, Chúa nhận ra một người đau khổ cô độc nhất, anh bị tàn tật, bất toại hay tê liệt như lời anh thưa với Chúa: “Không có ai khiêng tôi xuống nước cả”. Anh đã nằm ở đây 38 năm rồi, thời gian quá dài. Bao nhiêu người đã đi qua, kể cả những vị lãnh đạo dân Do thái, không ai màng tới.
Nhưng Chúa Giêsu đã nhìn thấy, động lòng thương và đã chữa lành anh. Không những Chúa chữa bệnh nơi thân xác mà Ngài còn muốn tiến xa hơn, khi kêu gọi người được chữa lành hãy nghĩ đến phần hồn của anh với lời nhắn nhủ: “Anh đừng phạm tội nữa”.
Chúa Giêsu cho anh bại liệt lành bệnh và bước đi trong an vui trong ngày sabat – ngày của niềm vui. Trong lúc người biệt phái ngăn cản anh vác chõng lại hạch hỏi anh thật độc ác, chỉ vì ngày sabat, ngày nghỉ với họ cũng có nghĩa là không được vác chõng. Họ không thông cảm với anh khi anh bị khổ suốt 38 năm dài, họ vẫn cứ muốn trói buộc anh trong căn bệnh bại liệt chỉ vì câu nệ lề luật. Họ mang hình ảnh nhân loại không biết cảm thông nỗi khổ của nhau, đối xử với nhau từ ích kỷ đến tàn ác chỉ biết bắt bẻ và kết án.
Chúa Giêsu đã thực hiện một dấu lạ để mời gọi con người mở mắt nhìn Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế nhưng, không ai đã nhận ra sự hiện diện của Ngài. Riêng những người Do thái, những vị lãnh đạo tôn giáo Do thái đang có mặt ở đó lại dựa vào đó, để bắt bẻ Chúa đã lỗi ngày hưu lễ. Đối với Chúa, Ngài đến làm ơn cho người ta, mạng sống con người quí trọng hơn hết.
Thiên Chúa không làm thay tất cả cho con người, nhưng mỗi người – để được chữa lành về thể xác lẫn tâm linh – điều đầu tiên là phải có lòng mong muốn, bày tỏ lòng khao khát, và điều quan trọng phải có can đảm làm bước bột phá vượt lên trên chính mình, là “đứng dậy! quyết tâm! Và bước đi!” như người bại liệt trong Tin Mừng hôm nay. Anh thật liều lĩnh làm theo lời Chúa Giê-su để bước ra khỏi bệnh tê bại lâu năm, để đứng thẳng và bước đi. Còn tôi, liệu tôi có đủ can đảm vượt qua hành vi và thói quen cũ của cái “tôi” để dám đứng lên bước đi hay không?
Mỗi người chúng ta trong kinh nghiệm cá nhân, đã từng mang ít nhiều những bệnh tật thể xác, và mang những bất toại của tâm hồn trong thân phận của sự yếu đuối, tội lỗi, đó là sự bại liệt tâm linh của con người. Như anh bại liệt, chúng ta hãy bày tỏ sự mong muốn được chữa lành qua Bí tích Hoà giải, chính trong bí tích tình yêu này Chúa nói với chúng ta như đã nói với anh bại liệt: “Anh đã được lành bệnh”.
2022
Lòng tin sẽ biến đổi phận người
28.3 Thứ Hai trong tuần thứ Tư Mùa Chay
Is 65:17-21; Tv 30:2,4,5-6,11-13; Ga 4:43-54
Lòng tin sẽ biến đổi phận người
Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy những người có địa vị cao trong xã hội và tôn giáo đa số đều mắc phải thói tự kiêu, vì tự cho mình là người biết hết mọi chuyện, nên thường coi khinh anh em đồng loại! Nếu không bị chứng bệnh tự phụ trên thì cũng rơi vào tình trạng nghi ngờ về những chuyện phi thường…
Thánh sử Gioan thuật lại trong Tin Mừng hôm nay, việc Chúa Giêsu rời bỏ Nazarét là quê hương của mình, vì dân làng đã không tin vào quyền năng của Chúa khi họ được thấy rất nhiều các phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Họ đã đóng khung Ngài lại bằng định kiến có sẵn của mình. Họ biết bản lý lịch rất bình thường của Ngài: Sinh ở Nagiaret, nghề nghiệp của cha là thợ mộc, anh em họ hàng là dân chài lưới, làng xóm láng giềng không phải là những người hùng vĩ đại, nguyên quán của Ngài không phải là vùng đất của danh nhân hào kiệt… Vì thế, Ngài đã bỏ họ để đi đến vùng Galilê. Sự cứng lòng tin, mờ tối trước các biến cố Chúa gởi đến, đã tạo khoảng cách giữa những người đồng hương với Chúa Giêsu. Khoảng cách ấy đã làm họ rời xa Chúa.
Viên sĩ quan cận vệ nọ không cần bằng chứng về sự chữa lành cho con trai ông; chỉ cần Lời của Chúa Giêsu là đủ để ông ra về. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta bước đi trong cuộc đời đầy sóng gió này một cách tin tưởng và không lo lắng như vậy: “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc (Mt 6, 25). Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt, của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao? (Lc 11, 13) Anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ (Lc 12,7).
Định kiến đã đóng cánh cửa tâm hồn, tạo ra khoảng cách của niềm tin, làm cho con người không còn đón nhận Thiên Chúa trong cuộc đời mình nữa. Thiết nghĩ đó là khoảng ngăn cách đáng ghê sợ hơn cả vì nó tách chúng ta xa rời Thiên Chúa. Một khi xa rời Thiên Chúa con người chỉ toàn thấy trống vắng, tuyệt vọng. Bệnh tật và chết chóc hậu quả của tội lỗi, là một dấu hiệu cho thấy con người xa rời Thiên Chúa.
Lấp đầy khoảng cách giữa con người và Thiên Chúa đó chính là lấp đầy khoảng cách của niềm tin. Viên sĩ quan trong Tin Mừng đã tuyên xưng mạnh mẽ vào quyền năng chữa lành của Chúa. Ông đã đi một đoạn đường từ Caphácnaum đến Galilê để nài xin Chúa đến nhà ông, chữa lành cho con trai ông đang lâm bệnh nặng sắp chết : “Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất! ” Đáp lại lời nài xin này. Chúa đã thử thách đức tin của ông khi Ngài nói : “Ông cứ về đi, con ông sống.” Thánh sử Gioan tiếp lời : “Ông tin vào lời Chúa Giêsu nói với mình, và ra về”. Ông và con ông đã được chữa lành.
Ông đã vượt qua được sự thách đố của niềm tin như đã vượt qua quãng đường từ nhà ông đến với Thiên Chúa. Từ đây khoảng cách của không gian địa lý không còn nữa mà thay vào đó chính là sự hiện diện của Chúa ngay trong nhà của ông. Ngài đã ban cho ông điều ông cầu xin là con trai ông được lành, và hơn nữa “ông và cả nhà đều tin”, ông và mọi thành viên trong gia đình, đều nhận ra quyền năng của Ngài. Người dân trong vùng đã vượt qua thách đố của niềm tin, khi mở lòng ra với Chúa. Họ nhìn ra được gương mặt của Chúa hiện diện khi họ cảm nghiệm và chứng kiến các phép lạ Chúa làm.
Mở lòng ra, nhìn ngắm và cảm nghiệm về Thiên Chúa là tiến trình khai mở đức tin. Đóng lòng lại, suy nghĩ bằng định kiến, cố chấp trong suy nghĩ và lối sống cũ là bước ngăn cả đức tin.
Dựa vào định kiến có sẵn của mình, những người dân Nagiaret không mở ra với Chúa Giêsu qua tình yêu và cuộc sống của Ngài dành cho họ. Sống trong ân sủng của Chúa, chúng ta chỉ việc tin vào tình yêu quan phòng của Chúa, gạt bỏ định kiến có sẵn để mở ra với Chúa và với anh chị em. Việc cứng lòng tin đã làm chúng ta xa rời Thiên Chúa, tạo một khoảng trống vắng trong lòng chúng ta. Và chính bởi lòng tin nơi Thiên Chúa, kêu xin Ngài, Ngài sẽ giúp chúng ta phá đổ khoảng cách giữa ta với Chúa, gắn kết đời sống chúng ta với sự hiện diện của Người. Đức tin làm nên phép lạ. Đức tin gắn kết Thiên Chúa và con người. Đức tin có sức màu biến đổi.
Chúa Giêsu đã làm phép lạ chữa cho con ông khi tuyên bố: “Con ông sống”. Thấy mọi sự diễn ra đúng thời gian mà Đức Giêsu tuyên bố con ông không chết, viên sĩ quan và cả gia đình ông đã tin vào Đức Giêsu.
Như vậy, câu chuyện Tin Mừng hôm nay nhắm vào niềm tin của viên sĩ quan.
Đối với Chúa Giêsu việc chữa lành thể xác chỉ là thứ yếu, điều quan trọng hơn là đưa ông và cả nhà ông đến một sự tin nhận rằng: “Chúa là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6); “Ai tin thì được sự sống đời đời” (Ga 6, 47). Bởi thế, đức tin giống như một tia X-quang làm cho chúng ta khám ra những gì mắt thường không thể thấy. Đây cũng là điểm đẹp nhất trong Tin Mừng hôm nay minh định rằng chỉ có đức tin mới làm nên dấu lạ, và chỉ có đức tin mới xóa tan đi khoảng cách về không gian địa lý để thay vào đó là sự hiện diện của Chúa trong ngôi nhà của mình.
Lúc đầu là một niềm tin và hy vọng về nhu cầu của mình. Dần dần biến thành tình yêu và kính phục khi nhu cầu được giải quyết cách nhiệm mầu. Cuối cùng, tình yêu đã hoàn toàn làm chủ và quy phục trong đức tin.
Đây cũng mẫu gương và là tiến trình trong đời sống của mỗi Kitô hữu.
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy vượt qua những tự hào thái quá để khiêm tốn như viên sĩ quan. Cần có một thái độ tin tưởng tuyệt đối nhưng chân thành và niềm hy vọng đầy tin yêu nơi Thiên Chúa như viên sĩ quan.