2021
CHỌN CHÚA LÀ GIA NGHIỆP
30 27 Tr Thứ Năm. Ngày thứ sáu trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
lC 2, 36-40
CHỌN CHÚA LÀ GIA NGHIỆP
Chúng ta vừa mừng kính trọng thể Mầu Nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Mầu Nhiệm này nói lên tình yêu của Thiên Chúa giành cho nhân loại qua Người Con yêu dấu của Người là Chúa Giêsu Kitô, vì nhờ Người, mà thế gian được sống và được cứu độ.
Cuộc sống con người được đan dệt bằng những mối tương quan gặp gỡ. Có cuộc gặp gỡ tình cờ bất chợt, người đến rồi đi. Có cuộc gặp gỡ như đã hẹn hò từ kiếp trước tạo nên tình thân ái. Đó là cuộc gặp gỡ định mệnh khiến người ta còn ghi nhớ đến ngàn đời sau.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ ân phúc giữa trẻ Giêsu và bà Anna, một nữ ngôn sứ thuộc chi tộc A-sê. Tám ngày sau khi sinh trẻ Giêsu, bà Maria và ông Giuse đưa con mình lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môsê.
Đoạn Tin mừng này trình bày về hai nghi thức truyền thống xa xưa của Do thái đó là: nghi thức thanh tẩy cho người phụ nữ sau khi sinh con. Khi mang thai và sinh con, người phụ nữ bị xem là ô uế nên phải thanh tẩy sạch sẽ mới được giao tiếp với người khác. Nghi thức thứ hai quy chiếu theo luật Môsê “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Xh 13, 2.12.15).
Tin Mừng hôm nay cũng được thánh sử Luca đề cao đời sống của nữ ngôn sứ tên là Anna. Bà tuy đã già, nhưng là một mẫu người Israel lý tưởng. Bà đã nhận ra giá trị của món quà mà Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, nên “bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa”. Theo tập tục của người Do Thái, người phụ nữ không thể ở lại trong khuôn viên Đền Thờ vào ban đêm, nhưng tác giả Tin Mừng thứ ba muốn nhấn mạnh đến sự chuyên cần trong việc phụng tự và cầu nguyện của người Do Thái thời đó, và còn cho rằng bà Anna có những đức tính tốt lành đó. Vì thế, cả cuộc đời còn lại của bà, là gắn bó mật thiết với Chúa vì bà đã chọn Chúa.
Trong ngày thanh tẩy người mẹ và tiến dâng con trẻ, gia đình bà Maria và ông Giuse đã có cuộc gặp gỡ thân thiện với hai vị ngôn sứ cao niên là ông Simêon và bà Anna. Cuộc gặp gỡ có vẻ như sự tình cờ bất chợt nhưng với thánh sử Luca thì đây là biến cố vô cùng quan trọng nói lên cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với dân của Người.
Vốn là người công chính và sùng đạo, ông Simêon được ơn linh hứng sẽ gặp Đấng Kitô trước khi chết. Dù đã ở độ tuổi gần đất xa trời, trước khi nhắm mắtxuôi tay, ông Simêon cảm thấy không yên lòng nếu chưa nhìn thấy Đấng Cứu Độ. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon náo nức lên đền thờ để cầu nguyện và khiêm cung chờ đợi. Niềm vui vỡ òa khi ông được bồng ẵm Hài Nhi Giêsu trên tay. Bằng đôi mắt đức tin, ông Simêon đã nhận ra Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng soi đường cho dân ngoại và là vinh quang của Israel.
Ngoài ông Simêon còn có bà Anna cũng là một bậc đạo hạnh. Xuất giá lúc còn trẻ, bảy năm sau bà Anna trở thành góa phụ nhưng vẫn giữ lòng chung thủy với chồng. Bà thường xuyên giữ chay và hàng ngày chìm sâu trong cầu nguyện nơi đền thờGiêrusalem. Bà Anna đã vượt qua những điều luật khắt khe của Do thái không cho phụ nữ lưu lại trong đền thờ, nhờ thế bà đã gặp được Đấng Cứu Độ. Bà mạnh dạn nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem. Hài Nhi Giêsu chính là Đấng Mêsia, Người sẽ nối lại mối thân tình giữa Thiên Chúa và loài người. Mối dây hôn phối với người chồng ở trần gian bị cắt đứt, bà Anna lại tìm được mối thông hiệp thiêng liêng với Thiên Chúa.
Sau cuộc gặp gỡ thân tình giữa Hài Nhi Giêsu, cả ông Simêon và bà Anna đều đã được chứng nghiệm về Đấng Cứu Độ. Ông Simêon đang đối diện với sự già nua của tuổi tác, những giới hạn của phận người, còn bà Anna chịu sự chia ly xa cách cái chết của người chồng. Thế nhưng sau khi gặp Hài Nhi Giêsu, họ đã có một niềm vui tròn đầy viên mãn và cuộc sống mới tươi đẹp được mở ra thay cho những gì là già nua chết chóc. Cuộc gặp gỡ đã lưu lại nhiều kỷ niệm, niềm vui linh thánh chan hòa khiến họ cất cao tiếng hát chúc tụng tình thương Thiên Chúa. Còn với gia đình Nagiaret, sau khi làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, họ trở về quê hương bắt đầu cuộc sống đầy ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Nữ ngôn sứ Anna là hình ảnh của nhân loại mong chờ Đấng Cứu Độ. Cuộc gặp gỡ giữa Hài Nhi Giêsu và bà Anna cho chúng ta xác tín một điều: chỉ những ai có tâm hồn đơn sơ bé nhỏ, thành kính chay tịnh và âm thầm cầu nguyện mới gặp gỡ được Thiên Chúa. Ngược lại những ai để lòng mình lấp đầy với những sự thế gian như tiền bạc, ham muốn dục vọng chức quyền, người đó chỉ thấy bóng tối của dối trá và chết chóc. Khi sống thân tình với Thiên Chúa trong cầu nguyện, tâm hồn chúng ta sẽ được bình an hạnh phúc. Cũng vậy, khi sống yêu thương hòa nhã với anh em đồng loại cũng là lúc chúng ta gặp gỡ được Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong hoàn cảnh khó nghèo, chuồng bò là nhà, máng súc vật là nôi và cỏ rơm là nệm. Đó không phải do số mệnh nhưng vì một tình yêu thẳm sâu. Người đã không chọn sinh ra trong cảnh giàu sang phú quý, trong nhung lụa ngọc ngà hay trong đền đài vua chúa. Người chọn cảnh nghèo để nên gương sáng cho chúng ta.Con Thiên Chúa đã muốn hòa mình với những người cùng khổ để thông chia mọi buồn vui của kiếp người. Chúa Giêsu đặc biệt yêu thương những người nghèo, người già yếu, người cô đơn góa bụa. Vì thế những ai tự mãn cho mình là người khôn ngoan giàu có, người đó sẽ không nhận ra tình thương của Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu chính là Ánh Sáng xua tan bóng tối của đau khổ, đưa nhân loại thoát mọi u mê lầm lạc của tội lỗi và sự chết. Người cất đi cái ách nặng và gông cùm đang đè lên cổ loài người. Người chính là món quà tình yêu được Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta, tên Người là Cố vấn Kỳ Diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở và là ông Vua Thái Bình. Người đến khai mở một triều đại mới, đưa muôn dân nước về hưởng phần gia nghiệp của con cái Thiên Chúa.
Hài nhi Giêsu chính là ánh sáng của tình yêu, ánh sáng của niềm tin và hy vọng chiếu tỏa trên những ai có tâm hồn đơn sơ và khiêm tốn. Ước gì tình yêu của Đấng Cứu Thế ngự trị trong tâm hồn mọi người tín hữu, nơi mỗi gia đình, trong mọi quốc gia, mọi dân tộc. Ân phúc của Chúa Giáng Sinh cũng là mời gọi mỗi người chúng ta dâng lời cảm tạ hồng ân cứu thế, hăng say lên đường ra đi loan báo tin vui, tin bình an cứu độ để tình thương của Thiên Chúa lan tỏa khắp trần gian.
Chính khi chọn Chúa là tất cả đời mình, tâm hồn bà tràn ngập niềm vui, khiến cho bà quên cả thân phận góa bụa – già nua của mình để chỉ ngày đêm nghĩ đến việc thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa. Hơn thế nữa, khi có cơ hội được tiếp xúc với những người thành tâm thiện chí, nhất là những người từ thành Giêsuralem đến, bà không ngần ngại nói về “Hài Nhi cho những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc” (Lc 2, 38b).
Nữ ngôn sứ mà Tin Mừng thuật lại cho chúng ta hôm nay cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy là những người khôn ngoan, chọn Chúa là phần gia nghiệp đời mình và để tâm tìm cách làm đẹp lòng Chúa. Nhờ đó, dù ở đâu, làm gì … chúng ta vẫn hướng về Chúa là món quà duy nhất Thiên Chúa Cha ban tặng chứ đừng hướng chiều về thế giới vật chất. Vì thánh Gioan nói: “mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi” (1 Ga 2, 16).
Xin Chúa cho chúng ta nhận ra giá trị của tình yêu mà chọn Chúa, biến tình yêu thành hiến lễ hy sinh trong đời sống kết hợp với Chúa, chay tịnh và cầu nguyện … chúng ta sẽ trở nên mẫu gương thánh thiện cho những người khác.
2021
VUI MỪNG VÌ ĐƯỢC GẶP CHÚA
29 26 Tr Thứ Tư. Ngày thứ năm trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh.
(Tr) Thánh Tô-ma Bec-ket (Thomas Becket), Giám mục, Tử đạo.
lC 2, 22-35
VUI MỪNG VÌ ĐƯỢC GẶP CHÚA
Là một người kiên quyết, dù có đôi lúc giao động nhưng sau đó biết rằng, không thể hòa giải với tội lỗi, ngài trở nên một giáo sĩ hăng say, bị tử đạo và được tuyên xưng là Thánh – đó là cuộc đời Thánh Tôma Becket, Tổng Giám Mục của Canterbury, bị giết ngay trong vương cung thánh đường của ngài vào ngày 29.12.1170.
Thánh Tôma sinh ở Luân Ðôn. Ngài theo học ở cả hai trường đại học Luân Ðôn và Ba lê. Sau cái chết của người cha, ngài bị khánh tận, Ðức Tổng Giám Mục Canterbury, là người đã từng sai ngài đến Rôma một vài lần, đã cấp dưỡng và cho ngài theo học giáo luật.
Trong khi làm tổng phó tế cho giáo phận Canterbury, vào lúc 36 tuổi, ngài được Vua Henry II, là bạn của ngài, chọn làm thủ tướng Anh, là nhân vật quyền thế thứ nhì trong nước, chỉ sau vua. Ngài nổi tiếng vì lối sống xa hoa và phung phí, nhưng khi Vua Henry chọn ngài làm giám mục chính tòa Canterbury, thì cuộc đời ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài được thụ phong linh mục chỉ một ngày, trước khi được tấn phong giám mục. Và ngài quyết liệt thay đổi đời sống bằng sự khổ hạnh. Không bao lâu, ngài đụng độ với vua về vấn đề quyền lợi của Giáo Hội và hàng giáo sĩ.
Vua Henry nhất quyết nắm lấy quyền điều khiển Giáo Hội. Có khi, vì cố giữ hòa khí, Ðức Tổng Tôma phải nhượng bộ. Ngài tạm thời chấp nhận Hiến Chương Clarendon, không cho phép giáo sĩ được xét xử bởi một toà án của Giáo Hội, và ngăn cản họ không được trực tiếp kháng án lên Rôma. Nhưng sau cùng, Ðức Tổng Giám Mục Tôma tẩy chay Hiến Chương này, ngài trốn sang Pháp và sống ở đó trong bảy năm. Khi trở về Anh, ngài biết mình sẽ bị chết. Vì ngài từ chối không miễn tội cho các giám mục được vua sủng ái, vua Henry đã tức giận kêu lên, “Không có ai đưa tên giáo sĩ rắc rối này khuất mắt ta hay sao?” Bốn hiệp sĩ đã thể hiện lời nguyện ước của vua, và đã hạ sát Ðức Tổng Giám Mục Tôma ngay trong vương cung thánh đường Canterbury.
Chỉ trong vòng ba năm sau, Ðức Tôma được phong Thánh, và ngôi mộ của ngài trở thành nơi hành hương. Chính Vua Henry II đã ăn năn sám hối tại ngôi mộ Thánh Tôma, nhưng người kế vị là Henry VIII đã chiếm đoạt ngôi mộ ấy, và tẩu tán các thánh tích của ngài. Tuy nhiên, Ðức Tôma Becket vẫn là một thánh nhân anh hùng trong lịch sử Giáo Hội cho đến ngày nay.
Đức Mẹ và Thánh Giuse đem Chúa Giêsu hài nhi lên đền thờ Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa theo luật ông Môsê truyền dạy.
Trong dịp may hiếm có này, ông Simêon là người công chính và có lòng kính sợ Chúa; Ông đến đền thờ và gặp gỡ Chúa Giêsu; lòng ông vui mừng nhận ra hài nhi Giêsu là Chúa Cứu Thế; ông tạ ơn Chúa vì đã được bồng ẵm Chúa trên cánh tay của mình; Ông rất mãn nguyện và hạnh phúc, thốt lên:
“Lạy Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.
Ông Simêon nói về Con Trẻ là Đấng cứu độ của muôn dân, là ánh sáng soi cho lương dân, và đặc biệt, Con Trẻ sẽ phải chịu nhiều đau khổ thử thách:
“Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối.”
Chúa Giêsu là Đấng muôn dân trông đợi. Tiêu biểu cho lòng mong đợi của dân Israel chính là ông Simêon. Vì tin vào Con Trẻ là Đấng thiên sai và lòng ông hằng khao khát gặp Chúa Cứu Thế, nên ông đã gặp được Chúa, được bồng ẵm Chúa. Lòng ông hân hoan vui mừng.
Chúng ta đang trong những ngày bát nhật mừng Chúa Giáng Sinh. Chúng ta hãy đến hang đá chiêm ngắm Chúa Hài Nhi và gặp gỡ Ngài.
Chúa Giêsu là ánh sáng, là Đấng ban ơn cứu độ cho nhân loại. Để tất cả chúng ta đón nhận được ơn cứu độ của Chúa, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ.
Tin vào Chúa Cứu Thế, mỗi người chúng ta mới gặp gỡ được Ngài, và chúng ta sẽ vui mừng hân hoan, vì Ngài đã giáng sinh cho chúng ta, và tỏ bày tình thương của Ngài cho chúng ta. Qua Lời Chúa phán dạy, Chúa soi sáng cho chúng ta thánh ý của Ngài, chân lý của Tin Mừng và ơn cứu độ cho muôn dân. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa trao ban sự sống của Ngài cho chúng ta.
Vì thế, chúng ta hãy vui mừng vì gặp được Chúa, đón nhận Chúa, yêu mến Chúa và sống sự sống của Ngài trao ban cho chúng ta.
Trong tâm tình đó, chúng ta hãy dâng lời cảm tạ tình thương của Thiên Chúa. Chúng ta hãy đến và thờ lạy Chúa Hài Nhi và kết hiệp với Ngài qua mầu nhiệm Thánh Thể mỗi ngày trong Thánh lễ Misa.
2021
LÀM CHỨNG CHO CHÚA
27 24 Tr Thứ Hai. THÁNH GIO-AN TÔNG ĐỒ, lễ kính.
Ga 20, 2-8
LÀM CHỨNG CHO CHÚA
Khi viết sách Tin Mừng, thánh Gioan – người môn đệ được Đức Giêsu thương mến không viết về Thầy Giêsu như một nhà viết sử thuần túy. Ngài tuyên bố rất rõ ràng mục đích ngài viết sách Tin Mừng Thứ Tư là để cho mọi người tin vào Đức Kitô; và vì tin, họ đạt được cuộc sống đời đời” (Ga 20,31). Lời Chúa trong ngày kính thánh Gioan Tông Đồ cho chúng ta thấy rõ tại sao ngài làm chứng cho Đức Kitô. Ngài hiến dâng sự sống của mình để hiệp thông với con người và để con người được hiệp thông với Thiên Chúa.
Ta thấy thánh Gioan khẳng định rất rõ ràng “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” Trong lời chứng này, thánh Gioan dùng một loạt các động từ: nghe, thấy, chiêm ngưỡng, chạm tới, để làm chứng cho Đức Kitô.
Đó là tất cả kinh nghiệm đức tin mà thánh nhân đã lãnh nhận từ Thiên Chúa và Giáo Hội chứ không phải do nỗ lực khôn ngoan của con người. Chúa Giêsu hằng sống không vì ích lợi riêng tư cá nhân nhưng vì sự hiệp hiệp thông của con người với nhau và hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó mà niềm vui được trọn vẹn. Như thế, theo thánh Gioan niềm vui là điều cốt tủy của Tin Mừng cần được rao giảng. Nếu người loan báo chỉ mang tin buồn và gây thất vọng cho người nghe, đó không phải là Tin Mừng của Đức Kitô. Dĩ nhiên, nhiều khi người loan báo phải đánh thức lương tâm khán giả để thúc đẩy họ tới việc ăn năn hối cải; nhưng một khi họ đã thú nhận tội lỗi, họ phải cảm thấy niềm vui vì tội được tha và họ được giao hòa với Thiên Chúa.
Trong Trình thuật Tin Mừng, thánh Gioan kể lại biến cố vào sáng ngày Phục Sinh: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.” Hành động của hai môn đệ làm chúng ta tự hỏi: Tại sao người môn đệ này lại để cho Phêrô vào trước?
Có lẽ bởi vì Phêrô là người lãnh đạo các Tông đồ. Hành động của người môn đệ, tuy tới trước nhưng không vào, nói lên sự tôn trọng quyền bính của ông. Tuy nhiên, đây không phải là lý do chính yếu mà thánh nhân đề cập. Mục đích thánh nhân đề cập đến chi tiết này có lẽ là Ngài muốn nêu bật lên hành động Tin của người môn đệ vào Đức Kitô đã sống lại. Hơn nữa, tác giả cũng muốn gởi tới độc giả một lời khuyên nhủ: người nào yêu mến Đức Kitô nhiều bao nhiêu dễ chạy nhanh hơn và nhận ra Ngài dễ hơn (Ga 21, 7).
Ta thấy hình ảnh vị tông đồ được Chúa Giê-su thương mến – tông đồ Gioan – đầy tình yêu, sự nhanh nhẹn, năng nổ và nhiệt huyết. Những yếu tố đó đã khiến cho vị tông đồ trẻ khi nghe nói: “Người ta đã lấy mất xác thầy!” thì liền tức tốc cùng với tông đồ trưởng chạy ra mộ. Tuy nhiên, vị tông đồ trẻ cũng thật dễ thương trong thái độ khiêm tốn, biết kính trọng cương vị của tông đồ trưởng Phê-rô nên cho dù chạy tới trước, ngài vẫn biết khép mình để cho huynh trưởng bước vào rồi mới vào theo sau.
Tình yêu và sự sống là ân ban của Thiên Chúa, là dấu chỉ, là tiếng nói của Đấng phục sinh; là lời mời gọi của Thiên Chúa – Ngài muốn con người được sống hạnh phúc và sung mãn. Tin – Yêu là tương quan hai chiều. Tôi có sống niềm tin vào Thiên Chúa trong việc thể hiện tình yêu của tôi đối với Người và với anh em đồng loại? Nhìn vào hang đá Be-lem, chúng ta nhìn thấy sự sống động của mầu nhiệm Tình yêu Nhập thể. Thiên Chúa không xa vời, nhưng Người hiện hữu, khóc, nói, cười và chung chia kiếp sống con người. Người đã chết, đã phục sinh và trở nên nguồn hy vọng cho con người.
Ngôi Lời Thiên Chúa – Chúa Giêsu Ki-tô đã làm người và trở nên mẫu mực cho đời sống con người trong tình yêu phục vụ không ngơi nghỉ, đầy lòng khoan dung, nhân hậu và xót thương. Ngài làm người để nâng chúng ta lên hàng con cái Thiên Chúa. Ngài đã trải qua kiếp sống con người, chịu chống đối, bách hại, khổ đau trong việc rao truyền và bảo vệ sự tinh ròng của ánh sáng chân lý Chúa. Ngài chết và đã phục sinh bởi vì Ngài là nguồn mạch sự sống của mọi sinh linh, mọi thọ tạo mà Thiên Chúa Cha đã đặt dưới chân Ngài.
Mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta được mời gọi suy gẫm về mầu nhiệm Phục sinh, và được mời gọi dâng hiến tình yêu cho Thiên Chúa. Như tông đồ Gioan, mỗi người chúng ta cần thiết lập mối tương quan thân tình với Đức Giê-su Ki-tô – Đấng hằng yêu thương chúng ta. Người yêu thương chúng ta trước và mời gọi chúng ta đáp lại bằng cuộc sống đức tin trong việc thực thi lời Người truyền dạy. Mỗi người chúng ta cần phải thấm nhuần Lời Chúa để có được sự tinh tế, nhạy bén nhận ra ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố của đời sống; để mỗi ngày chúng ta biết sống quảng đại hơn, yêu thương nhiều hơn, kiên nhẫn, thứ tha, chia sẻ và phục vụ cách vô vị lợi.
Với tất cả tâm tình, qua trang tin Mừng hôm nay, chúng ta cần ý thức hơn bổn phận làm chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng và bằng cuộc sống chứng nhân. Mục đích của việc làm chứng là để cảm thông với con người và dẫn họ tới niềm tin vào Đức Kitô. Để lời rao giảng có hiệu quả, chúng ta cần có một niềm tin mạnh
2021
LỜI ĐÃ HÓA THÀNH NHỤC THỂ
25 22 Tr Thứ Bảy. CHÚA GIÁNG SINH, lễ trọng.
Ga 1, 1-18
LỜI ĐÃ HÓA THÀNH NHỤC THỂ
Thánh Gioan Tông Đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu của Ngài bằng nhiều cách dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhưng Thiên Chúa với hình ảnh ta khó thấy được và nhiều khi không nhận ra những công trình tình yêu của Ngài. Yêu nhiều rồi cũng có lúc phải nói ra. Thiên Chúa quá yêu thương con người nên sau cùng đã gửi Con Một của Ngài xuống trần để tỏ cho ta biết tình yêu Thiên Chúa. Con Một Thiên Chúa chính là Lời của Chúa ngỏ với nhân loại. Vì thế ta hãy vào hang đá Bêlem để lắng nghe được Lời Chúa nói với ta. Chúa Giêsu bé thơ không nói bằng âm thanh vật lý, nhưng Ngài nói bằng âm thanh của trái tim. Lời của Ngài là lời của tình yêu.
Nếu trong Mùa Vọng, tín hữu đã sống lại niềm trông mong đợi chờ Chúa của Dân thánh, lấy kinh nghiệm thao thức của họ làm kinh nghiệm thức tỉnh cho mình, và lấy tâm tình dọn dẹp đường lối của họ làm tâm tình chuẩn bị cõi lòng của mình, thì hôm nay không còn úp mở nữa, vị Thiên Chúa được trông chờ ấy chính là Thiên Chúa nhập cuộc.
Khác với lối nhìn của Cựu Ước vốn coi Thiên Chúa là “Đấng khôn tả”, nên muốn tả về Ngài người ta chỉ dám dùng đường lối phủ định nghĩa là thêm chữ “vô cùng” vào sau mỗi phẩm tính muốn dành cho Ngài. Và cũng khác với lối nhìn của ngày xa xưa vốn coi Thiên Chúa là “Đấng đáng sợ”, nếu lơ mơ đến gần Ngài sẽ phải mất mạng như chơi. Đàng này, vị Thiên Chúa được chờ mong lại đến thật sát thật gần. Người hóa thân làm người ở giữa chúng ta.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Thánh Kinh vẫn quen gọi đây là cuộc “Thiên Chúa viếng thăm Dân mình”, nhưng cuộc viếng thăm này lại rất đặc biệt, không chỉ diễn ra trong chốc lát, cũng không thể được lặp lại trong lần khác nữa. Người là vua vinh quang trên trời đã nhận lấy kiếp người giòn mỏng để khởi đầu sự nhập cuộc. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thể trở nên con người thật với tiểu sử riêng rõ nét. Người là Thiên Chúa thật đã nhập thế giữa lòng thế giới với lịch sử chung nhân loại rõ ràng. Đó là sự nhập cuộc.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Đêm nay, Chúa Giêsu đến ở luôn nơi chúng ta. Ngài tự mời để trở nên thành phần cuộc sống của tôi và Ngài chờ mong nhận được những sự chăm sóc, quan tâm, tình thương. Ngài cũng chờ mong ta để Ngài lớn lên, phát triển. Các bạn thấy không, xúc động khi tiếp đón “bé Giêsu” có ích gì nếu ta không để chỗ cho Ngài lớn lên, phát triển đến nỗi chiếm cả cuộc đời của chúng ta, tới độ Ngài trở thành Chủ của chúng ta như một bài ca cổ xưa đã nói: “Thầy chí thánh của chúng ta vừa mới sinh ra cho chúng ta”.
Vì ta phải ý thức: chấp nhận Thiên Chúa đến viếng thăm tức là chúng ta phải dấn thân vào những nẻo đường đầy yêu sách. Ngay đêm nay, điều đó muốn nói rằng đối với người này hay người khác trong chúng ta phải quên đi một cuộc tranh chấp và tăng thêm thiện chí. Phải đi một hay hai bước thêm nữa.
Việc Thiên Chúa đến viếng thăm cũng mang lại cho chúng ta một sự ngạc nhiên rất lớn nữa. Quả thật, Ngài không đến một mình, Ngài kéo theo một đám người không mấy danh giá. Một câu hỏi vang lên đặc biệt mạnh trong đem Giáng Sinh này: “Nhưng lạy Ngài có khi nào chúng tôi đã nuôi nấng, đón tiếp, viếng thăm Ngài đâu? Có khi nào chúng tôi đã không làm điều đó?”. Anh chị em đã biết rõ câu trả lời rồi. Khi ta để Chúa Giêsu lớn lên, Ngài thực sự mang gương mặt của những người đàn ông đàn bà của ngày hôm nay, và rất thường là những gương mặt của những người nghèo nhất và xấu số nhất.
Lời Thiên Chúa đang ngỏ với ta qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Hãy đến bên hang đá để nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Hãy mở rộng trái tim để đón nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Trong bóng tối hận thù, ích kỷ, ghen ghét của thế giới, tình yêu Chúa là ánh sáng xé tan đêm tối. Hãy để ánh sáng tình yêu Chúa soi chiếu tâm hồn ta. Hãy đón nhận ánh sáng tình yêu của Chúa, để đến lượt chúng ta, chúng ta đem ánh sáng tình yêu của Chúa chiếu soi vào môi trường chung quanh ta. Để cho thế giới bớt tối tăm. Bấy giờ Lời của Chúa, Lời tình yêu sẽ vang dội khắp thế giới.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.