2022
Ơn tái sinh
25.4 Thánh Máccô, Thánh Sử
Cv 4:23-31; Tv 2:1-3,4-6,7-9; Ga 3:1-8
Ơn tái sinh
Thánh Mác-cô là một trong bốn tác giả đã ghi lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Bốn thánh sử viết Tin Mừng của Chúa Giêsu là Matthêu, Máccô, Luca và Gioan. Tất cả bốn thánh sử, mỗi người một vẻ, mỗi người một cách đã tường thuật đầy đủ cuộc đời của Chúa Giêsu. Thánh Mác-cô đã được Chúa gọi mời, tuyển chọn để trở nên tông đồ và là một người tường thuật lại đời sống của Chúa Giêsu.
Thánh Mác-cô là người Do Thái, thuộc dòng họ Lêvi. Sau khi Chúa lên trời, thánh nhân theo thánh Phêrô, vị tông đồ trưởng, sang La mã. Thánh nhân được thánh Phêrô trìu mến và yêu thương, nâng đỡ cách đặc biệt. Thánh Mác-cô hăng say giảng đạo và nhờ lòng nhiệt thành, hăng say loan báo Tin Mừng cho Chúa Giêsu, nhiều người đã quay trở về với Chúa và Giáo Hội. Số người trở lại càng ngày càng đông, nhưng không có một tài liệu nào để giúp giáo dân học hỏi và tham khảo. Nhiều người ao ước có một bản viết về cuộc đời của Chúa Cứu Thế. Với những yêu cầu và khao khát của nhiều người. Thánh Mác-cô đã viết lại cuộc đời của Chúa Giêsu một cách mạch lạc và rõ ràng theo chương mục dựa theo lời giảng dạy của thánh Phêrô. Thánh Phêrô đã cho phép phổ biến và dùng trong giáo đoàn.
Trong Tin Mừng hôm nay. Thánh Marcô đã ghi lại mệnh lệnh của Chúa Giêsu trước khi Ngài về trời : “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,16). Mệnh lệnh Truyền giáo vẫn là nỗi ưu tư hàng đầu của Hội Thánh Chúa Kitô trải qua mọi thời đại.
Sự kiện nổi bật trong Năm Đức Tin đã qua ta đã thấy đó là cuộc kỷ niệm kéo dài hai ngày tại Rome về phẩm giá của cuộc sống và những phương thế để kết hợp giáo huấn này trong chương trình Tân Phúc Âm Hóa.
Cha Geno Sylva, vị đại diện của các dân tộc nói tiếng Anh tại Hội Đồng Giáo Hoàng Thúc đẩy Tân Phúc Âm Hóa, hy vọng sự kiện này sẽ nói lên một tiếng nói rõ ràng với thế giới trần tục và thế giới “sẽ phải lắng nghe và kết luận rằng ‘quả thật, có một nền văn hóa sự sống phát ra từ Giáo Hội.’ ” Đó là hai ngày hội quốc tế từ 15 tới 16 tháng Sáu, bắt đầu từ sáng thứ bảy với một buổi thảo luận giáo lý về “Tin Mừng Sự Sống và Phúc Âm mới”.
Sự kiện này sẽ giúp “khám phá ra các chân lý lâu dài và vượt thời gian của thông điệp”Evangelium Vitae” do Chân Phước John Paul II ban hành năm 1995 và vai trò chính mà ‘Tin Mừng Sự Sống’ vẫn tiếp tục trong việc truyền giáo mới của Giáo Hội. Cha Sylva giải thích rằng điều quan trọng trong việc rao giảng chính là lúc mà người nghe “hiểu về đức tin của chúng ta và lý do tại sao chúng ta tin.”
Hiểu về đức tin của chúng ta và lý do tại sao chúng ta tin.”. Thiết tưởng đó cũng là điều then chốt để cho các Kitô hữu chúng ta phát triển đức tin của mình để rao giảng Tin Mừng. Cũng còn đó nhiều người lớn cũng như giới trẻ còn quá coi thường việc tham dự Phụng vụ Thánh lễ Chúa Nhật, khi vẫn còn ngồi vật vờ ngoài sân, gốc cây dự lễ cho xong như là mình chẳng biết tin là gì. Như vậy một người lương dân đi qua chắc hẳn họ cũng thắc mắc phải chăng niềm tin của chúng ta chỉ là một số luật buộc phải giữ cho xong. Cũng có trường hợp con cái kết hôn với người không công giáo nay trở lại. Nhưng gia đình họ vẫn buộc người công giáo phải làm theo những ý muốn của họ như xem ngày, giờ tốt… Người công giáo vẫn theo, không tuyên xưng đức tin của mình.
Tân Phúc Âm Hóa vẫn là lời mời gọi của Giáo Hội cho con cái mình. Tham dự tích cực sốt sắng trong Phụng vụ cũng là một lời rao giảng thiết thực. Thánh lễ Hôn phối khi có cô dâu, chú rể là tân tòng. Gia đình họ là lương dân khi tham dự chắc chẳn cũng cảm nghiệm được lý do tại sao chúng ta tin. Khi vào gia đình xui gia là lương dân. Trước khi nói chuyện chuẩn bị đám cưới cho con cái. Người Công giáo xin phép gia chủ để thắp một nén nhang trên bàn thờ Tổ Tiên của họ. Thiết tưởng cũng là cách mình rao giảng Tin Mừng. Theo Đạo Công giáo không phải là bỏ ông bà cha mẹ như một số người vẫn quan niệm, và như vậy việc rao giảng chính là lúc mà người nghe “hiểu về đức tin của chúng ta và lý do tại sao chúng ta tin.”.
Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô về ơn tái sinh. Nhờ cuộc tái sinh này, con người được gia nhập vào Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu khẳng định rằng: “Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa”.
Ông Nicôđêmô chưa hiểu lắm về ý nghĩa của hai chữ “tái sinh”. Ông chỉ hiểu như là hai từ đó như phải sinh lại một lần nữa theo con đường tự nhiên, giống như người mẹ sinh con cái. Tuy nhiên, ở đây, Chúa muốn hướng ông đến một cuộc tái sinh thiêng liêng, thuộc tinh thần, hơn là một sự sinh hạ thể lý tự nhiên. Đó là sự sinh lại “bởi trời”, một sự tái sinh mới bởi “nước và Thánh Thần”, thì mới được vào Nước Thiên Chúa.
Qua những lời dạy của Chúa Giêsu về ơn tái sinh, Chúa dạy chúng ta nhớ đến Bí tích Thánh tẩy mà chúng ta lãnh nhận từ khi còn thơ bé.
Bí tích Thánh Tẩy làm cho người tín hữu chúng ta được tái tạo và được phục hồi phẩm giá của mình, từ tình trạng tội lỗi, nô lệ ma quỉ, và phải chết đời đời, sang tình trạng của ơn sủng. Nay, nhờ được tái sinh trong Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, được tham dự vào đời sống vĩnh cửu của Thiên Chúa Ba Ngôi, được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giêsu qua mầu nhiệm chịu chết và sống lại, được đón nhận sự sống của Chúa Thánh Thần, và đặc biệt, được trở thành con cái của Thiên Chúa, và được gia nhập vào Hội Thánh Chúa.
Ơn tái sinh qua Bí tích Thánh Tẩy, giúp chúng ta được sống một đời sống mới. Bởi thế, chúng ta phải triệt để sống xứng đáng với ơn làm con cái Chúa, phải xa lánh tội lỗi, từ bỏ nết xấu, chiều theo những đam mê bất chính; vì những điều đó dễ làm chúng ta đánh mất ơn làm con cái Chúa. Hãy luôn sống như con cái của sự sáng.
Sống đạo hằng ngày, quan trọng nhất chính là sống tình hiếu thảo đối Cha trên trời, bằng tâm tình thờ phượng Thiên Chúa, đặt Chúa lên trên hết, tin tưởng, yêu mến và vâng phục Thiên Chúa cách tuyệt đối. Thiên Chúa yêu thương, nhân từ, khoan dung, độ lượng và chỉ làm mọi điều tốt đẹp cho con người. Vì thế, ta còn phải sống tâm tình cảm tạ, tri ân Thiên Chúa trong suốt cuộc sống chúng ta.
Sống đạo là đi theo Đức Kitô và trở nên giống Người. Muốn thế, chúng ta hãy siêng năng đọc và sống Lời Chúa dạy, để trong cuộc sống của ta, ta luôn nói, suy nghĩ, làm những điều phù hợp với Phúc Âm.
Vì được tái sinh bởi “nước và Thánh Thần”, nghĩa là trong chúng ta luôn có Chúa Thánh Thần hoạt động. Vì thế, chúng ta luôn luôn giữ vững ơn nghĩa của Chúa, biết vâng phục ơn Chúa Thánh Thần soi sáng qua tiếng nói của lương tâm ngay thẳng, sống theo chân lý, sống theo sự thật.
2022
Mô tả dung mạo Đấng Phục Sinh
23.4 Thứ Bảy trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 4:13-21; Tv 118:1,14-15,16-18,19-21; Mc 16:9-15
Mô tả dung mạo Đấng Phục Sinh
Trong mầu nhiệm Giáng Sinh Ngôi Hai trở thành Đấng Emmanuen, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Ngài không chỉ đến viếng thăm con người trong chốc lát mà còn ở lại, chia sẻ trọn vẹn kiếp người, gánh lấy tội lỗi nhân loại, để chết thay, để đền bù cho nhân loại. Nếu chỉ có thế mà thôi thì chưa đủ, Ngài đã Phục Sinh để chúng ta cùng sống lại với Ngài nữa. Phúc Âm Gioan hôm nay tường thuật chính lúc các tông đồ vất vả chài lưới, từ bờ biển Tibêria, Ngài đứng dõi theo, hướng dẫn để các ông bắt được nhiều cá. Chẳng những thế Ngài còn nướng sẵn bánh và cá và ân cần thân ái gọi các ông “Hãy đến mà ăn đi!”
Tin Mừng hôm nay là một tóm kết về những lần hiện ra của Chúa Giêsu khi Ngài sống lại. Thánh Marcô nhấn mạnh đến sự cứng lòng tin của các môn đệ để làm nổi bật chứng từ của Chúa Giêsu hiện ra và mệnh lệnh phải ra đi làm chứng cho Ðấng Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn mãi mãi là một, nhưng khi hiện ra, Ngài luôn đến với hình dạng của một người xa lạ. Với bà Maria Madalena, Ngài hiện ra như một người làm vườn; với hai môn đệ đi về làng Emmaus, Ngài đồng hành như một lữ khách xa lạ; với các môn đệ chài lưới, Ngài xuất hiện như một người mà họ cũng không nhận ra ngay tức khắc.
Niềm tin vào Ðấng Phục Sinh luôn đòi hỏi các môn đệ phải làm một bước nhảy vọt để từ một người xa lạ, nhận ra dung mạo của Thầy mình. Từ hai ngàn năm qua, chứng từ về Ðấng Phục Sinh cũng luôn diễn ra như thế, từ cuộc sống của cộng đồng tín hữu tiên khởi, qua cái chết của các vị tông đồ đến cuộc tử đạo, của không biết bao nhiêu các tín hữu ở mọi thời đại, cuộc sống tin cậy mến ở mọi nơi là một chứng từ sống động và liên lỉ về Ðấng Phục Sinh.
Câu chuyện Tin Mừng mở ra cho thấy dấu hiệu của một cuộc đánh bắt thất bại, lạc lõng và thất vọng. Một hậu cảnh tối đen, xám xịt. Tuy nhiên, từ đó chúng ta đã có thể nhìn thấy những nét tươi sáng của cuộc gặp gỡ đầy ngạc nhiên với Thiên Chúa và niềm vui của một mẻ cá dồi dào nổi lên như một sự tương phản.
Các môn đệ là những ngư phủ kinh nghiệm. Họ có sẵn công cụ, kĩ thuật, kiên trì trước những mệt mỏi, sự hiểu biết về hướng gió và luồng nước, khôn ngoan trong việc phán đoán đúng thời điểm, đúng vị trí để đưa thuyền ra đến nơi có độ sâu thích hợp để thả lưới. Bất chấp nhiều kinh nghiệm và mọi nỗ lực, lưới cá vẫn trống không, giống như một chiếc giẻ cũ ướt mèm. Để trả lời cho câu hỏi của Đức Giêsu “Này các chú, không có gì ăn ư ”, họ đã đáp lại cộc lốc, pha chút chua xót “Không”.
Người ta chỉ có thể nhận ra những bàn tay trống rỗng khi xòe ra nhận lấy quà tặng. Đó dường như là phong cách giáo dục thường xuyên của Đức Giêsu để dẫn người ta đến với sự thật trần trụi về chính họ, không thể bào chữa và không có lối thoát. Người phụ nữ Samari, trong cuộc đối thoại với Ngài đã được dẫn đến việc thừa nhận “chị không có chồng” (Ga 4,17).
Trước khi được Đức Giêsu chữa lành, người bại liệt tại hồ nước ở Bedatha nhận biết rằng anh đã phải chờ đợi trong vô vọng suốt 38 năm và thành thật tự thú về sự bất lực và cô đơn của mình: “Thưa Ngài, không có ai…” (Ga 5,7). Ở giữa đám đông nhưng không một ai giúp anh vào đúng thời điểm cần đến. Với chàng thanh niên giàu có, Đức Giêsu đã nói: “Anh chỉ còn thiếu một điều…” (Mc 10:21). Tại tiệc cưới Cana, chính Đức Maria đã nhận thấy tình trạng hết rượu và cảnh báo với Chúa Giêsu: “Họ hết rượu rồi” (Ga 2:3)
Đó là một phần của sự tăng trưởng nhân bản và thiêng liêng khi chúng ta thành thật nhận ra có điều gì đó thật đáng tiếc, khi nhận ra những yếu kém của chúng ta. Trong bối cảnh này, mẻ lưới trống trông vì không có Chúa. Chỉ với sự hiện diện và lời của Chúa Giêsu mới có thể biến đổi sự thất vọng thành niềm hy vọng, sự thất đảm của các môn đệ trở thành kinh ngạc. Sự kiện này minh họa cách sống động cho những gì Đức Giêsu đã nói trong diễn từ cuối cùng “Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy….Không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15: 4-5).
Từ hậu cảnh buồn bã nổi lên sự tương phản của một sự dư dật đáng kinh ngạc: 153 (50*3 + 3, dấu chỉ của sự tròn đầy) những con cá lớn. Sự dồi dào là một trong những đặc tính “kì diệu của món quà” mà Đức Giêsu thực hiện, hóa bánh ra nhiều làm thỏa mãn đám đông với những chiếc rổ đựng đầy bánh. Tại Cana, 6 chum đựng nước lã đã hóa thành rượu, mỗi chiếc chứa từ 80 đến 120 lít nước. Hơn thế nữa, toàn là rượu ngon hảo hạng, nhiều hơn mức cần thiết để giải quyết tình huống khẩn cấp.
Tin Chúa Giêsu phục sinh đòi hỏi một điều khác nữa cần thiết hơn điều tai nghe mắt thấy. Đó là cảm nghiệm được sự sống lại và được giải thoát. Điều đó đòi hỏi sống cảm nghiệm tích cực, không giới hạn và cởi mở vô cùng.
Tóm lại, đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh chỉ phát sinh từ lòng trông cậy riêng đối với tôi, riêng đối với mỗi người. Trông cậy có thể được sống lại cho chính bản thân chúng ta trong sự hợp nhất với Người và duy trì được sự hiện diện sâu xa với Người ngay ơ đời này.
Giáo Hội là thân thể mầu nhiệm của Ðấng Phục Sinh, Ngài chỉ thực sự được nhận diện trong thân thể ấy qua cử chỉ trao ban mà thôi. Chính vì thế mà trọng tâm và cao điểm của Giáo Hội chính là cử hành Thánh Thể. Giáo Hội lập lại cử chỉ trao ban của Chúa Giêsu, nhưng cử chỉ ấy sẽ không diễn tả trọn vẹn dung mạo của Ðấng Phục Sinh, nếu nó không được nối dài và diễn tả cùng cuộc sống trao ban cụ thể của Giáo Hội và của các tín hữu Kitô. Cuộc đời của người tín hữu Kitô phải là một thánh lễ nối dài để mãi mãi mô tả dung mạo của Ðấng Phục Sinh.
2022
Chúa đó
22.4 Thứ Sáu trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 4:1-12; Tv 118:1-2,4,22-24,25-27; Ga 21:1-14
Chúa đó
Sau khi nhận tin báo từ Maria Madalêna là các ông sẽ được thấy Đức Giêsu phục sinh tại Galilê (x. Mt 28,10). Tuy nhiên, ngày và giờ thì không biết, nên trong khi chờ đợi, các ông đã tranh thủ đi đánh cá. Tuy nhiên, lần ra quân đầu tiên của các ông đã thất bại.
Thánh sử Gioan trình thuật: họ thức suốt đêm để đánh cá, nhưng tới sáng, họ vẫn trắng tay, không bắt được con cá nào!
Vì thế, họ sửa soạn giặt lưới để đi nghỉ sau một đêm vất vả cực nhọc. Đúng lúc ấy, Chúa Giêsu hiện ra và đứng trên bãi biển gọi các ông với những từ rất thân thương, gần gũi: “Này các chú, không có gì ăn ư”. Khi họ đáp không có, Đức Giêsu truyền lệnh cho họ thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ bắt được cá. Kết quả đúng như lời Đức Giêsu nói. Tổng tất cả là 153 con. Ngay lập tức, người môn đệ được Đức Giêsu thương mến nhận ra Thầy của họ và reo lên: “Chúa đó!”.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tác giả cho biết đây là lần thứ ba Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ. Tuy nhiên, lần này có những điểm đặc biệt vì ngoài việc củng cố niềm tin, chúng ta thấy có những tình tiết khác:
Thứ nhất, vâng lời Chúa thì sẽ được thành công cách mỹ mãn hơn cả suy tính của con người. Có Chúa mọi chuyện sẽ được êm đẹp. Thuyền đầy cá và lưới không rách chứng minh điều đó.
Thứ hai, qua mẻ cá lạ với 153 con, muốn nói lên các ông sẽ là lưới người như lưới cá và ơn cứu độ phải được loan đi đến với hết mọi người, mọi nơi và mọi thời.
Thứ ba, công cuộc truyền giáo là của mọi người, không riêng rẽ. Vì thế, sự hiệp nhất để cùng nhau thi hành sứ vụ là điều cần thiết. Một mình không thể chu toàn. Lưới đầy cá và phải nhờ các thuyền khác cùng kéo lên cho thấy đặc tính này.
Cuối cùng, yêu mến thì sẽ nhận ra Chúa và đi vào mối tương quan mật thiết với Ngài cách đặc biệt như Gioan.
Trình thuật sau cùng trong Tin Mừng thánh Gioan kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu phục sinh với các môn đệ ở biển hồ Tibêria. Các môn đệ trải qua một đêm thả lưới, đến sáng vẫn chưa bắt được con cá nào. Nghe tiếng Đức Giêsu từ trên bờ vọng ra: “Cứ thả lưới xuống bên phải thuyền thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới xuống, nhưng lần này không sao kéo lên được vì lưới đầy cá. Như đã có kinh nghiệm đọc ra dấu chỉ, các môn đệ nhận ra Chúa và đến với Người.
Điểm nhấn của trình thuật sau cùng này trong tin mừng Gioan là ba lần Đức Giêsu hỏi ông Phêrô: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” và cũng ba lần ông can đảm và khiêm tốn đáp rằng: “Thưa Thầy có, Thầy biết con thương mến Thầy.” (Ga 21, 15-17)
Chúa Giêsu và Phêrô đã có ít nhất ba năm đồng lao cộng khổ, đã cùng chia nhau biết bao thăng trầm sóng gió trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng. Ba năm không phải là khoảng thời gian quá ngắn để có thể hiểu được lòng dạ một người vốn gần gũi bên mình. Thế nên, thật ngạc nhiên khi Thầy Giêsu lại hỏi Phêrô đến ba lần câu hỏi về tình yêu của ông dành cho Người. Vì Đức Giêsu chưa hiểu được tấm lòng Phêrô? hay là vì Phêrô đã chưa một nào lần thật lòng tuyên xưng tình yêu của mình dành cho Thầy Giêsu?
Nhiều người giải thích rằng, ba lần Chúa Giêsu gạn hỏi là một cách khéo léo để nhắc Phêrô về ba lần ông đã chối Thầy trong cuộc thương khó. Điều ấy có thể đúng. Thế nhưng rõ ràng Thầy Giêsu đến với Phêrô không phải để vặn vẹo hay hạch tội, nhưng là để dứt điểm chữa lành mặc cảm tội lỗi và để hàn gắn những đổ vỡ trong tâm hồn Phêrô. Ba lần đối diện với câu hỏi của Chúa Giêsu là ba lần Phêrô có cơ hội để xác tín về tình yêu của mình. Tình yêu ấy vượt qua những lỗi lầm sai phạm và những bất trung bất tín… Có lẽ ít khi ta thấy ông Phêrô tuyên xưng lòng mến cách điềm tĩnh và lặng lẽ như lần này, bởi tính cách của ông luôn sôi nổi, mạnh mẽ. Nhưng để thưa lên những lời như thế, Phêrô hoàn toàn cậy dựa vào ơn Chúa, vì cú vấp ngã đau thương của ông trong cuộc thương khó của Thầy Giêsu đã giúp Phêrô nhận ra mình mong manh và dễ ngã thế nào.
Kinh nghiệm của tông đồ Phêrô cho ta thấy rằng ta cần ơn đặc biệt để yêu mến và bước đi theo Chúa. Phêrô đã từng tự tin và cậy vào sức riêng. Vấp ngã và được Đức Giêsu nâng dậy giúp Phêrô hiểu mình hơn, biết Chúa hơn và nhờ đó có thể theo Chúa hơn.
Theo Chúa luôn là một hành trình riêng tư, một tương quan cá vị với Chúa. Nơi đó, chỉ có Chúa và ta. Trải qua nhiều kinh nghiệm khác nhau, thăng trầm, hăng say hay cả những vấp ngã, ta học được bài học yêu thương và lớn lên trong lòng mến. Theo Chúa trong đời sống thường ngày cũng cần những nỗ lực bản thân và ơn Chúa trợ giúp. Câu hỏi Chúa dành cho ông Phêrô “con có yêu mến Thầy không?”cũng áp dụng cho mỗi người chúng ta vào một thời điểm nào đó trên hành trình theo Chúa hoặc cũng có thể là ngay hôm nay.
Để trả lời cho Chúa, chúng ta cần nhìn vào cõi lòng mình để biết mình hơn, để nhìn ra con tim đang nghiêng về đâu giữa nhiều chọn lựa. Thật tốt lành nếu chúng ta cũng có thể thưa lên với Chúa câu nói đầy xác tín của Phêrô “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết rõ con yêu mến Thầy.” Và nếu câu trả lời không hẳn như thế, chúng ta cũng đừng vội hốt hoảng nhưng xin Chúa giúp để can đảm chọn Chúa, để con tim biết yêu mến hơn và để theo sát Chúa hơn. Ước gì Chúa tiếp tục đến với chúng ta mỗi ngày để hướng dẫn và chỉ dạy chúng ta trong những bôn ba vất vả, xin Chúa nâng đỡ khi chúng ta yếu đuối hay vấp ngã và xin Chúa thực hiện những điều kỳ diệu từ những nỗ lực bé nhỏ bình thường của chúng ta.
Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Sống tín thác vào Ngài ngay trong những biến cố đau buồn, thất vọng nhất của cuộc đời. Sống tình hiệp nhất, yêu thương và làm chứng cho Chúa trong thời đại chúng ta hôm nay.
2022
ĐỪNG SỢ
21.4 Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
Cv 3:11-26; Tv 8:2,5,6-7,8-9; Lc 24:35-48
ĐỪNG SỢ
Sợ hãi, đó là điều hầu như không ai tránh khỏi. Bản tính tự nhiên con người “tham sống sợ chết” nên lo sợ đủ điều. Có người sợ sâu bọ, sợ gián sợ chuột. Có người sợ rắn rết, hổ sói. Có người sợ bóng đêm, sợ yêu ma quỷ quái. Nói chung, sợ hãi xuất hiện khi ta cảm thấy nguy hiểm. Sợ hãi có thể xem là một bản năng sinh tồn, nó khiến ta cảnh giác hơn. Nếu xét trong đời sống tự nhiên, có thể nói, sợ hãi là một người bạn tốt cần được đối xử tử tế.
Mặc dầu Chúa Giêsu đã tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người ba lần, các môn đệ vẫn chưa hiểu đường lối của Ðấng Cứu thế. Biến cố của ngày Thứ Sáu Chịu nạn đã làm tiêu tan những mối hi vọng của các ông, như hi vọng Thầy mình sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, hi vọng được một chỗ đứng trong vương quốc của nước Người. Thảm cảnh thập giá vẫn còn làm các ông hoang mang và sợ hãi. Hai môn đệ đi làng Emmau quyết định bỏ cuộc về quê. Rồi Chúa Giêsu hiện ra giải thích cho các ông hiểu lời Thánh kinh liên quan đến Người. Khi họ mời Nguời khách lạ vào nhà và lúc Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho họ, họ mới nhận ra Người (Lc 24:30-31). Bình an đã được phục hồi cho họ.
Rồi hai môn đệ vội vã trở về Giêrusalem gặp Nhóm Mười Một và hai ông được bảo là Chúa đã sống lại và hiện ra với ông Simon (Lc 24:33-34). Hai môn đệ Emmau cũng thuật lại cho Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp về việc Chúa hiện ra với hai ông và các ông đã nhận ra Người lúc Người bẻ bánh. Lúc này Chúa lại hiện ra đứng giữa các ông và chúc: Bình an an cho các con (Lc 24:36).
Tuy nhiên các tông đồ vẫn: Kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma (Lc 24:37). Ðức Giêsu liền trấn an các ông bằng cách chứng minh căn tính của Người, chỉ cho họ tay chân của Người có xương thịt, chứ không phải là ma.
Tuy nhiên các ông vẫn chưa tin vì mừng rỡ mà lại ngỡ ngàng (Lc 24:41), Chúa mới hỏi xem các ông có gì ăn không? Rồi Chúa giải thích lời Thánh kinh cho các ông hiểu về cuộc khổ hình và phục sinh của Ðấng Cứu thế để đem lại bình an cho các ông.
Trước đó Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với bà Maria Mácđala và mấy bà khác để trấn an các bà (Mt 28:1-10; Lc 24:1-11; Mc 16:1-11; Ga 20:1-18). Ðức Giêsu còn hiện ra với các tông đồ để củng cố đức tin của các ông và ban bình an cho các ông và trao sứ mệnh cho các ông (Mt 28:16-20; Mc 16:12-15; Ga 20:19-23). Ðặc biệt Chúa còn hiện ra với ông Tôma để phục hồi đức tin của ông đã bị dập tắt và đem lại bình an cho ông (Ga 20:24-29).
Lời chúc bình an của Chúa mang ý nghĩa đặc biệt cho người môn đệ của Chúa. Và để duy trì sự bình an, Chúa truyền cho họ rao giảng sự sám hối để được ơn tha tội (Lc 24:47) vì không thể có bình an nội tâm nếu người ta sống trong tình trạng tội lỗi. Do đó mà thánh Phêrô rao giảng sự sám hối và trở lại cùng Chúa để được ơn tha tội (Cv 3:19) và được bình an. Cũng do đó mà thánh Gioan bảo tín hữu phải xa tránh tội lỗi (1Ga 2:1) để duy trì sự bình an.
Ða số người tín hữu cũng có những lần mang những tâm trạng hoang mang, bối rối, lo lắng và sợ hãi khác nhau. Người thì lo sợ mất công ăn, việc làm, sợ phải mang bệnh tật, sợ mất sức khoẻ. Người thì lo sợ phải sống cảnh chia ly xa cách vì gia đình đổ vỡ. Người khác lo sợ những ngày giờ khủng hoảng, đen tối đè nặng trên tâm hồn. Nếu vậy thì Chúa muốn ta trút tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi vào lòng từ ái của Chúa. Chúa muốn ta đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Việc tín thác vào Chúa là điều mà ta có thể học được bằng kinh nghiệm. Sau khi người ta đã thử đặt tin tưởng vào tiền của, thế lực, địa vị, và rồi cuối cùng người ta thấy không đi đến đâu, có khi còn khổ hơn nữa. Từ đó họ mới tìm đến Chúa.
Theo Thánh Kinh, do sự bất phục tùng của Adam tội đã đột nhập vào nhân loại (x. Rm 5, 12-19). Tội đã truyền lan tới tất cả mọi người, không trừ một ai, đã gieo rắc kinh hoàng và lôi kéo tất cả vào sự chết vĩnh viễn tách lìa với Thiên Chúa. Con người từ đó bị tước đoạt khỏi sự sống, bị đặt dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết (x Rm 7, 24-26). Bị tội lỗi và cái chết chiếm đoạt, khủng bố, con người mất đi bình an nội tại, chỉ còn là hoang mang, sợ hãi.
Thế nhưng, Chúa Giêsu Kitô đã sống lại, Ngài đã đánh bại thần chết, giải thoát con người khỏi ách thống trị tội lỗi và cái chết. Qua sự Phục Sinh của Chúa, kinh hoàng sợ hãi và sự chết từ nay đã bị khử trừ, bình an và sự sống mới được trao ban lại cho con người.
Tin mừng hôm nay, Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Phục Sinh (Lc 24,35-48), thánh Luca thuật lại rất rõ ràng, Chúa Giêsu Phục Sinh khi hiện ra với các tông đồ, Ngài đã trao ban bình an cho các ông. Chúa Giêsu nói: “Bình an cho anh em”(Lc 24, 36). Và để trấn an Chúa Giêsu nói tiếp: “Chính thầy đây mà, hãy sờ xem” (Lc 24, 39). Rồi để chứng minh Chúa Giêsu cho các ông xem tay chân Người.
Qua các môn đệ, Chúa cũng gửi đến ta lời chào bình an. Ngày nay người ta nghe nhiều về những khao khát, ước vọng hoà bình. Nếu đi du lịch bên Do thái vào thập niên 80 của thế kỉ 20 mà gọi điện thoại, người ta sẽ nghe thấy người ở đường giây nói bên kia trả lời shalom, có nghĩa là bình an. Sự kiện đó nói lên người Do thái khao khát hoà bình như thế nào.
Trên bình diện quốc gia và quốc tế, hoà bình theo nghĩa từ điển Webster có nghĩa là tình trạng, hay thời kỳ hoà hoãn, thời kỳ đình chiến giữa các quốc gia, hoặc phe nhóm. Tuy nhiên hoà bình có nghĩa gì đối với cá nhân mỗi người? Cũng theo từ điển Webster, hoà bình có nghĩa là trạng thái tĩnh, không bị tư tưởng xung khắc đè nén, nhưng là một sự hoà hợp trong mối tương quan và liên hệ của mỗi người.
Hôm nay mỗi người chúng ta hãy vui mừng hân hoan! Vui mừng vì Chúa đã sống lại. Vui mừng vì Chúa Phục Sinh đang đến với ta. Ngài đến đem lại bình an và sự sống mới cho ta. Dường như nhiều người trong chúng ta chưa nhận thấy vì còn chậm tin. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ các ông sợ hãi vì tưởng thấy ma! Chúa nói: “Sao anh em lại hoảng hốt?” (Lc 24, 38). Cũng như các tông đồ, chúng ta còn sợ hãi là tại vì chúng ta còn ngờ vực, tối dạ, chưa tin Chúa. Chúng ta còn bất an là vì cuộc đời chúng ta thiếu vắng Chúa.