2021
Sinh Nhật Của Gioan Tẩy Giả
23 20 Tm Thứ Năm Tuần IV Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Gio-an thành Ken-ty (Kęty), Linh mục.
Lc 1, 57-66
Sinh Nhật Của Gioan Tẩy Giả
Chúng ta biết đến thánh Gioan Kenty như là một con người thánh thiện và học thức, Ngài vừa là một giáo sư đại học lừng danh, vừa là một ân nhân của người nghèo.
Có một truyền thuyết rất đẹp về lòng bác ái của thánh nhân. Một người nghèo ăn xin ở cửa phòng ăn. Mỗi người có đúng phần mình, nhưng Gioan đã lấy trọn phần mình cho người bất hạnh. Từ đó, phần của người ăn xin được dành riêng. Công thức “người nghèo đến” được đáp ứng lại bằng “Chúa Kitô đến”. Gioan Kenty còn đưa chính áo choàng của mình cho người bị lạnh lẽo.
Là bậc thầy về đức ái, Ngài cũng rất vui tươi. Một lần, được những người quí phái mời, Ngài đến với y phục rất khiêm tốn của mình và bị đầy tớ chủ nhà xua đuổi. Thay bộ đồ khiêm tốn ấy đi Ngài được mời vào tiệc. Chẳng may, một người giúp việc vụng về làm rớt đồ ăn vào đó. Ngài nói : – “Này, chính nhờ bộ áo mà tôi được ở đây, thế là nó cũng được quyền nếm nước chấm nữa”.
Tinh thần và bác ái đi đôi quá chân thật có một không hai. Ngày kia, khi đi Roma, Ngài bị bọn cướp bóc lột, Ngài nói với họ là không còn gì nữa. Nhưng sau đó Ngài thấy tiền trong áo kép. Ngài vội đuổi theo họ, thú nhận mình ăn cắp và đưa cho họ số tiền này. Lịch sử kể lại rằng, bon cướp đã hối cải ngay.
Kenty, quê hương của Gioan gần Cracovia, là nơi Ngài theo học và đạt bằng tiến sĩ triết học lẫn thần học, Ngài thụ phong linh mục. Giữ ghế tại đại học, Ngài nói tiếng Latinh và tiếng Balan.
Khi cần thiết, Ngài chỉ tranh luận trong tinh thần bác ái bao dung. Trả lời cho những nhục mạ của đối phương, Ngài chỉ biết nói: “Tạ ơn Chúa”. Để vượt qua mọi cực nhọc, thử thách, Ngài tự nhủ: “ráng lên”. Ngài thường nói với học trò của mình : – “Hãy lấy nhẫn nại, dịu dàng và tình yêu làm khí giới để chống lại những quan điểm sai lầm. Thô bạo chỉ hại cho linh hồn và làm hư chính nghĩa”.
Những ghen tương đố kỵ đã làm cho Ngài mất chức đại học và đẩy Ngài vào công việc nặng nhọc tại giáo xứ. Thời gian làm cha sở tại Gracôvia, Ngài đã tỏ ra có một đức bác ái vô bờ, nhưng đại học lại đòi Ngài phải trở về, Ngài lãnh trách nhiệm dạy kinh thánh và tôn giáo cho các công tử Balan. Ngài hành hương Giêrusalem và lắng nghe các lương dân. Khi qua đời vào tuổi rất thọ, sự thánh thiện của Ngài đã lừng khắp nơi Ngài đã đi qua. Thánh Gioan Kenty đã để lại lời kinh rất đẹp này.
“Xin hãy cho chúng con yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu mọi người vì Chúa và làm đẹp lòng Chúa trong tâm hồn và trong hành động của chúng con”.
Nhiều người khóc thương Ngài và Ngài được kể như người làm nhiều phép lạ. Nhưng mãi tới năm 1767, Ngài mới được tuyên thánh.
Trong bài đọc của phần Phụng Vụ hôm nay, ngôn sứ Malakia đã tiên báo về một sứ giả có nhiệm vụ dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm Ngài. Sứ giả ấy là Elia: “Này đây, Ta sai tiên tri Elia đến cùng các ngươi trước ngày trọng đại kinh khủng của Ta, người sẽ hoán cải lòng cha ông về lại với con cháu và lòng con cháu trở về cùng cha ông”. Về sau Chúa Giêsu sẽ tỏ lộ cho các môn đệ Ngài biết: “Elia chính là Gioan Tẩy Giả”, và trong bài Tin Mừng thánh sử Luca đã nói gì với sứ giả Gioan này?
Gio-an là một tên bình thường của người Do-thái. Tương tự như những tên Thiên Ân, Thiên Phúc của người Việt, tên Gio-an có nghĩa là ‘Thiên Chúa thi ân’ – ‘Gia vê có lòng tốt, từ bi, nhân từ, độ lượng’. Tuy nhiên, sự kiện khác thường trong việc đặt tên cho Gio-an là vì trong dòng tộc của hai ông bà không ai có tên như thế, mà theo tục lệ người ta sẽ lấy tên ông nội đặt cho đứa trẻ, nhưng vì Da-ca-ri-a đã cao niên và người ta cũng kính trọng ông nên người ta muốn lấy tên ông để đặt cho con, và điều gây ngạc nhiên ở đây là cả hai ông bà đều nhất trí “Tên cháu là Gio-an”. Tại sao? Bởi vì Gio-an chính là tên Chúa đặt cho, mà theo truyền thống Kinh Thánh thì Thiên Chúa đặt tên cho ai thì người ấy thuộc về Thiên Chúa – người được Thiên Chúa chọn.
Tên Gio-an nói lên con người và sứ mạng của ông; bởi chính bản thân Gio-an đã là một quà tặng mà Thiên Chúa ban cách chung cho nhân loại và cách riêng cho ‘đôi bạn già’ Za-ca-ria và Ê-i-sa-bét. Quả thật, Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với những kẻ có lòng kính sợ người. Người biểu lộ lòng thương xót với Ê-li-sa-bét, giải thoát bà khỏi nỗi tủi nhục không con, vì theo quan niệm Do-thái, người phụ nữ không con là người vô phúc, không đẹp lòng Thiên Chúa, thì nay lòng dạ son sẻ của bà đã được Chúa chúc phúc để từ đây bà có thể ‘ngẩng mặt’ trước hàng xóm láng giềng.
Và cách đặc biệt, Gio-an là người đầu tiên (sau Đức Mẹ) được Chúa thi ân viếng thăm ban ơn cứu độ nên đã “nhảy lên vui sướng trong lòng mẹ” (Lc 1, 44). Gio-an có sứ mạng loan báo lòng thương xót Chúa thi ân cho gian trần, là đã ban chính con của người làm vị Cứu thế đến để giải thoát nhân loại khỏi xích xiềng và bóng đêm tội lỗi – Ông là vị tiền hô dọn đường cho Đấng Cứu tinh và rất xứng đáng với lời ngợi khen của Đức Giê-su: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an” (Lc 7, 28).
Gio-an đã sống trọn vẹn và hoàn tất sứ mạng Thiên Chúa trao cho ông. Ông đóng vai trò của một ‘tiếng kêu’ để giúp nhân loại đón nhận Lời của Thiên Chúa. Ông mời gọi con người tỏ lòng sám hối, từ bỏ nếp sống tội lỗi cũ đầy những gian tham, mưu mô, gồ ghề, lươn lẹo để sống công bình, chính trực, bác ái, yêu thương (Lc 3, 4 – 14). Ông giới thiệu Đấng Mê-si-a cho con người và tự mình rút lui vào bóng tối; Ông đáp lại với những người đối chất và thắc mắc xem ông có phải là Đấng Mê-si-a hay không: “Có Đấng đến sau tôi nhưng trổi vượt hơn tôi, tôi không xứng đáng xách dép cho người” (Lc 3, 15 – 16)….
Mỗi người chúng ta đều có sứ mạng để hoàn thành trong cuộc đời. Cái tên đẹp chỉ có ý nghĩa khi người ta sống đẹp. Tên bạn là Bảo Ngọc ư? Bạn hãy sống sao cho tha nhân có thể cảm nghiệm bạn là viên ngọc quí. Bạn là Hương Lan ư? Bạn hãy sống sao để hương thơm đức độ được lan tỏa…. Ngày nay nếu theo dõi tin tức trên báo chí hay mạng truyền thông, chúng ta có thể thấy có những tội phạm hình sự có những tên rất hay, như tên giết người Thanh Bình, tên cướp Đức Độ…. Chắc hẳn khi đặt tên cho con cha mẹ không bao giờ muốn con mình trở nên những con người như thế. Tuy nhiên, mong ước vẫn là mong ước, nhưng nếu cha mẹ không quan tâm giáo dục con cái trở nên những con người tài đức mà chỉ nuông chiều quá độ, không biết dạy con sống theo lương tâm ngay chính hay thậm chí làm gương xấu cho con thì chính cha mẹ đã không hoàn thành sứ mạng của mình, đồng thời cũng không thể cho con mình một tương lai tốt đẹp được.
Chẳng khác gì người Việt Nam chúng ta, người Do Thái cũng sống tình bà con láng giềng rất thắm thiết. Nghe Elizabeth sinh hạ con trai, bà con láng giềng liền đến giúp đỡ và chia sẻ niềm vui cùng với gia đình Zacharia. Ðến ngày thứ tám, lúc làm lễ cắt bì và đặt tên cho con trẻ cũng có sự hiện diện của họ. Họ muốn lấy tên Zacharia mà đặt tên cho con trẻ chứ không phải là Gioan. Gioan hay Giokhanan tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.
Vì sự chào đời của Gioan là một biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa, cách riêng cho Zacharia và Elizabeth, vì Thiên Chúa đã cất đi sự tủi nhục bấy lâu đè nặng trên người đàn bà son sẻ và cách chung cho toàn thể gia đình nhân loại. Vì hôm nay đã xuất hiện vị sứ giả để dọn đường cho vị Vua trên hết các vua đến thăm dân Ngài, một niềm vui mà đã mấy ngàn năm gia đình nhân loại ngóng chờ. Chắc chắn những người hiện diện đều biết chữ Gioan hay Giokhanan có nghĩa là “Thiên Chúa thương xót”.
Tuy nhiên, họ lại không hiểu được lòng thương xót của Thiên Chúa nên đã từ chối không chịu nhận tên Gioan cho con trẻ. Họ không hiểu vì tâm trí của họ đang bị ràng buộc bởi những suy nghĩ của trần thế, quá lệ thuộc vào các tập quán cổ xưa. Vì thế, họ không còn cảm nhận được giá trị của lòng thương xót Thiên Chúa ban xuống cho con trẻ và gia đình: “Không ai trong họ hàng bà có tên này”.
Con người cứ nhắm mắt đưa chân theo những vết xưa cũ ấy nên họ chẳng nhận ra được những thực tại trước mắt, không biểu lộ được ý nghĩa của công việc họ đang tham dự. Ðến chung vui vì Thiên Chúa đã xót thương, thế mà họ lại không chịu tuyên xưng lòng thương xót của Ngài.
Với Zacharia cũng thế, lý luận mang tính cách trần thế đã khiến ông không tin nhận lòng thương xót của Thiên Chúa đang được ban xuống cho gia đình ông. Vì thế mà ông đã phải lãnh nhận hình phạt là bị câm. Chỉ khi ông đã quyết định đặt tên cho con trẻ là Gioan, tức là khi ông tuyên xưng lòng thương xót của Thiên Chúa thì lúc đó ông mới được tha khỏi hình phạt, và cũng là lúc ông chúc tụng ngợi khen lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thật thế, trong cuộc đời có lẽ không có gì làm buồn lòng con người cho bằng đi làm ơn mà chỉ được lãnh nhận thái độ lãnh đạm, thờ ơ và cũng chẳng có gì đáng trách cho bằng thái độ vô ơn. Nếu trong dân gian có những câu nói diễn tả lòng dạ ác độc như cầm thú thì về phương diện biết ơn, thú vật đôi lúc lại được xếp hạng trên con người: “Cứu vật vật trả ơn. Cứu nhân nhân trả oán”.
Trong những ngày cuối cùng của Mùa Vọng để chuẩn bị mừng kính mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, một mầu nhiệm diễn tả lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại.
Ước mong rằng mỗi người trong chúng ta kiểm điểm lại tâm tình biết ơn của mình. Có thể chúng ta không cố tình quên ơn nhưng trong thực tế chúng ta lại sống như những người vô ơn. Tuy nhiên, như những người láng giềng của gia đình Zacharia, thì qua cách suy nghĩ trần tục, các thành kiến hẹp hòi, các thói quen ích kỷ đã vây phủ lấy chúng ta, làm cho chúng ta bị mờ tối nên chẳng nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa hằng bao bọc chúng ta cũng như tình thương của người anh em đang tặng ban cho chúng ta. Nhưng khi nhận ra lòng thương xót ấy thì chúng ta cũng như Zacharia là thốt lên lời chúc tụng và ngợi khen.
2021
MẸ MARIA MẪU GƯƠNG TUYỆT VỜI
22 19 Tm Thứ Tư Tuần IV Mùa Vọng.
Lc 1, 46-56
MẸ MARIA MẪU GƯƠNG TUYỆT VỜI
Giáo Hội Công giáo có một lòng sùng kính Mẹ Maria một cách đặc biệt. Mẹ đã được ca ngợi trong phụng vụ với nhiều tước hiệu khác nhau. Một trong những tước hiệu tuyệt vời nhất, đó là tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Tước hiệu này phát sinh từ niềm tin của Giáo Hội nơi Chúa Giêsu, người con sinh ra từ cung lòng Mẹ, là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là người nhưng đồng thời cũng là Thiên Chúa.
Khi Mẹ Maria tới thăm người chị họ là bà Elizabeth, ngay giờ phút đầu tiên mới gặp nhau, bà Elizabeth đã cất lời ca ngợi Mẹ là Người có phúc nhất trong giới phụ nữ; Mẹ Maria đã hân hoan vui sướng ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa vì Mẹ đã cảm nghiệm sâu sắc tình thương Thiên Chúa dành cho Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi.”
Mẹ đã vui mừng hớn hở vì Mẹ cũng như mọi người thời đó đang hết sức chờ mong “Đấng Cứu Thế”. Không vui sướng sao được vì nay không những Đấng Cứu Thế đã đến, mà còn đến ngay trong cung lòng của Mẹ. Mẹ tuyệt vời vui sướng, nhưng không phải vì thế mà Mẹ tỏ ra vênh vang, lên mặt với mọi người, ngược lại với lòng khiêm nhượng thẳm sâu, Mẹ nói mình không xứng đáng được ơn trọng đại này (ơn làm Mẹ Đấng Cứu Thế) qua lời : “Phận Nữ tỳ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới”. Người mẹ của một vị vua trần thế, họ tỏ vẻ sang trọng và cung cách của họ tỏ ra quí phái biết chừng nào thế nào. Mẹ Maria thì ngược lại, Mẹ suy nghĩ : ơn trọng đại này là hoàn toàn do tình thương của Thiên Chúa ban cho Mẹ: “Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại”.
Suốt cuộc đời Mẹ luôn là bài ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa. Còn chúng ta, khi được ai khen ngợi một chút đã vênh vang và coi đó là tài năng của mình. Chúng ta thường quên những gì chúng ta có được là hoàn toàn do lòng thương yêu Thiên Chúa dành cho mình. Chúng ta cần học nơi Mẹ lòng khiêm tốn thẳm sâu, nhất là những khi được người khác khen ngợi; để chúng ta luôn khiêm tốn ca tụng Thiên Chúa vì những ơn huệ đó.
Mẹ Maria còn giới thiệu cho chúng ta lòng thương xót Chúa dành cho mỗi người, nếu mỗi người trong chúng ta biết tỏ lòng kính tôn Thiên Chúa : “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”. Chúng ta tỏ lòng kính tôn Thiên Chúa qua việc chúng ta tuân giữ Lời Chúa và các giới răn cũng như các huấn lệnh Chúa truyền qua Giáo Hội.
Một tấm gương nữa chúng ta học được nơi Mẹ là Mẹ luôn quan tâm đến nhu cầu của những người chung quanh, như việc Mẹ đến thăm bà Elizabeth và còn ở lại giúp đỡ bà ba tháng nữa; Cũng như trong tiệc cưới tại Cana, Mẹ đã can thiệp kịp thời khi chủ tiệc hết rượu, mà duy chỉ mình Mẹ nhận ra, Mẹ nói với Chúa Giesu: “Họ hết rượu rồi”. Chúng ta cần học nơi Mẹ sự quan tâm đến nhu cầu của những người sống chung quanh và sẵn sàng đưa tay giúp họ với một tình yêu vô vị lợi. Xã hội ngày nay người ta chỉ phục vụ khi có lợi nhuận hay chức quyền chứ khó tìm thấy người phục vụ một cách vô vị lợi. Đối với Thiên Chúa thì không như thế :
Thiên Chúa thường thực hiện những điều đi ngược với ý nghĩ của loài người: “Chúa giơ tay biểu dương quyền lực, diệt trừ hạng kiêu căng, đề cao kẻ khiêm nhường”.
Đức Maria còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng, trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với Thánh Ý Thiên Chúa.
Đức Maria là khuôn mẫu, đồng thời là mẹ của chúng ta, trong lúc nguy khốn, chúng ta cần hướng về Ngài để van xin Ngài trợ giúp. Ngài hằng ao ước cứu giúp chúng ta miễn là chúng ta biết kêu cầu Ngài. Nếu muốn tìm một giải pháp cho năm mới thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy quyết định dành cho Đức Mẹ Maria một vai trò to tát hơn trong cuộc đời chúng ta.
Mỗi người hãy cảm nghiệm tình yêu thương Thiên Chúa đã, đang thực hiện trong cuộc đời mình và học nơi Đức Maria tâm tình ca ngợi tạ ơn Chúa và luôn phó thác cuộc đời mình cho bàn tay Chúa quan phòng: “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư”. Khi đã cảm nghiệm được tình thương Chúa dành cho mình, chúng ta hãy vui tươi, phấn khởi và luôn nhớ rằng chúng ta có Mẹ là mẫu gương và là Người dẫn dắt cuộc đời chúng ta.
Thánh Luca nhắc đi nhắc lại mẫu gương của Đức Maria: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Mẹ là người luôn lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa và đem ra thực hành. Trước khi Mẹ cưu mang Ngôi Lời trong dạ, thì Mẹ đã cưu mang Lời Chúa trong tâm hồn rồi. Mẹ là mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta về việc lắng nghe và sống Lời Chúa.
Nếu Đức Maria được vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa, thì mỗi người Kitô hữu cũng được chia sẻ sự vinh dự đó. Bởi vì, như Chúa Giêsu nói: “Ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành là anh chị em Ta, và là Mẹ của Ta.”
Giáo Hội là mẹ, nghĩa là Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của Đức Maria, người phải tiếp tục sinh Chúa Kitô cho người khác. Mỗi người Kitô hữu là Giáo Hội. Chúng ta được mời gọi sinh Chúa Giêsu cho người khác bằng sự hy sinh, lời cầu nguyện và đời sống chứng tá của chúng ta, đặc biệt nhờ việc dạy giáo lý, huấn luyện đức tin cho con cái và giới trẻ.
2021
Ðức Maria Gương Mẫu Của Niềm Tin
21 18 Tm Thứ Ba Tuần IV Mùa Vọng.
(Tr) Thánh Phê-rô Ca-ni-xi-ô (Canisio), Linh mục, Tiến sĩ Hội Thánh.
Lc 1, 39-45
Ðức Maria Gương Mẫu Của Niềm Tin
Chúa Giêsu Kitô xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại tại làng quê bé nhỏ. Bethlem này cách xa khung cảnh huy hoàng vĩ đại của các thành phố lớn thuộc các đế quốc vùng Trung Ðông. Ngài đã bước vào gia đình nhân loại như một trẻ thơ bé bỏng yếu đuối, trong một gia đình thường dân khác.
Tuy nhiên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa không có gì là tình cờ cả, các lựa chọn ngược đời ấy của Thiên Chúa như: làng quê Bethlem, cuộc sống khiêm tốn, điều kiện lúc bé bỏng, sự mỏng dòn yếu đuối của con người đều tham dự vào sự cao cả và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa, bởi vì Ðấng xuất thân từ đó sẽ thống trị mọi dân nước và cai trị với chính uy quyền của Thiên Chúa toàn năng và sẽ đem lại an bình cho nhân loại. Kiểu cách lựa chọn ngược đời và các nẻo đường lạ lùng Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu độ lại càng nổi bật hơn trong trình thuật Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 1, 39-48).
Maria một thiếu nữ vô danh, con của một gia đình làng quê Nazareth được Thiên Chúa lựa chọn làm người cưu mang Ðấng Cứu Thế, Con của Ngài. Phước lành Thiên Chúa ban cho toàn thể nhân loại. Trong dòng lịch sử thế giới và lịch sử nhân loại, Thiên Chúa đã ban cho con người không biết bao nhiêu là phước lành, nhưng phước lành cao quí và trọng đại nhất là Ngài đã ban chính Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Thế cho nhân loại.
Mẹ Maria đã có tương giao nghĩa thiết với Thiên Chúa, nên Mẹ đã sống cuộc đời Mẹ cách vẹn toàn, sung mãn dù cuộc đời có nhiều bấp bênh, thử thách. Mẹ cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng; nhờ vậy, Mẹ trở thành Đấng Đầy Ơn Phúc. Cũng thế, gia đình ông Dacaria, nhất là Gioan Tẩy Giả, đã được đầy tràn niềm vui ơn cứu độ nhờ gặp gỡ Con Thiên Chúa Làm Người mà Đức Mẹ đã mang đến cho gia đình ông.
Sống ở đời, người ta phải có tương quan, liên đới. Nhưng trong tương quan, liên đới với những người xung quanh, bạn và tôi đã mang gì đến cho họ? Có khi nào sau cuộc gặp gỡ, trao đổi với ta, họ trở về nhà với tâm hồn nặng trĩu những dằn vặt, đau đớn bởi những lời nói, cử chỉ, hành động thiếu tình bác ái, vị tha của ta? Mẹ Maria đã mang Chúa Cứu Thế đến cho gia đình ông Dacaria. Ta cũng được mời gọi đem Chúa là niềm vui ơn cứu độ đến với những người xung quanh, chứ không phải mang đến cho họ những hiềm khích, chỉ trích gây đau đớn, khổ sầu cho họ.
Lời chào của bà Elizabeth khi thấy Trinh Nữ Maria đến thăm mình và lời kinh chúc tụng của Trinh Nữ Maria đều khen đến cách thế Thiên Chúa lựa chọn con đường dẫn Ngài đến cuộc gặp gỡ cứu độ loài người. Con đường bé nhỏ nghèo nàn, khiêm tốn và kín nhiệm. Nhiều người không chịu được ý tưởng Con Thiên Chúa phải nhập thể làm người trong lòng một phụ nữ, và mở mắt chào đời từ cung lòng của một bà mẹ. Do đó, câu chào của bà Elizabeth: “Em ơi,Em thật có phúc hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con em được chúc phúc” khiến cho họ khó chịu.
Nhưng đây là một sự thật, một sự thật lịch sử minh chứng cho thấy tất cả cái nghiêm trọng của biến cố Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã nhập thể làm người và sinh ra từ cung lòng của một người đàn bà trong gia đình nhân loại. Hoa trái tuyệt diệu ấy, Người Con ấy đã do hoạt động và quyền năng của Chúa Thánh Thần nên đã được cưu mang trong cung lòng của Trinh Nữ Maria.
Nhưng cũng như bất cứ bào thai nào khác, con người được sinh ra trên trần gian đều gắn liền với thịt xác, máu huyết của bà mẹ. Và để nhập thể làm người, Con Thiên Chúa đã cần đến cung lòng của một bà mẹ. Trinh Nữ Maria đã không tiếp nhận Ngôi Lời trong linh hồn mình. mà đã tiếp nhận Ngài trong chính thân xác mình, trong chính cung lòng của mình.
Và Chúa Giêsu hoa trái tuyệt diệu của ơn cứu rỗi ấy đã trở thành một bào thai, nhận chịu mọi luật lệ tâm sinh vật lý của một bào thai. Thân hình, lớn lên, phát triển trong thời gian, giãy dụa đợi chờ trong lòng Mẹ, được Mẹ nuôi nấng bằng chính máu huyết của Bà như bất cứ một thai nhi nào khác. Sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể làm người lớn lên từ từ ấy tỏ hiện rõ ràng qua hình ảnh cụ thể tròn trịa của bụng mẹ mình ngày càng lớn lên trong thời gian.
Hoa trái gợi lên trong tâm trí chúng ta hình ảnh thực phẩm để hưởng nếm, để ăn, bồi bổ và nuôi sống. Hoa trái phát sinh từ sự sống và diễn tả sự sống, nó có nhiệm vụ dưỡng nuôi sự sống và không thể có sự sống mà không có hoa trái.
Sự kiện Chúa Giêsu là hoa trái, là bào thai, là sự sống lớn lên trong cung lòng Mẹ Maria, chứng minh Thiên Chúa không phải là một lý thuyết, một tư tưởng hay một giả thuyết. Thiên Chúa cũng không phải là một luận lý mà Ngài là một hoa trái Thiên Chúa ban để dưỡng nuôi, để cứu thế giới này khỏi chết đói. Mẹ Maria đã không nói nhiều mà chỉ im lặng sống cuộc đời bé nhỏ, thầm lặng, ẩn dật, cưu mang Chúa Giêsu trong lòng rồi hiến dâng Ngài cho chúng ta. Sự phong phú không cần lời, ánh sáng không cần lời nói và sự sống với hơi thở và nhịp đập của con tim chính là sứ điệp. Khi tâm hồn càng trống rỗng khô cằn bao nhiêu thì con người càng nhiều người và gây nhiều tiếng động bấy nhiêu.
Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong tâm hồn, nhưng chúng ta chỉ có thể cưu mang Chúa Kitô phong chức và hữu hiệu như Mẹ Maria khi chúng ta biết sống khiêm tốn bé nhỏ, yêu thích chọn lựa con đường và kiểu cách sống bé nhỏ của Thiên Chúa như một tôi tớ, như người khiêm hạ. Kiểu cách chọn lựa con đường gặp gỡ và cứu rỗi nhân loại trên đây cũng được nêu bật trong thư gởi giáo đoàn Do Thái hay diễn từ về chức linh mục của Chúa Giêsu.
Biến cố Chúa Giêsu Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một biến cố trọng yếu và là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, bởi vì nó mở cửa ra một kỷ nguyên mới, nó vượt xa quan niệm cũ của Do Thái giáo để liên hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, giữa con người và Thiên Chúa. Do Thái giáo đóng khung các liên hệ này trong đền thánh, trong việc dâng cúng các lễ vật và tuân giữ luật lệ, mặc dầu các sinh hoạt này đã có nhiệm vụ và vai trò rất ít quan trọng trong lịch sử cuộc sống tinh thần của dân tộc Israel, Chúa cũng không thể trao ban ơn cứu độ cho con người. Nếu muốn được ơn cứu độ, con người phải tìm trở về với chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với nó ngay từ thời tạo dựng, nghĩa là trước khi con người phạm tội.
Cần phải nhận biết Thiên Chúa và thánh ý Ngài, và lấy đó làm trung tâm lịch sử đời mình và lịch sử cứu rỗi. Cần phải qui hướng cuộc sống của mình theo chương trình và ý muốn của Thiên Chúa và hoán cải trở về với Ngài. Thái độ sống này đòi buộc chúng ta không được tách khỏi cuộc sống lòng tin ra khỏi các sinh hoạt thường ngày. Bởi vì chúng ta không chỉ là Kitô hữu khi cử hành các nghi lễ phụng vụ mà thôi, nhưng là trong suốt ngày sống, trong mọi công việc khác nhau. Tách rời cuộc sống lòng tin khỏi các sinh hoạt và cung cách hành xử thường ngày là chúng ta khước từ việc tin nhận biến cố Nhập Thể của Chúa Giêsu.
Bởi vì khi Nhập Thể, Chúa Giêsu chấp nhận qui hướng toàn cuộc sống của Ngài theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: “Này Con xin đến để thực thi ý Cha”. Và Chúa Giêsu đã sống mọi giây phút đời mình dưới ánh sáng chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, khi biết noi gương Chúa Giêsu sống tinh thần nhập thể trọn vẹn ấy, là chúng ta đón nhận sứ điệp Giáng Sinh đúng đắn và trọn vẹn nhất vậy.
2021
XIN VÂNG THEO Ý CHÚA
20 17 Tm Thứ Hai Tuần IV Mùa Vọng.
Lc 1, 26-38
XIN VÂNG THEO Ý CHÚA
Trong mọi công việc, mọi quyết định, chúng ta thường xin Chúa soi sáng để chúng ta thực hiện công việc theo như ý Chúa. Lời xin vâng này được Đức Maria thi hành một cách trọn hảo, Mẹ là mẫu gương sống động cho mỗi chúng ta khi thi hành thánh ý Chúa. Mừng lễ Mẹ Maria với tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên tội hôm nay, chúng ta cùng suy gẫm về lời xin vâng của Mẹ để đáp trả thánh ý Thiên Chúa bằng lời Xin vâng mỗi ngày trong suốt cuộc đời của mình.
Trình thuật Tin Mừng kể lại việc Đức Maria được Sứ Thần Gabriel báo tin việc cưu mang Đấng Cứu Thế, người mà muôn dân đang mong đợi, Đấng sẽ đến giải thoát dân khỏi cảnh lầm than, khỏi ách nô lệ. Cuộc gặp gỡ định mệnh nhưng cũng thật diệu kỳ, kịch tính.
Đức Maria, một thôn nữ hiền lành, hoàn toàn chưa chuẩn bị gì cho cuộc thăm viếng này. Lời chào của Sứ thần: “Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” đã mang lại cho Mẹ chút bối rối khi tìm câu trả lời. Mẹ cũng băn khoăn trước sứ điệp của Thiên Chúa: “Sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”, ý thức mình chỉ là một thôn nữ như bao thôn nữ khác, Mẹ …trước thánh ý của Thiên Chúa, nhưng Mẹ muốn biết, muốn hiểu sự việc dưới ánh sáng của một người có lòng tin mạnh mẽ vào Chúa. Mẹ không hoài nghi trước ơn trọng đại mà mình sắp đón nhận: “Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” nhưng một lòng tín thác vào Chúa.
Là một thiếu nữ mười sáu tuổi, không một điều báo trước, không một sự chuẩn bị, sứ mạng Thiên Chúa trao cho Mẹ Maria qua lời truyền tin của sứ thần Gaprien không khỏi làm Mẹ ngỡ ngàng và bối rối. Cưu mang Con Thiên Chúa do quyền năng Chúa Thánh Thần – đó là điều quá lớn lao vượt sức lý giải và đón nhận của loài người. Mẹ có quyền thắc mắc và Mẹ cũng có quyền từ chối. Tuy vậy, sau lời giải thích của sứ thần, Mẹ Maria mau mắn đáp lời xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1, 38).
Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho triều thần thiên quốc đang nín thở đợi chờ được hân hoan vui sướng, cho hoa lá reo mừng, cho Mùa Xuân Cứu Độ được mở ra. Mẹ Xin Vâng. Tiếng xin vâng trong khiêm cung và tín thác. Tiếng Xin Vâng chấp nhận mọi khó khăn và hiểm nguy có thể sẽ đến sẽ đến như: sự hiểu lầm của Thánh Giuse – người Mẹ đã đính hôn, mất đi sự đức hạnh trước mắt người đời, thậm chí là cái chết vì ném đá theo luật của người Do Thái. Mẹ Xin Vâng. Tiếng Xin Vâng chân thành và vô điều kiện.
Tiếng Xin Vâng của Mẹ chẳng giống như tiếng xin vâng của người con thứ trong dụ ngôn hai người con: Khi anh được cha sai đi làm vườn nho, anh đáp “Thưa Ngài, con đây” nhưng rồi lại không đi (Mt 21, 28-32). Tiếng Xin Vâng đó cũng chẳng giống với cách vâng phục trong tính toán của người con cả trong dụ ngôn Người cha nhân hậu (Lc 15, 11-32). Mẹ đã Xin Vâng. Mẹ Xin vâng với trọn tâm tình và dùng cả cuộc đời để sống lời Xin Vâng ấy. Nơi Mẹ, thánh ý Thiên Chúa luôn được thể hiện cách trọn vẹn. Nhờ Mẹ và qua Mẹ, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, mang tình yêu và ơn cứu độ đến cho trần gian.
Đức Maria luôn đặt ý mình trong thánh ý Chúa, Mẹ vâng theo ý Chúa vơi lòng tin tưởng và tín thác: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Với lời thưa xin vâng, Mẹ phó thác trong tay Chúa cuộc đời của mình, không biết ngày mai sẽ ra sao và sẽ thế nào.
Nhìn lại cuộc đời của Mẹ, chúng ta thấy từ lúc Mẹ đáp lời xin vâng Mẹ đã hoàn toàn phó thác trong tay Chúa với lòng tin tưởng mạnh mẽ. Trên đường thập giá và khi đứng dưới chân thập tự, Mẹ luôn lặng lẽ, âm thầm đón nhận thánh ý Chúa trong đức tin và để thánh ý Chúa được thể hiện. Thái độ xin vâng của Mẹ thể hiện lòng vâng phục tuyệt đối. Mẹ, chấp nhận vâng theo thánh ý của Thiên Chúa chứ không theo ý riêng của mình. Vì thế, Mẹ là người nữ luôn luôn “đẹp lòng” Thiên Chúa.
Trước những biến cố xảy ra trong cuộc đời mỗi người, chúng ta lo ngại về thái độ và lời đáp trả của chúng ta trước thánh ý của Thiên Chúa. Có nhiều người luôn coi trọng ý Chúa và sống tâm tình xin vâng theo ý Chúa, nhưng cũng có không ít người, không ít lần chính mỗi người chúng ta cũng có thái độ chống lại ý Chúa, coi thường ý Chúa. Cũng có những lúc chúng ta vô tình hay hữu ý hiểu sai ý Chúa. Không ít lần chúng ta gắn cho ý Chúa những ý riêng của mình và chúng ta tự an ủi vỗ về, tự mê hoặc chính mình và bảo đó là ý Chúa hay chúng ta cho rằng ý Chúa thật trùng khớp với ý mình, hợp với ý mình.
Qua những dấu chỉ của thời đại, những biến cố xảy ra trong cuộc đời mỗi người, nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, nhạy bén đọc ra thánh ý Chúa ta sẽ thấy Chúa không ngừng nói với chúng ta, không ngừng thể hiện ý Chúa qua những dấu chỉ và biến cố ấy. Như Đức Maria đã nhận ra thánh ý Chúa qua biến cố Truyền tin, chúng ta cũng sẽ nhận ra thánh ý Chúa qua cá biến cố xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Thế nhưng, chúng ta không thể đáp trả hai tiếng xin vâng cách thờ ơ và lạnh nhạt. Thưa lên hai tiếng xin vâng thì dễ nhưng để sống điều ấy lại là một thách đố cho mỗi người chúng ta.
Trong hành trình theo Chúa, mỗi ngày chúng ta hãy tập đáp lại lời xin vâng bằng việc cầu nguyện với chuỗi Mân Côi. Chúng ta cũng noi gương Mẹ sống âm thầm lặng lẽ, đón nhận những biến cố trong cuộc đời với lòng tín thác và mến yêu. Mỗi ngày ta tập làm những điều nho nhỏ phục vụ tha nhân để lời xin vâng của ta được hoà quyện với tâm tình yêu mến như Mẹ Maria. Mỗi ngày chúng ta cũng tha thiết xin với Mẹ để Mẹ giúp ta biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa với tâm tình con thảo. Nhờ đó, chúng ta cũng vượt thắng được những gian nan thách đố, những khó khăn trong cuộc sống của mình để chia sẻ với tha nhân những ân sủng của Thiên Chúa.
Là người con của Mẹ, chúng ta hãy noi gương Mẹ sống phó thác với lời xin vâng để những khi gặp thử thách trong cuộc đời, những lúc lời mời gọi của Chúa gây xáo trộn cuộc đời mình, chúng ta cũng được Chúa nâng đỡ, được diễm phúc mang lấy Chúa vào tâm hồn với lòng tin kính, mến yêu và phó thác và lúc đó chúng ta là những người mang Chúa đến cho người khác nữa.
Theo bước chân của Mẹ Maria, mỗi người kitô hữu cũng được mời gọi hãy luôn biết lắng nghe lời Chúa, tin tưởng vào kế hoạch yêu thương của Chúa dành cho mỗi người và sẵn sàng đáp tiếng “xin vâng”. Tuy vậy, trong một xã hôi đề cao tự do, quyền lợi cá nhân và chủ nghĩa hưởng thụ như ngày hôm nay, việc sống xin vâng theo thánh ý của Chúa là một thách đố không nhỏ.
Đơn giản mà khó vì tiếng xin vâng bao giờ cũng đòi hỏi những sự từ bỏ và hy sinh mà không phải ai cũng can đảm để chấp nhận. Vẫn còn rất nhiều những lời mời gọi của Thiên Chúa đang chờ đợi lời đáp trả. Ước mong mọi kitô hữu hiểu rằng: Tình yêu chỉ trọn vẹn khi đến từ hai phía. Ơn cứu độ chỉ có thể thực hiện khi có sự cộng tác của con người: “Để dựng nên con Chúa không cần con, nhưng để cứu độ con Chúa cần con cộng tác” (Thánh Augustino).