2022
Đến và tin
2/5 Thứ Hai Thánh Anathasiô, Gmtsht
Cv 6:8-15; Tv 119:23-24,26-27,29-30; Ga 6:22-29
Đến và tin
Thánh Athanius bảo vệ Tin Mừng chống lại bất đồng ý kiến và dị giáo, và diễn giải tình yêu của Chúa Kitô – Đấng đã cứu độ chúng ta, không vì bất cứ điều gì chúng ta đã làm, nhưng vì lòng xót thương của Người.
Thánh Athanasiô được chào đời ở Alexandria, Ai Cập, khoảng đầu thế kỷ thứ ba và lớn lên trong một thời đại khi giáo hội (ở đó) bị đe dọa nghiêm trọng bởi những rối loạn về chính trị và luận chiến về tôn giáo. Giữa những tranh chấp học thuyết gay cấn giữa các giám mục, và sự kình địch cũng như mưu đồ giữa các cận thần, Athanasiô đã đứng độc lập như một người có đức tin sâu sắc và dấn thân say mê cho Chúa Kitô.
Tin Mừng chúng ta vừa nghe kết thúc Chương 6 của Phúc Âm Gioan, đó cũng là phần kết diễn từ của Chúa Giêsu về Bánh trường sinh. Sau lời khẳng định của Chúa Giêsu về Bánh hằng sống, rằng: chính Người là Bánh từ trời ban xuống, và phải ăn thịt và uống máu Người thì mới được sống đời đời; thì hôm nay, Gioan sẽ tường thuật phản ứng của các môn đệ (nhóm Bảy Mươi Hai) và phản ứng của các tông đồ (nhóm Mười Hai) mà Phêrô là người đại diện, đó là những đồ đệ thân tín của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy xem họ phản ứng thế nào trước mặc khải của Chúa Giêsu về Bánh trường sinh, và xem chúng ta đứng ở vị trí nào?
Trước hết, chúng ta hãy xem phản ứng của các môn đệ. Tác giả Gioan mở đầu đoạn Tin Mừng rằng, khi nghe Chúa Giêsu nói Người là Bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời, thì chẳng những người Do thái nghe không lọt tai, mà bấy giờ các môn đệ cũng không thể chấp nhận được, liền phản ứng: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi!”. Họ đã hiểu điều Người nói theo nghĩa mặt chữ, nghĩa vật chất phàm tục, mà không chịu hiểu theo nghĩa tâm linh được Thần Khí soi dẫn.
Thế là “nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã chấp nhận để cho các môn đệ bỏ đi mà không có bất kỳ sự níu kéo nào, hay sự năn nỉ nào. Quả đúng với lời Chúa Giêsu đã nói trước đó: “không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Rõ ràng, ơn đức tin là một ơn ban chứ không phải do nỗ lực từ phía con người mà có được.
Tiếp đến là phản ứng của các tông đồ (nhóm Mười Hai). Sau khi một số môn đệ rút lui, Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Ông Simon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa”. Như vậy, các môn đệ rút lui vì họ không thể theo một người nói những lời không theo lề lối suy nghĩ của con người. Họ bỏ lỡ cơ hội học hỏi suy nghĩ cao siêu của Thiên Chúa. Trong khi đó, chưa chắc Phêrô và các tông đồ đã hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể là lấy thịt Chúa cho nhân loại ăn, nhưng ít nhất Phêrô tin vào uy tín của Thầy không thể nói điều sai lạc vì Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Đồng thời, lời tuyên xưng của Phêrô và sự trung thành của các tông đồ là điểm sáng về niềm tin và lòng trung tín cho chúng ta, nhất là ngày hôm nay không thiếu những người đã lìa bỏ Giáo Hội.
Khi Chúa làm dấu lạ hóa bánh ra nhiều cho người ta được ăn no nê, dân chúng hả hê đi theo Chúa nườm nượp. Nhưng hôm nay, Chúa bày tỏ tình thương xót của Người khi hứa ban của ăn thần thiêng là chính mình Người đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, thì nhiều người trong đám đông bắt đầu tìm cách rút lui; trong số đó, có cả một số môn đệ của Chúa. Họ không mấy quan tâm đến sự sống vĩnh cửu xa xăm nào đó, mà họ chỉ muốn biết đến đời sống vật chất ở đời này. Đối với họ, thế là đủ rồi!
Nếu chúng ta có mặt hôm đó, thì phản ứng của chúng ta sẽ thế nào? Đây là câu hỏi mà chúng ta phải chân thành trả lời trước mặt Chúa. Bởi vì, nhiều khi ta đến với Chúa cốt chỉ để xin những sự dưới đất mà chẳng mặn mà với những thực tại trên trời cao. Rồi khi xin mãi những sự dưới đất như tiền tài, danh vọng, địa vị, chức tước và những sự giàu sang phú quý mà chẳng thấy Chúa ban, ta đâm ra chán nản, chẳng thiết tha đến với Chúa nữa. Thậm chí, vì xin mãi những sự dưới đất không được, ta liền nghi ngờ không biết Chúa có thật hay không và cuối cùng ta nghe theo lời người khác cúng vái tứ phương, thờ hết thần này đến thần nọ để mong có được sự an ủi về đời sống gắn liền với tiền tài, vật chất thế gian này. Chẳng lẽ đời sống đức tin của ta, giống như đám đông dân chúng xưa kia, chỉ gói gọn trong mấy chuyện vật chất thế gian hay sao? Chẳng lẽ chỉ vì không được an ủi về đàng vật chất mà ta nghi ngờ tình thương của Chúa và quyết tâm bỏ Chúa hay sao?
Diễn từ của Chúa Giêsu về Bánh trường sinh cuối cùng lại đi đến một kết thúc buồn, đó là đám đông dân chúng và nhiều môn đệ rút lui vì không thể tiếp nhận mặc khải của Người. Nhưng điểm sáng mà Tin Mừng hôm nay nhắm tới là Phêrô đã đại diện cho nhóm Mười Hai trả lời rằng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
“Chẳng lẽ anh em cũng muốn bỏ đi sao?” Đức Giêsu buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai như thế. Simon đại diện anh em đã xin được tiếp tục ở với Thầy, đi với Thầy. “Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai ?” Lời của Thầy tuy khó nghe, nhưng con tin đó là lời ban sự sống đời đời (c. 68). Lời của Thầy tuy chướng tai, nhưng lại là thần khí và là sự sống (c. 63). Simon tin Thầy Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 69). Đấng Thánh là Đấng từ trời xuốngvà cũng là Đấng sẽ lên trời nơi đã ở trước kia (c. 62).
Có thể điều làm con người hôm nay bỏ đạo, bỏ Chúa Giêsu, lại không phải là những lời khó nghe của Ngài, mà là đời sống của các Kitô hữu, những người không dám sống các lời ấy. Nhiều người thấy chướng khi nhìn vào cuộc sống của họ. Xin Chúa Cha ban cho chúng ta ơn đến với Giêsu, và kiên trì ở lại với Ngài.
Còn chúng ta hôm nay, liệu chúng ta có dám ở lại với Chúa khi những người chung quanh không còn tin Chúa? Chúng ta có dám gắn bó với Chúa khi phần đông nhân loại đang chạy theo sức hút của tiền bạc, vật chất? Chúng ta cùng thinh lặng giây lát, nhìn nhận con người yếu đuối đã bao phen chúng ta rút lui trước lời mời gọi yêu thương của Chúa.
2022
BÌNH AN TRÊN SÓNG NƯỚC
30.4 Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mùa Phục Sinh
Cv 6:1-7; Tv 33:1-2,4-5,18-19; Ga 6:16-21
BÌNH AN TRÊN SÓNG NƯỚC
Tin Mừng thánh Gioan thuật lại rằng, tại vùng Biển Hồ Gialilê, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng khen ngợi tung hô Đức Giêsu, nhưng Người đã lánh lên núi cầu nguyện, Cùng lúc ấy, các môn đệ xuống thuyền để đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Lúc đó, trời đã về chiều và bóng tối sắp bao trùm mà Đức Giêsu vẫn chưa xuống thuyền. Bất chợt gió nổi lên khiến biển động mạnh. Các môn đệ lo lắng chèo chống thì thấy một bóng lớn xuất hiện, các ông hoảng hốt la lên. Đức Giêsu đi trên mặt biển đến và trấn an các ông.
Người môn đệ của Chúa phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng từ bỏ nơi của phép lạ hoá bánh ra nhiều, nơi của sự thành công, nơi của những cơ sở đã được gầy dựng, nơi của một chỗ đứng đã được bảo đảm, để đến một nơi xa lạ, một nơi khởi sự làm quen với những bất trắc và những khó khăn có thể gặp phải. Cũng như trên đỉnh Taborê, giữa lúc Phêrô đang tính chuyện dựng lều thì Ngài lại giục các ông phải xuống núi và tiếp tục con đường lên Giêrusalem, là nơi bản án tử hình của Ngài đang được chuẩn bị.
Thánh Gioan mô tả chi tiết chính xác về thời gian, không gian, địa điểm và cách thế Đức Giêsu xuất hiện. Đó là lúc chiều, trời tối, biển động, gió mạnh. Các môn đệ chèo được chừng năm hoặc sáu cây số. Một chi tiết đặc biệt quan trọng, các môn đệ muốn rước Đức Giêsu lên thuyền vì tưởng còn xa bờ. Nhưng ngay lúc ấy thuyền đã tới bờ đúng như ý muốn của các ông.
Hình ảnh biển được ví như nơi có nhiều nguy hiểm và sự dữ. Ở vào thời điểm chiều tà tranh tối tranh sáng, khi đi trên biển, con mắt người chúng dễ nhầm lẫn, khó phân biệt đâu là thật hay giả. Thêm một chi tiết nữa là gió thổi mạnh, biển động, có lẽ con thuyền cũng chao đảo bập bềnh càng khiến điểm nhìn của các môn đệ thiếu chính xác. Đức Giêsu biết chắc các môn đệ đang sợ hãi nên trấn an ngay “Thầy đây mà, đừng sợ”. Khi Đức Giêsu lên thuyền thì mọi chuyện đều ổn và các ông thấy thuyền đã tới bờ. Thời Cựu Ước, ông Môsê đã đưa dân Do Thái xuất hành vượt qua Biển Đỏ bình an. Thời Tân Ước, Đức Giêsu đi trên biển đưa các môn đệ vượt qua cuộc xuất hành mới để đạt đến sự viên mãn trong Thiên Chúa.
Trong cuộc đời, có những lúc đứng bên bờ vực nguy hiểm, chúng ta mới cảm nhận tình thương yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cũng sẽ trải qua những phút giây kinh hoàng. Để giữ gìn con người khỏi mọi nguy hiểm của sự ác, Thiên Chúa đã ân cần nắm lấy cánh tay của chúng ta. Thiên Chúa hằng chữa lành chúng ta bằng những ơn thánh khơi nguồn từ các bí tích. Trong lòng Hội Thánh, chúng ta không bao giờ bị bỏ rơi, không bao giờ phải chiến đấu một mình. Hội Thánh luôn mở rộng cánh cửa đón chúng ta vào hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh giáo phụ Irênê đã xác tín về sự hiệp nhất toàn vẹn của Hội Thánh nhờ sức sống của Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ở đâu có Hội Thánh thì ở đó có Thánh Thần của Thiên Chúa; ở đâu có Thánh Thần của Thiên Chúa thì ở đó có Hội Thánh và mọi thứ ân sủng”. Đức Giêsu luôn hiện diện trong Hội Thánh, vì thế ở đâu có Hội Thánh ở đó có Đức Giêsu. Và những ai sống xa lìa Hội Thánh sẽ không có được sức sống của Đức Giêsu.
Hội Thánh được ví như một con thuyền đang phải đối diện với nhiều cơn sóng dữ. Những tư tưởng bài thiêng tục hóa, những trào lưu sống vô luân, vô thần, vô tâm …như những bóng tối đang bủa vây Hội Thánh. Thế nhưng Hội Thánh vẫn luôn đứng vững vì có sự hiện diện của Chúa. Với tất cả lòng yêu mến Hội Thánh, cảm thấy rất rõ những vấn nạn của thời đại gây ảnh hưởng đến sức sống và sự thánh thiện của Hội Thánh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ nỗi ưu tư: “Tôi thấy rõ ngày nay Hội Thánh cần có khả năng chữa lành các vết thương và sưởi ấm tâm hồn các tín hữu. Hội Thánh cần sự gần gũi cận kề”. Ngài đã nhìn thấy “Hội Thánh như một bệnh viện dã chiến sau một trận động đất”. Giống như Đức Giêsu, Hội Thánh mang lấy những vết thương đau của nhân loại để băng bó chữa lành.
Công cuộc rao giảng Tin Mừng của các môn đệ không phải là không có những bất trắc, những xáo trộn và những hiểm nguy, như xưa trên mặt biển, các ông đã gặp phải phong ba bão táp. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những bất trắc, thì người ta dễ thất vọng và thối lui. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn có đó trong đêm tối của phong ba bão táp. Ngài có đó để nói với chúng ta rằng: Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ.
Vấn đề là trong những lúc bất trắc xảy đến, chúng ta phải biết nhận ra sự hiện diện của Ngài để can đảm và vững tâm bước tới. Giữa những âm thanh của biển gầm sóng vỗ, chúng ta phải biết nhận ra tiếng nói của Ngài. Và như thế niềm tin của chúng ta phải là một niềm tin, không xuất phát từ lý luận, từ sách vở, nhưng xuất phát từ việc nhận biết Chúa và tiếng gọi yêu thương của Ngài giữa những sự kiện xảy đến trong cuộc sống của chúng ta.
Như người Samaritanô nhân hậu, Hội Thánh luôn tìm kiếm những nạn nhân bị bỏ rơi bên vệ đường, vực họ dậy, rửa sạch vết thương và đưa về nơi an bình. Với sứ mạng đại diện Chúa Kitô, các vị mục tử cần phải ra đi kiên nhẫn tìm kiếm những con chiên lạc để không một con nào phải hư mất. Đây chính là Tin Mừng đích thực của Chúa Giêsu, một Tin Mừng rao giảng trong mọi hoàn cảnh, đi vào mầu nhiệm của con người với tất cả niềm vui và nỗi buồn, với mọi nỗi lo âu trắc trở.
Đứng trước biển đời nhiều sóng gió thì Chúa Giêsu mãi là bến bờ bình an để mỗi người chúng ta hướng về. Một khi đã có Chúa hiện diện, thì dù trời tối hay sáng, chúng ta vẫn có được niềm vui và bình an đích thực. Con thuyền của đời ta bé nhỏ trước biển đời mênh mông. Chúng ta sẽ không sợ hãi, không cô đơn nếu nhận ra sự hiện diện của Chúa. Mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn hãy đón rước Chúa Giêsu vào, để Người đem đến sự bình an đích thực cho chúng ta.
2022
Hãy sẻ chia
29.4 Thánh Catêrina đệ Siena, Đtts
Cv 5:34-42; Tv 27:1,4,13-14; Ga 6:1-15
Hãy sẻ chia
Catarina Benincasa chào đời tại thành Siena vào năm 1347, và gia nhập dòng Ba Đaminh khi còn rất trẻ. Ngài nổi bật về tinh thần cầu nguyện và sám hối. Được thúc đẩy vì tình yêu nồng nàn đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, và Giáo Hoàng Roma, thánh nữ đã hoạt động không biết mệt mỏi cho sự nghiệp bình an và hợp nhất của Giáo Hội, trong những năm tháng gian truân của thời kỳ di tản Avignon. Thánh nữ đã dành rất nhiều thời gian hoạt động tại phủ Giáo Hoàng để thuyết phục Đức Gregoriô XI trở về giáo đô Roma, vì đó mới chính là nơi Đấng Đại Diện Chúa Kitô điều hành toàn thể Giáo Hội. Chỉ vài hôm trước khi qua đời, ngày 29 tháng 4 năm 1380, thánh nữ đã tâm sự rằng: “Nếu tôi qua đời, hãy cho người ta biết rằng tôi chết vì nhiệt tâm với Giáo Hội.”
Thánh nữ đã viết rất nhiều thư từ, hiện còn giữ được chừng 400 bức, một số kinh nguyện, ‘những lời than thở,’ và một quyển sách duy nhất là cuốn ‘Đối Thoại.’ Trong quyển sách này, thánh nữ đã ghi lại những lần tâm tình thân mật của mình với Chúa. Người nữ tu dòng Ba Catarina được Đức Piô II tôn phong hiển thánh, và lòng sùng kính ngài mau chóng lan rộng khắp Âu Châu. Thánh nữ Têrêsa Avila nói rằng: “Sau Thiên Chúa, người mà ngài mang ơn nhiều nhất về sự tiến bộ trên đường thiêng liêng là thánh nữ Catarina Siena”. Đức chân phúc giáo hoàng Piô IX đã tôn nhận thánh nữ Catarina lên làm quan thầy nhì cho nước Ý (cùng với thánh Phanxicô khó nghèo). Đến năm 1970, Đức Phaolô VI đã tôn phong thánh nữ Catarina Siena danh hiệu Tiến Sĩ Hội Thánh.
Thánh nữ Catarina luôn thẳng thắn và can đảm lên tiếng mỗi khi có vấn đề nào ảnh hưởng đến Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng, và lợi ích các linh hồn. Ngài cảm thấy mình có trách nhiệm phải bảo vệ chân lý. Ở điểm này, chúng ta có thể học được rất nhiều từ thánh nữ Catarina: ngài không bao giờ nhượng bộ trong những điều căn bản, bởi vì ngài đặt trót niềm tin nơi Chúa.
Chúng ta hãy nài xin thánh nữ Catarina cho chúng ta được chia sẻ phần nào lòng yêu mến của ngài đối với Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng Roma, và cả những ước vọng nóng bỏng muốn truyền bá giáo lý của Chúa Giêsu khắp nơi. Đồng thời, luôn cố gắng khám phá ra những khía cạnh tích cực của mọi vấn đề, không bỏ phí một cơ hội nào. Chúng ta hãy nài xin Đức Mẹ bằng những lời của chính thánh nữ Catarina: “Ôi Maria, con đến van nài, xin Mẹ dâng lời khẩn nài của con cho Hiền Thê dịu hiền của Chúa Kitô và cho vị Đại Diện trên trần gian của Người. Ước chi ngài luôn luôn được ánh sáng để cai trị Giáo Hội một cách khôn ngoan sáng suốt.”
Trước đám đông dân chúng đến mình, Chúa Giê-su đã đặt vấn đề cho các môn đệ, nhưng chỉ là “để thử các ông.” Nhu cầu của đám đông quá lớn, Chúa lại bảo các môn đệ phải cho họ ăn. Phi-líp-phê, người được hỏi, lo lắng không biết lấy tiền đâu để mua bánh; ấy là chưa kể, dù có tiền, biết mua ở đâu đủ bánh cho một lượng người đông đảo như thế! Vì thế, cho đến chiều tối, các môn đệ vẫn lúng túng không tìm ra được giải pháp cho đám đông ăn. Quả thật, Chúa Giê-su muốn các ông quan tâm đến con người thời đại và ra lệnh cho các ông làm hơn những gì các ông có thể, vì Chúa muốn các ông nhận ra giới hạn của mình trên bình diện tự nhiên, và cũng để các ông nhận ra rằng Chúa không là “nơi” cung cấp dư đầy bánh ăn vật chất mà Ngài còn là chính tấm bánh trường sinh, bẻ ra cho muôn người được ăn và sống đời đời.
Giống nhu Mô-sê xưa đã được Đức Chúa ban man-na nuôi dân Ít-ra-en trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc 40 năm về miền Đất Hứa, Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều, ám chỉ việc Người sẽ Man-na Mới là bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng đức tin của Ít-ra-en Mới là Hội Thánh trên bước đường vượt qua sa mạc trần gian để về Đất Hứa Nước Trời đời sau.
Đức Giêsu nói với Phi-lip-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Dĩ nhiên Người có thể làm phép lạ hóa bánh từ trời để nuôi đám đông dân chúng, giống như Đức Chúa đã ban man-na từ trời rơi xuống nuôi dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất Hành. Nhưng ở đây, Đức Giêsu muốn các môn đệ ý thức và nhiệt tâm cộng tác trong sứ vụ ban ơn cứu độ cho lòai người.
Ngày nay Ngừơi cũng muốn các tín hữu chúng ta ý thức bổn phận phải tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng và phục vụ Chúa hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi…
Tin mừng ghi lại lời của Phi-lip-phê nói lên sự bất lực của các môn đệ trước nhu cầu quá lớn : “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”: Tuy nhiên Đức Giêsu chỉ muốn thử để biết lòng tin của môn đệ, vì Ngừơi biết việc Người sắp làm.
Ngày nay khi mời gọi chúng ta cộng tác, hẳn Đức Giêsu cũng quá rõ về khả năng giới hạn của chúng ta. Nhưng Người muốn chúng ta ý thức bổn phận cộng tác, rồi vừa làm hết sức mình, vừa cậy trông vào tình thương và quyền năng của Người như Người đã dạy: “Vì không có Thầy anh em không làm gì được” (Ga 15,5b).
An-rê đã mau mắn đưa một bé trai đến và thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu?”. Chúa cần thiện chí của các môn đệ thể hiện qua các việc làm thiết thực cụ thể, hơn là thái độ ỷ nại “nói mà không làm”.
Ngày nay Chúa muốn các tín hữu chúng ta làm những việc bác ái hợp với khả năng như thánh Gia-cô-bê dạy: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có lợi ích gì? Đức Tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ : “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có lợi ích gì? Cũng vậy, đức Tin không có hành động thì quả là đức Tin chết” (x. Gc 2,14-17). Vậy chúng ta có thể làm gì trong những ngày này để phục vụ Chúa hiện thân trong các người nghèo khổ, bất hạnh và đang bị bỏ rơi?
Đức Giêsu dạy các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”.
Ngày nay nhân lọai vẫn tồn tại hai lọai là người giàu và kẻ nghèo: “Kẻ ăn không hết người lần không ra !”. 80% của cải trên trái đất đang nằm trong tay 20% người giàu. Còn hơn 700 triệu người không đủ cơm ăn áo mặc và một phần ba trẻ em ở lục địa đen (Phi châu) đang bị suy dinh dưỡng rất cần được trợ giúp. Qua việc ra lệnh cho môn đệ thu lại những miếng bánh thừa bị vứt bừa bãi, Đức Giêsu muốn chúng ta phải biết trân trọng lương thực Chúa ban, vì của cải là của chung hết mọi người và chúng ta chỉ được trao quyền quản lý. Cần chi tiêu tiết kiệm để có điều kiện chia sẻ cho những người nghèo đói hơn mình. Vậy chúng ta có thể tiết kiệm những gì để lấy tiền giúp đỡ những ngừơi nghèo đói bên cạnh?
Chúa sai chúng ta đến với muôn dân và ra lệnh cho chúng ta làm hơn những gì chúng ta có thể. Mệnh lệnh của Chúa không cho chúng ta thoái thác. Nhưng đôi lúc chúng ta cứ theo giải pháp nhân loại như Phi-líp-phê loay hoay tìm kinh phí ở đâu để mua bánh. Những giải pháp quen thuộc chưa phải là giải pháp tốt nhất. Mời bạn hãy đến với Chúa Giê-su: Ngài có cách tốt hơn, theo cách thức riêng của Ngài mà con người không hề nghĩ đến.
2022
Yêu thương
27.4
Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mùa Phục Sinh
Cv 5:17-26; Tv 34:2-3,4-5,6-7,8-9; Ga 3:16-21
Yêu thương
“Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi đã sai Con Một mình…”
Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo hội rao giảng là chúng ta đã được Chúa yêu thương từ trước muôn đời. Kitô giáo được xây dựng trên niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tuỷ của Tin mừng. Không có đoạn văn nào trong Thánh kinh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3, 15).
Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình
Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3, 20). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỉ. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu xa” (Ga 3, 19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ (R. Veritas).
Tình yêu vốn là tiêu chuẩn để con người được xét xử. Trong cuộc thẩm xét chung cuộc, Đức Giêsu chỉ tra vấn con người về một điều duy nhất, đó là nó có sống yêu thương không? Người Kitô hữu do đó không lo sợ về một cuộc chung thẩm trong ngày sau hết; họ lại càng không phải bận tâm về bức tranh mà trí tưởng tượng con người đã tô vẽ cho ngày ấy, bởi lẽ họ biết rằng sự phán xét diễn ra ngay trong hiện tại qua từng lựa chọn của họ. Mỗi khi họ sống yêu thương thì lương tâm sẽ không luận phạt họ, trái lại, khi họ để thù hận xâm chiếm tâm hồn và thúc đẩy họ khước từ tình yêu, thì đó là lúc họ bị xét xử. Thật thế tâm hồn họ sẽ không có bình an, nếu họ không sống yêu thương.
Một Thiên Chúa quyền năng có thể cứu thế gian không cần phải làm người hoặc chết trên Thập Giá. Thế nhưng, Ngài đã chọn phương thế này vì muốn cho con người có cảm nghiệm sâu xa về tình yêu của Ngài theo cách thức loài người.
“Hy sinh vì người mình yêu”. Khi cống hiến cho người cảm nghiệm được tình yêu Ngài, Thiên Chúa không muốn gì hơn là sự đáp trả. Tình yêu nào mà chẳng cần đáp trả, chính do thái độ đáp trả hay chối từ mà con người bị luật phạt hay không, vì Thiên Chúa không sai Con người đến để xử án thế gian nhưng nhờ Ngài mà được cứu rỗi. Ðức Kitô là mặt trời công chính, Ngài đến với hết mọi người, đặc biệt là những người đang bị vây hãm trong bóng tối tội lỗi. Ngài không kết án họ, nhưng luôn giang rộng đôi tay đón mời họ trở về.
Tội lỗi và yếu đuối là thân phận con người, nhưng nếu con người vẫn cứ ẩn mình trong tội lỗi, thích bóng tối hơn sự sáng, thì chắc chắn họ sẽ bị luật phạt. Biệt phái và luật sĩ bị Chúa Giêsu khiển trách nặng nề vì họ cố chấp trong sai lầm, không dám đối diện với ánh sáng, sợ rằng việc làm của mình sẽ bị phơi bày. Chúa Giêsu đã chỉ trích cho họ thấy khiếm khuyết nhưng họ vẫn cứng lòng. Thế nên, về sau, những lời chúc dữ “khốn cho các ngươi” được dành cho họ hoàn toàn.
Suy đến tình yêu lớn lao khôn tả của Thiên Chúa đối với chúng ta, chúng ta hết lòng cảm tạ Chúa, yêu mến Chúa, đền đáp tình yêu của Chúa bằng cách sống tốt lành thánh thiện, sống trong sự thật, hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu Kitô, tuân phục lời Ngài và thánh ý của Thiên Chúa mà thực thi trong cuộc sống. Đồng thời biết yêu thương người khác như Thiên Chúa đã yêu thương ta, sẵn sàng trao ban cho người khác những gì quý hóa nhất của ta vì hạnh phúc của họ; như tài năng sức khỏe, thì giờ, sở thích nhu cầu quyền lợi. Nhất là biết cầu nguyện cho mọi người tin Chúa Giêsu, sống theo lời Ngài để họ được ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban cho họ. Như thế chúng ta đã chứng thực niềm tin của mình vào Thiên Chúa, và Đức Kitô và ơn cứu độ mà Ngài đã ban cho chúng ta nhờ cuộc tử nạn của Ngài. Sống như thế chúng ta làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa và đang ở trong Thiên Chúa.
Tình yêu của Thiên Chúa, là tình yêu cho đi, cho đi chính Con Một, cho đi tất cả để cho nhân loại có được sự sống. Tình yêu này mời gọi chúng ta là những người con biết cho đi làm quà tặng cho nhau, vì đó là tình yêu dâng hiến mà Chúa Cha muốn chúng ta – người con thực thi như Đức Giêsu hiến thân vì mạng sống vì người mình yêu.