2022
Đôi mắt
10.6 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
1 V 19:9,11-16; Tv 27:7-8,8-9,13-14; Mt 5:27-32
Đôi mắt
Đừng nói tâm trí các bạn trong sạch nếu như con mắt các bạn không trong sạch, bởi vì con mắt không trong sạch là sứ giả của một tâm hồn thiếu trong sạch. (Thánh Augustinô)
Nét đẹp của người khác phải luôn hấp dẫn mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, nó cũng dễ làm nảy sinh dục vọng, khiến lòng ước muốn chiếm hữu trỗi dậy trong ta. Nếu như ta không đủ tỉnh táo phân định đâu là giới hạn không nên vượt qua, và đâu là cái đẹp mà ta có thể tiếp nhận.
Chúa Giêsu nói cái gì trở nên dịp tội thì hãy lo cắt đi, chấp nhận mất một bộ phận mà tránh được hoả ngục. Ở đây không hiểu theo nghĩa đen là phải chặt tay móc mắt, vì nếu thế thì không còn ai toàn vẹn vì bản năng yếu đuối của con người. Điều Chúa muốn nói ở đây chính là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Nghĩa là phải cất đi và xa lánh những nguy cơ có thể đẩy chúng ta đến phạm tội, dù phải chấp nhận phần thiệt về mình, như lánh xa những ấn phẩm đen, không đến những nơi chốn không thích hợp, tránh dùng những thức uống làm mình mất kiểm soát…
Chúa Giêsu cảnh tỉnh mỗi người phải biết đề phòng trước những ước muốn, khao khát bất chính nơi tâm trí mình. Khi chúng ta nhìn người khác phái mà muốn chiễm hữu họ với tà tâm, hay muốn chiếm đoạt những thứ không phải của mình, chúng ta đã phạm tội trong tư tưởng.
“Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném nó đi, vì thà mất một phần thân thể còn hơn cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục.”(Mt 5,29)
“Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Lời Chúa không dạy chúng ta sống cực đoan, nhưng là dạy phải có một thái độ tích cực, dứt khoát tận căn đối với tội lỗi: Muốn tránh tội phải khử trừ nguyên nhân và phương tiện phạm tội. “Thà mất một phần thân thể còn hơn là cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục.
Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”. Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, dứt khoát với tội để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục”.
Làm sao giữ được mắt đơn sơ trong sáng, để tôi nhìn được hết mọi vẻ đẹp của mọi thu tạo Chúa dựng nên mà lòng không ước muốn tham lam bất chính? Lạy Chúa, từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi trưởng thành, con người đã phải chứng kiến bao điều: Cha mẹ cãi vã, huynh đệ tranh chấp bất đồng, xóm làng mâu thuẫn, đồng nghiệp đố kỵ, xã hội bất công, lớn ức hiếp bé, kẻ mạnh bắt nạt kẻ yếu, thế giới tương tàn tiêu diệt lẫn nhau…; Những điều đó đã hình thành một phần méo mó trong nhân cách con người; Khiến con người thường có những tình cảm ghen tương và đố kỵ lẫn nhau. Và làm cho cuộc sống thêm tồi tệ!
Mặt khác, kỹ nghệ khoa học thông tin phát triển làm cho con người được mở ra với thế giới, nhưng đồng thời cũng làm cho thế giới con người thu hẹp lại; Người ta chỉ chăm chú nhìn vào quảng cáo, báo chí, điện thoại, màn hình ti vi và vi tính…; Tương quan giữa người với người trở nên nghèo nàn. Trong một gia đình, ngoài những lúc làm việc cha mẹ, con cái mỗi người cắm mắt vào một chiếc điện thoại và chẳng ai nói với ai hoặc quan tâm tới ai đã dẫn đến biết bao bi kịch gia đình, vì huyết mạch của chia sẻ và cảm thông bị tắc nghẽn. Đồng thời biết bao những thông tin, hình ảnh bạo lực, khiêu dâm và thiếu lành mạnh là căn cớ cho những tội ác và gây ô nhiễm tâm hồn con người, môi trường xã hội. Và còn nhiều nữa, biết bao điều tốt xấu xảy ra do ánh mắt, cái nhìn của con người.
“Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi.”(Mt 5, 29-30a)
Có phải Chúa Giê-su mong muốn điều này theo đúng nghĩa đen, là phải móc mắt, chặt tay nếu vấp phạm chăng? Chúng ta có thể chắc chắn rằng những ngôn từ gây sốc này không phải là một mệnh lệnh thông thường mà hơn thế nó chính là một mệnh lệnh mang tính ẩn dụ nhằm để ra lệnh cho chúng ta hết lòng tránh xa tội lỗi và tất cả những việc dẫn chúng ta phạm tội.
Điều mấu chốt giúp chúng ta hiểu rõ về bản văn Tin Mừng hôm nay là thái độ và lời lẽ mạnh bạo mà Chúa Giêsu dùng. “Hãy móc mà ném ném đi…hãy chặt mà ném đi“, Ngài không chút do dự khi dùng những từ ngữ mang tính mệnh lệnh và cách nói gây sốc như thế để tỏ lộ cho chúng ta về lời mời gọi hãy dứt khoát đương đầu với những thứ cám dỗ trong cuộc sống, những thứ đang dẫn đưa chúng ta đến việc phạm tội.
Đôi mắt được hiểu như cửa sổ của tâm hồn, nơi mà mọi suy tư và khát khao đều được thể hiện qua đó. Đôi tay dường như là một biểu tượng cho các hành động của chúng ta. Vốn dĩ đôi mắt, cánh tay không mang tội, nhưng đúng hơn trong bài tin mừng, chúng lại được nhắc đến như những duyên cớ dẫn lối chúng ta đến với tội lỗi. Vì vậy, nếu những suy nghĩ, hành động nào làm cớ cho ta vấp phạm thì phải loại bỏ nó ngay lập tức mà không do dự hay thoả hiệp.
Hôm nay, chúng ta hãy suy ngẫm về những câu nói rất đỗi thẳng thắn và mạnh bạo của Chúa Giêsu. Hãy để chính sự cương quyết trong lời của Ngài trở nên động lực cho sự thay đổi và tránh xa tất cả tội lỗi nơi chúng ta.
“Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Lời Chúa không dạy chúng ta sống cực đoan, nhưng là dạy phải có một thái độ dứt khoát tận căn đối với tội lỗi: Muốn tránh tội phải khử trừ nguyên nhân và phương tiện phạm tội. “Thà mất một phần thân thể
còn hơn là cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục.”
2022
Đừng vụ luật
9.6 Thứ Năm trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
1 V 18:41-46; Tv 65:10,10-11,12-13; Mt 5:20-26
Đừng vụ luật
Công chính là đức tính rất cần thiết của con người nói chung. Nhưng đối với người tín hữu thì sự công chính này còn cần hơn gấp bội, và đức công chính phải trọn hảo hơn nữa, vì nó được xây trên nần tảng tình yêu và phát xuất từ chính tình yêu. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ một lý tưởng sống mới, đó là phải công chính hơn những người biệt phái: “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các Kinh sư và người Pharisiêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5, 20).
Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người biệt phái. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.
Sau đó Chúa Giêsu đưa ra thí dụ về cách giữ một số khoản luật:
Luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.
Luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình.
Chúa Giêsu đến trần gian không phải để phá bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng chỉ đến để hoàn thiện thôi. Vì thế, Ngài sửa đổi tệ tục trong đời sống xã hội, gia đình và tôn giáo, điển hình như thái độ đối với kẻ thù (Mt 5,17-48).
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu kêu gọi môn đệ Ngài phải công chính hơn các luật sĩ và biệt phái (nghĩa là đừng bao giờ tự mãn vì đạo đức của mình). Một phương diện cụ thể của đức công chính mới là tương giao: phải coi mọi người là anh em của mình (chữ “anh em” được lặp đi lặp lại nhiều lần nhất trong đoạn này). Trên cơ sở tình huynh đệ ấy, đừng mắng chửi, cũng đừng nuôi giận hờn lâu, hãy cố gắng làm hoà với nhau.
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các luật sĩ…”
Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ cũng như chúng ta phải công chính hơn các luật sĩ và biệt phái. Điều này có nghĩa là chúng ta phải giữ luật, bất cứ luật gì, đều phải trọn vẹn cả hình thức lẫn nội dung, bên ngoài cũng như ý hướng nội tâm: lý do là vì Chúa thấu suốt cả bên ngoài lẫn bên trong con người chúng ta.
Các luật sĩ và biệt phái chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài của luật, nhưng chúng ta phải giữ luật từ ý hướng bên trong là căn bản, biểu lộ ra bên ngoài là hình thức.
“Chớ giết người, kẻ giết người sẽ bị kết án”
Luật cũ chỉ đòi hỏi bảo vệ thể xác con người khi áp dụng điều răn thứ năm: chớ giết người. Còn Đức Giêsu lại đi xa hơn, Ngài dạy: phải bảo vệ con người cả thể xác lẫn tinh thần. Luật mới của Chúa vượt trên luật cũ của Cựu ước và vượt trên cả công lý nữa, nghĩa là công lý hay luật pháp chỉ kết án một người phạm tội giết người cụ thể, rõ ràng. Còn Chúa nói đến nguồn gốc của tội là gì và kết án ngay từ trứng nước.
Nói rõ hơn, người xưa chỉ kết tội khi giết người, còn Chúa lên án ngay từ đáy lòng kẻ mắc tội ấy, vì kẻ giết người thì thường bắt đầu từ chỗ ghen ghét, ganh tị, giận dỗi, tức giận, và Chúa cấm ngay từ chỗ tư tưởng đó chứ không chờ cho việc xảy ra bằng hành động, Chúa cấm từ trong trứng nước là thế.
“Nếu khi anh sắp dâng lễ vật… hãy đi làm hoà với anh em trước đã”
Chúa dạy chúng ta phải làm hoà với nhau trước dâng của lễ cho Thiên Chúa. Hoà giải là một danh từ của thời đại, hoà giải là một nhu cầu cần thiết của thời đại, vì thế hoà giải là mục tiêu phải đạt tới của nhiều phe nhóm kình chống nhau, cũng như của các quốc gia trước đây, coi nhau như thù địch.
Trên bình diện tôn giáo cũng thế, các hoạt động đại kết của các Giáo hội Kitô chỉ đạt được, nếu có sự hoà giải chân thành, khiêm tốn, nhìn nhận lỗi lầm của mình, đồng thời cố gắng tìm hiểu nhau, khám phá những gì giúp liên kết nhau, hơn là đào sâu hố chia rẽ.
Chúa Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn. Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người. Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em, và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa, thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được. Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát. Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương. Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình, rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23–24).
Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha? Để đến được với người đang xích mích với mình, cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy. Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình, đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương. Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.
“Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay, một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng.
Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày, những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch. Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết. Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người. “Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình. Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi, những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình. Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ. Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay. Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình? Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống? Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người, trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động, vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Hôm nay Chúa có ý bảo chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Tha thứ là điều kiện để được thông hiệp với Thiên Chúa. Vì thế trong phụng vụ thánh lễ, để xứng đáng cử hành và tham dự, nhất là để hiệp lễ, Hội thánh đòi hỏi chúng ta phải sám hối và tha thứ cho nhau.
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết phục vụ âm thầm. Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết yêu thương tự hiến. Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm. Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
2022
Kiện toàn lề luật
8.6 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
1 V 18:20-39; Tv 16:1-2,4,5,8,11; Mt 5:17-19
Kiện toàn lề luật
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ sứ mạng của Người đến không phải để phá hủy Lề Luật nhưng là để kiện toàn. Chúa Giêsu còn cho biết ý nghĩa của việc giữ Luật, đó là điều kiện tiên quyết để vào Nước Trời, người ấy được tôn trọng như người lớn trong Nước Trời. Ngược lại, ai khinh thường, chống đối thì là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời.
Thời Cựu ước, trên núi Sinai, Đức Chúa trao cho ông Môsê hai bia đá có khắc Mười điều luật để ông trao cho dân Ítraen như một giao ước thánh. Ông Môsê đã làm một cái hòm để đựng gọi là Hòm Bia Giao Ước hay Khám Giao Ước. Hòm Bia được đặt ở trong lều ở trung tâm trại của Israel được gọi là Lều Giao Ước. Ngày ấy, Thiên Chúa nhận dân Ítraen làm dân riêng và hứa sẽ che chở họ, còn dân thì hứa trung thành thờ phượng một mình Thiên Chúa và tuân giữ luật Người ban. Thế nhưng, lịch sử cho thấy, dân Ítraen đã phản bội Đức Chúa, họ chạy theo thờ cúng các thần của dân ngoại. Vì thế, Đức Chúa đã ký kết với dân giao ước mới bằng máu của Đức Giêsu.
Trước kia, luật Chúa ghi trên phiến đá, nay Đức Giêsu đến nội tâm hóa các điều luật và ghi vào tận sâu thẳm trái tim con người. Đó chính là luật yêu thương. Luật đó không ghi lại bằng chữ viết nhưng bằng hành động cụ thể. Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa, Người đã sống đến tận cùng của tình yêu, Người đã trao hiến chính bản thân mình trên thập giá để cứu độ nhân loại.
Đức Giêsu đem lại cho luật Môsê ý nghĩa đích thực. Luật Môsê chỉ có giá trị tạm thời. Vì Đức Kitô đến để kết thúc giai đoạn con người tìm cách nên công chính qua Lề Luật Môsê. Xác tín về sứ mệnh của Đức Giêsu, thánh Phaolô tông đồ đã khẳng định “Cứu cánh của Lề Luật là Đức Kitô, khiến bất cứ ai tin đều được nên công chính” (Rm 10,4). Với Đức Giêsu, tất cả các điều luật của Chúa chỉ tóm gọn một điều, đó là luật yêu thương. Ai sống trọn chữ “Yêu”, người đó đã chu toàn Lề Luật (Rm 13,10b).
Con người ngày nay thích tìm sự dễ dãi, họ xem Luật Chúa như một gánh nặng cổ hũ. Đây chính là nguyên nhân gây ra biết bao hệ lụy đáng buồn. Trong Sứ điệp Mùa Chay, Đức Thánh Cha Phanxicô cảnh tỉnh mọi tín hữu đừng để các tiên tri giả mê hoặc, đừng để tình yêu trở nên nguội lạnh, hãy dấn thân sống trọn tinh thần mùa chay. “Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người sẽ bị nguội lạnh” (Mt 24,12). Người ta xa lìa Thiên Chúa để chạy theo những tiên tri giả. Bao nhiêu người trẻ tìm phương được giả dối trong ma túy, trong những quan hệ “dùng rồi bỏ”, kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính! Bao nhiêu người khác nữa bị vướng vào một cuộc sống hoàn toàn là ảo, trong đó những tương quan có vẻ đơn giản và mau lẹ hơn, nhưng rồi chúng vô nghĩa một cách bi thảm!
Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
Vì thế, mỗi người chúng ta được kêu gọi phân định trong tâm hồn và cứu xét xem mình có bị đe dọa vì những điều giả dối của các tiên tri giả ấy hay không. Cần học cách không dừng lại ở mức độ gần kề, hời hợt, nhưng nhận ra điều để lại trong chúng ta dấu vết tốt lành và lâu bền hơn, vì nó đến từ Thiên Chúa và thực sự có giá trị mưu ích cho chúng ta.
Kiện toàn lề luật mà Đức Giêsu dạy chúng ta là không bãi bỏ luật nhưng mặc cho luật một tinh thần mới, nghĩa là vượt qua sự giữ luật cách tiêu cực để thi hành cách tích cực trong Đức Kitô: Giữ luật không vì sự bó buộc phải làm, mà là với cả sự tự do muốn làm vì lòng mến Chúa và tha nhân, biến luật từ việc kìm hãm bản thân thành sự thanh thoát thánh hoá bản thân, giữ luật không dừng lại ở sự thể hiện ở ngoài mà là cả một tâm hồn ngay thẳng và trong sạch.
2022
Muối và Ánh Sáng
7.6 Thứ Ba trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
1 V 17:7-16; Tv 4:2-3,4-5,7-8; Mt 5:13-16
Muối và Ánh Sáng
Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Đây là đoạn Tin Mừng tiếp theo bài giảng về Tám Mối Phúc Thật, nhằm nói lên bản chất và sứ mệnh của người môn đệ trong xã hội trần thế. Bản chất việc tông đồ của họ là muối mặn ướp cho đời khỏi hư hỏng và là ánh sáng soi đường cho thế gian. Họ có sứ mệnh loan truyền Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Để chu toàn được sứ mệnh khó khăn này thì người môn đệ của Chúa phải trở thành thứ muối có chất mặn và là cây đèn có thể cháy sáng và được đặt lên đế đèn cao để soi sáng mọi vật trong nhà. Nghĩa là họ phải sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, để nhờ nếp sống tốt lành trổi vượt này, người đời sẽ được cảm hóa và đón nhận Tin Mừng do họ rao giảng.
Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.
Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: “Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa”.
Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa dạy chúng ta phải trở thành muối mặn và chiếu ánh sáng giúp người đời nhận biết ca ngợi Chúa. Trong thực tế, xin Chúa giúp chúng ta biết khuyên can bạn bè bằng lời nói chân tình phù hợp với hòan cảnh và khả năng của chúng con. Xin cho chúng con luôn quên mình yêu thương phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, để nên muối men cho đời, trở thành ánh sáng chiếu soi trần gian. Xin cho các bậc cha mẹ biết nêu gương sáng công chính, hòa thuận, khiêm tốn và đạo đức khi phải giáo dục đức tin cho con cái. Xin Chúa giúp chúng ta biết quên mình phục vụ những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi… Vì họ chính là hiện thân của Chúa.