2022
Ðôi mắt đức tin
16/2 Thứ Tư trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Gc 1:19-27; Tv 15:2-3,3-4,5; Mc 8:22-26
Ðôi mắt đức tin
Tin Mừng theo thánh Marcô mà chúng ta lắng nghe hôm nay, thuật lại việc Chúa Giêsu cho một người mù được thấy. Ðặt câu truyện này vào bối cảnh cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái cũng như với các môn đệ, thánh Marcô muốn cho chúng ta thấy rằng đức tin tức ơn sáng mắt là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng tức trong ánh sáng riêng của họ để khước từ Chúa, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ của Chúa Giêsu. Chữa lành cho người mù, Chúa Giêsu vừa tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.
Trước tiên, Chúa Giêsu cầm tay người mù và dẫn anh ra khỏi làng, như muốn tránh sự ồn ào của dân chúng, trong khi Chúa đang cần sống im lặng để giáo huấn các tông đồ, và đó cũng là lý do Chúa bảo anh ta sau khi được khỏi hãy đi thẳng về nhà chứ đừng vào làng nữa. Đồng thời, việc đó cũng muốn nói lên rằng người ta có được đức tin là do sự gặp gỡ riêng tư cá nhân với Chúa.
Tiếp theo, Chúa Giêsu đã dùng nước miếng xoa lên mắt người mù. Nước miếng theo quan niệm người xưa, có thể là vị thuốc để trị về mắt và những phần khác của cơ thể (Mc 7,33; 8,23). Vì thế, việc Chúa Giêsu dùng nước miếng xoa vào mắt không phải là thứ dị đoan, nhưng mang ý nghĩa tượng trưng mà qua đó Chúa muốn tăng cường lòng tin còn thiếu nơi anh mù.
Cuối cùng, khi Chúa đặt tay vào mắt anh ta, người mù được thấy dần dần. Chúa hỏi anh: “Con có thấy gì không?” Anh nhìn lên trả lời: “Tôi thấy người ta như những cây cối đang đi” Chúa lại đặt tay lên mắt người mù lần thứ hai và anh được khỏi hẳn: mắt sáng và nhìn rõ mọi vật.
Bối cảnh của đoạn Tin Mừng được đặt sau cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu với nhóm Biệt phái, cũng như sự kém lòng tin của các môn đệ, và trước lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Thánh Máccô muốn cho chúng ta thấy rằng ơn sáng mắt đức tin là một ơn nhưng không của Thiên Chúa. Những người Biệt phái đã tự giam hãm trong sự mù quáng của họ, nên đã khước từ Chúa Giêsu, đồng thời chối bỏ chính ánh sáng của Thiên Chúa; trong khi đó, các môn đệ lại lơ đễnh đến độ không thể thấy được ý nghĩa các phép lạ Chúa Giêsu đã làm. Vì thế, phép lạ Chúa Giêsu chữa lành cho người mù hôm nay vừa bày tỏ quyền năng của Ngài, vừa cho thấy chỉ mình Ngài mới có thể ban cho con người ánh sáng mới, nhờ đó con người có thể thấy được Thiên Chúa.
Cũng vậy, con người sinh ra đã mang sẵn trong mình bệnh mù tâm linh. Qua phép rửa tội, chúng ta đã nhận được ánh sáng của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta vẫn tiếp tục bước đi giữa ánh sáng và bóng tối, nên có thể bị quáng gà, cận thị, viễn thị trong phạm vi siêu nhiên, bởi tham sân si, bởi tiền của, chức quyền, danh vọng, cùng với sự tự cao, tự đại của mình. Vì thế, nơi trần gian này chúng ta hiểu chân lý của Chúa mới như là nhìn vào gương, nhưng trên trời chúng ta sẽ đối diện với Chúa và lúc bấy giờ sẽ thấy rõ.
Chấp nhận một Thiên Chúa quyền năng, oai phong mạnh mẽ thì dễ nhưng để nhận biết một Thiên Chúa bị người ta sỉ nhục, chịu đau đớn, chịu đóng đinh thì vô cùng khó. Chỉ sau khi Đức Giêsu phục sinh, Phêrô và các môn đệ mới “tỏ tường mọi sự”. Con mắt đức tin của các ông mới hoàn toàn sáng tỏ. Các ông mới thực sự thấy ánh sáng của Thiên Chúa qua Đấng Phục Sinh, Đấng đã tự hiến mạng sống mình để cứu nhân loại.
Hơn bao giờ hết, con người thời nay cũng đang tìm kiếm một Thiên Chúa theo ý họ. Họ đòi Thiên Chúa phải làm những phép lạ, họ chỉ tin Thiên Chúa của sức mạnh, của chiến thắng, của thành công. Trước bao nhiêu thảm họa của cuộc sống, họ đặt vấn đề liệu có Thiên Chúa hay không? Tại sao Ngài cứ im lặng mãi? Còn tôi, tôi có nhận ra sự hiện diện thật sự của Thiên Chúa trong cuộc đời tôi không?
Ước gì chúng ta luôn học hỏi và suy niệm lời Chúa, để được ánh sáng của lời Chúa chiếu soi bước đường chúng ta đi, giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa bằng đôi mắt đức tin trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống. Nhờ đó, chúng ta có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc đời và luôn vững tin nơi quyền năng và tình yêu của Chúa. Amen.
Qua phép Rửa, chúng ta nhận được ánh sáng của Thiên Chúa, Ngài ban cho chúng ta chính đôi mắt của quả tim để có thể nhìn thấy Ngài trong mọi sự và trong từng phút giây cuộc sống. Ước gì chúng ta luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa, để chúng ta có thể vượt thắng mọi gian nan thử thách trong cuộc sống và luôn tin vững nơi tình yêu của Chúa.
2022
Tín thác vào tình yêu của Chúa
15.2 Thứ Ba trong tuần thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Gc 1:12-18; Tv 94:12-13,14-15,18-19; Mc 8:14-21
Tín thác vào tình yêu của Chúa
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu ngồi trên thuyền với các môn đệ để đi về hướng Betsaiđa; Ngài lợi dụng những giây phút rảnh rỗi để trắc nghiệm phản ứng của các ông về những phép lạ Ngài đã thực hiện, đặc biệt là phép lạ bánh và cá hóa ra nhiều.
Tin Mừng hôm nay có liên quan tới câu chuyện Tin Mừng về việc Chúa Giê-su làm phép hóa bánh ra nhiều (Mc 8, 1-10). Phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giê-su không chỉ muốn thể hiện uy quyền nhưng quan trọng hơn, Chúa Giê-su muốn hướng lòng dân chúng tới một thứ bánh “thiêng liêng” hơn là đơn thuần là thứ bánh vật chất. Thế nhưng, những người biệt phái và ngay cả các môn đệ thân cận với Chúa cũng mang thật nặng chất “con người”. Sau phép lạ bánh hóa nhiều, điều còn dư âm lại trong trí các môn đệ chỉ là… bánh, thứ bánh ăn rồi vẫn đói, không có gì hơn! Các môn chỉ nghĩ đến những cái trước mắt, những cái vật chất của thế giới trần tục này.
Các ông chưa biết đi từ dấu chỉ ấy để vươn lên tới chỗ nhận ra uy quyền của Chúa Giêsu. Ðức Giêsu muốn hướng các ông có cái nhìn cao hơn, khát khao những điều vĩ đại hơn thuộc thế giới thần thiêng. Vì quá quan tâm vướng bận đến tranh cải về việc thiếu mang bánh vật chất, Chúa Giê-su định hướng lại cho các môn đệ sự hiện diện của chính Chúa là Đấng quyền năng có thể biến cái không thành có.
Vượt lên trên cái “bình thường” của con người để tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa luôn luôn là một thách đố đối với các môn đệ xưa và cũng là của mỗi người bước theo Chúa Giê-su hôm nay. Chất “men biệt phái” trong mỗi người luôn trội lên trong rất nhiều sự kiện: một chút thiếu thốn ập đến, hay một ơn lành nào xảy ra, hoạn nạn xảy ra…dường như rất nhiều lần ta thường dừng lại ở sự kiện đó mà quên mất ý nghĩa hay thánh ý bên trong những sự kiện tưởng là tình cờ.
Trước một sự việc không may xảy ra, nhiều lần ta cũng như các môn đệ xưa việc đầu tiên là loay hoay xoay sở đủ cách, tìm mọi cách giải quyết và để Thiên Chúa “ngoài cuộc” và quên mất sự hiện diện của Chúa ở giữa cuộc sống của mỗi người và của sự vận hành của vũ hoàn. Rất nhiều lần ta hành xử như là ta có thể tự mình lo liệu mọi việc. Chúa hoàn toàn đứng bên lề cuộc đời.
Khi cảnh giác các môn đệ phải tránh men của Biệt phái và men của Hêrôđê, Chúa Giêsu có ý ám chỉ đến sự mù quáng và những thành kiến của những nhóm người này. Chúa Giêsu đã dùng chữ “men” để nói đến tinh thần kiêu ngạo và thái độ mù quáng ấy. Thế nhưng, các môn đệ đã không hiểu được kiểu nói bóng bẩy ấy, đầu óc các ông còn đầy những bận tâm về vật chất.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra khỏi những bận tâm vật chất ấy để hiểu được ý nghĩa các phép lạ và sứ điệp của Ngài. Ðó cũng chính là nội dung của chương trình huấn luyện mà Ngài đeo đuổi trong ba năm rao giảng của Ngài. Mãi đến lúc Ngài bị bắt và chịu treo trên Thập giá, xem chừng các môn đệ vẫn chưa hiểu được chiều sâu sứ điệp của Ngài. Mơ tưởng của những người dân chài này là được trở thành công hầu khanh tướng trong vương quốc trần gian mà họ nghĩ là Chúa Giêsu đã đến để thiết lập.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài hãy vượt lên những bận tâm vật chất để đi vào chiều sâu sứ điệp của Ngài. Ðiều đó cũng có nghĩa là tin vào quyền năng của Ngài, hoàn toàn phó thác cho Ngài. Giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, con người dễ dàng chạy đến với Chúa: đó là thái độ rất chính đáng, bởi vì qua cử chỉ ấy, con người tuyên xưng niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy có một thái độ vô vị lợi hơn, hoàn toàn tín thác vào tình yêu của Ngài. Một thái độ như thế sẽ cho chúng ta nhận ra tình yêu của Ngài, và cho chúng ta thốt lên như các vị thánh: “Tất cả đều là hồng ân của Chúa” bởi vì tình yêu của Ngài vượt trên mọi tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng. Ngài khuyên họ tránh khỏi men Biệt phái tức là đề phòng khỏi thái độ cứng tin. Bài học được Chúa Giêsu đưa ra giữa lúc Ngài và các môn đệ đang vượt biển sang Bethsaibê. Lên thuyền, các môn đệ mới sực nhớ chỉ còn một chiếc bánh. Nỗi lo lắng của họ biểu lộ qua lời đối đáp với nhau. Chúa Giêsu nhân cơ hội này nhắc lại cho các ông phép lạ bánh hóa nhiều mà Ngài đã thực hiện mấy ngày trước đó. Một lần với 5 chiếc bánh, Ngài đã hóa nhiều cho trên 5.000 người ăn ; và một lần khác từ 7 chiếc bánh, Ngài đã nuôi sống trên 4.000 người. Lần nào dân chúng cũng được ăn no nê mà bánh vẫn còn thừa. Nhắc lại các phép lạ ấy Chúa Giêsu kêu gọi các môn đê đặt trọn tin tưởng vào Ngài .
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn, tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa mọi nơi mọi lúc, nhất là những lúc khó khăn, thử thách.
Khi phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay phù trợ, che chở và đỡ nâng chúng ta.
2022
ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
14.2 thứ 2 Thánh Cyril, Đan Sĩ, và Mêthôđiô, Gm
Gc 1:1-11; Tv 119:67,68,71,72,75,76; Mc 8:11-13
ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
Cyrillô và Mêtôđiô thuộc về một gia đình nghị viện miền Thessalônica. Triều đình đã muốn xem người con trưởng sáng sủa xinh đẹp như thần đồng. Nhưng đối với anh sự khôn ngoan đáng quí chuộng hơn mọi hư danh trần thế.
Người con út có tính cách vừa trầm tư vừa hung hăng hay lý sự nữa. Sau khi theo học ở tại Constantinople, hai anh em đều chíếm giữ những chức vụ thuộc dân sự. Cyrillô làm giáo sư triết học. Sau cùng thì lần lượt họ đạt tới lý tưởng làm linh mục.
Nhà vua Moravia xin hoàng đế gửi các thừa sai tới. Vì biết tiếng Slave nên hai anh em đã được chọn. Các ngài đã phát minh ra mẫu tự Slave cũng như văn chương người Slave sau này được mọi người chấp thuận.
Cyrillô còn học tiếng Hipri để tranh luận với người Do Thái. Hai anh em thừa sai thực hiện hoạt động vừa chính trị vừa tôn giáo. Các ngài sẽ tổ chức Kitô giáo ở Bulgaria, Moravia và nơi những dân Slave mà bước chân đế quốc đặt tới.
Một giai thoại chứng tỏ tính khí mạnh mẽ và kỳ khôi của Mêtođiô. Ngài chỉ đích danh được thù nhân người Đức của mình để phá tan họ.
Ngài nói: Các ông chống lại sắt thép, các ông sẽ bể sọ. Và đầy nhiệt thành, ngài lau mồ hôi và kể lại một ngụ ngôn:
“Người ta hỏi một triết gia, tại sao ông lại toát mồ hôi như vậy?”
Và ngài thêm vào câu trả lời: Chính vì tôi đã phải tranh luận với những người đần độn”.
Chúng ta đi tìm dấu lạ khắp nơi. Chúng ta đặt ra giá trị cho tất cả những gì có thể cân đo, đong đếm. Không có những điều này, chúng ta coi nhẹ mọi sự. Đời sống thiêng liêng cũng không loại trừ khuynh hướng này. Những phép lạ, lời đáp trả mau lẹ cho những lời chúng ta cầu xin là bằng chứng cho rằng những lời cầu xin đó được lắng nghe, chúng là những dấu lạ mà chúng ta tìm kiếm để tin.
Trong hành vi đức tin, Thiên Chúa vừa cho có ánh sáng, vừa cho có bóng tối. Đức tin, vì thế đòi hỏi phải có sự khó nhọc, chọn lựa, hy sinh và dấn thân. Một đức tin mà đòi hỏi một chứng cớ rõ ràng, thì không phải là đức tin nữa.
Vả lại Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của tình yêu, mà trong tình yêu thì không có sự ép buộc hay cưỡng bức, nhưng là sự tự do, tự nguyện.
Do đó, chúng ta thấy Chúa rất tôn trọng tự do của con người trong niềm tin đối với Ngài. Vì thế Ngài không bao giờ làm dấu lạ để thúc bách người ta tin nhận. Như Tin mừng trình bày, Chúa Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ, trong đó có những phép lạ lớn như dẹp yên bão táp, trục xuất quỷ ra khỏi người ta, chữa một bà loạn huyết, làm cho đứa con gái ông Giairô sống lại, vậy mà người Pharisêu vẫn chưa tin Ngài.
Hôm nay họ lại thách thức Ngài làm một phép lạ từ trời, nghĩa là một phép lạ phát xuất từ chính Thiên Chúa.
Thực ra những phép lạ Chúa làm, nhất là những phép lạ lớn vừa kể đã đủ chứng minh Ngài là Đấng có quyền phép từ trời rồi. Thế nhưng họ không tin là chỉ vì họ ngoan cố, bởi đó Chúa Giêsu nói sẽ chẳng cho họ một dấu lạ nào nữa.
Phép lạ Chúa làm chỉ có ý nghĩa và giá trị cho người thành tâm chứ không cho người Pharisêu cứng lòng. Như vậy, Tin mừng hôm nay cho thấy phép lạ không sinh ra đức tin mà chỉ là dấu chỉ dẫn người ta tới đức tin. Bởi thế, sông đạo mà chỉ quan tâm tới phép lạ (như Lộ Đức, Fatima) thì chưa hẳn là sống đạo thật, sống đạo thật là sống bằng đức tin.
Ngược lại, người có đức tin thật thì nhìn thấy phép lạ trong tất cả mọi việc, kể cả việc nhỏ và tầm thường nhất.
Chúa Giê-su chờ đợi chúng ta có một đức tin chân thành và vô vị lợi. Điều duy nhất phải quan tâm, đó là hành động vì đức tin. Biết rằng Chúa Giê-su nhìn chúng ta, Ngài nhận biết những việc làm của chúng ta, và với cái nhìn đầy yêu thương, Ngài đồng hành với chúng ta từng giây phút của cuộc sống. Nhận biết mình được an toàn trong tay Chúa là bằng chứng hùng hồn về đức tin của chúng ta.
Chúa Giê-su đã ban cho chúng ta dấu lạ chắc chắn về sự hiện diện hằng ngày của Ngài trong đời sống chúng ta. Dấu thứ nhất là thập giá. Chỉ có đức tin mới mở cho chúng ta biết mầu nhiệm của Ngài và giúp chúng ta đương đầu với tội lỗi nhờ lòng thương xót. Tội là nguyên do của những gì nguy hại trong đời sống chúng ta. Thập giá của Đấng chịu đóng đinh là khí giới có thể chữa lành chúng ta. Đức tin cho phép chúng ta nhìn thấy tình yêu Chúa ở trung tâm vũ trụ và thế giới được lôi kéo về Ngài.
Thánh Thể là một dấu lạ nữa mà Chúa để lại cho chúng ta. Đó là dấu lạ mạnh mẽ nhất vì nơi đó chứa đựng tác giả của chính dấu lạ. Chúa Giê-su đã hạ mình qua mọi phương thế để ở lại với chúng ta. Dưới hình bánh rượu, Ngài mạc khải cho chúng ta thấy Ngài muốn gắn bó với chúng ta. Xin cho những dấu lạ này luôn là bảo chứng tình yêu để chúng con nói với Chúa theo cách Ngài muốn được biết, được yêu và được tôn thờ.
2022
BỮA TIỆC GIỮA ĐỒNG VẮNG
- 2Thứ Bảy trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 12:26-32; Tv 106:6-7,19-20,21-22; Mc 8:1-10
BỮA TIỆC GIỮA ĐỒNG VẮNG
Tin mừng theo thánh Matcô hôm nay đã kể lại hành trình giảng dạy và những việc làm của Chúa Giêsu nơi vùng đất của dân ngoại, trong miền thập tỉnh, gần biển hồ Tibêria.
Chúa Giêsu xuất hiện như vị cứu tinh chữa lành mọi chứng đau bệnh trong dân. Đến địa hạt Tia, Người trừ quỷ cho con gái một người đàn bà Hy Lạp, gốc Phinêxi thuộc xứ Xyri (Mc 7, 24-30). Sau đó qua vùng Xiđon, Người còn chữa một người vừa điếc vừa ngọng. Tiếng lành đồn xa, đám dân ngoại nghe và chứng kiến nhiều nhiều phép lạ phi thường Chúa Giêsu đã làm thì kéo đến để nghe Người giảng dạy. Họ đi ròng rã suốt ba ngày đàng và chiều hôm ấy, Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều, dọn một bữa tiệc thịnh soạn giữa đồng vắng đãi bốn ngàn người ăn no nê.
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. So với lần thứ nhất (Mc 6, 30-44), thấy đám đông dân chúng đi theo, các môn đệ xin Đức Giêsu cho họ giải tán vào làng mạc tìm thức ăn. Đức Giêsu đề nghị các ông hãy cho họ ăn. Sau đó Người dùng 5 chiếc bánh và 2 con cá thực hiện phép lạ cho 5 ngàn người đàn ông ăn và còn dư 12 thúng đầy.
Phép lạ lần thứ hai xảy ra là do lòng thương của Đức Giêsu khi thấy đám đông đi theo suốt ba ngày mà không có gì ăn. Từ 7 chiếc bánh và vài con cá nhỏ, Đức Giêsu đã làm phép lạ cho 4 ngàn người ăn no và còn dư 7 giỏ bánh. Trong Kinh Thánh, số 7 tượng trưng cho sự hoàn hảo, cho đức ái và ân sủng của Thiên Chúa. Trong cuộc sáng tạo kỳ diệu, Thiên Chúa đã hoàn tất mọi việc trong sáu ngày và ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi.
Từ đó “số 7” trở thành khuôn mẫu để quy định thời gian làm việc mà chúng ta thường gọi là “một tuần”.Vì thế phép lạ từ 7 chiếc bánh là một bằng chứng sống động cho tình thương của Thiên Chúa. Người không chỉ cho ăn qua cơn đói mà cho cách hào phóng dư thừa suốt chu trình của 7 ngày sống. Người không chỉ đáp ứng nhu cầu vật chất tạm thời mà còn hướng dân chúng đến nguồn lương thực Thần Linh để được sống muôn đời.
Lương thực, ăn uống là nhu cầu sống còn của loài người.Như đám đông dân chúng đi theo Chúa Giêsu, nhân loại hôm nay cũng mong muốn một cuộc sống no cơm ấm áo. Tận sâu trong cõi lòng, chúng ta ấp ủ khát vọng một cuộcsống hạnh phúc, công bằng và bác ái. Đáng tiếc chúng ta lại đặt khát vọng ấy nơi vật chất và nơi con người trần gian nên chỉ nhận được nỗi thất vọng ê chề. Chỉ nơi Chúa Giêsu mới có câu trả lời chính đáng cho mọi khát vọng của chúng ta. Người đã thực hiện tất cả vì yêu thương trong sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Người không chỉ cho ăn bánh vật chất mà còn hiến thân mình làm của ăn nuôi của uống cho loài người được sống đời đời.
Con người được ban cho hai món quà vô giá là sự sống và tình yêu. Sự sống là một huyền nhiệm và tình yêu là điều thiêng liêng cao quý. Tình yêu mang đến cho con người sự sống và sự sống duy trì được là nhờ vào tình yêu. Sự sống và tình yêu đều xuất phát từ Thiên Chúa, hay nói cách khác Thiên Chúa là cội nguồn của sự sống và tình yêu. Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu của Người qua cuộc sáng tạo kỳ diệu để trao ban sự sống cho muôn vật muôn loài. Sự hiện hữu của chúng ta trên cõi đời này là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêunhiệm mầu của Thiên Chúa.
Trong lá thư thứ nhất, thánh sử Gioan đã định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 16). Chân lý này được mặc khải nhiều lần cho dân Chúa. Tình yêu Thiên Chúa hiện diện và đồng hành với dân Israeltrong mọi biến cố. Tình yêu ấy được cụ thể hóa và thành toàn viên mãn nơi Chúa Giêsu, một tình yêu đã hiến dâng đã cho đi đến giọt máu cuối cùng. Tình yêu ấy biểu lộ nơi trái tim từ ái của Chúa Giêsu, một trái tim tỏa ra ngọn lửa nồng ấm thiêu đốt mọi thứ yếu hèn của loài người. Trái tim ấy đã mở ra ôm ấp những tâm hồn đau khổ, xoa dịu mọi vết thương và tha thứ mọi tội lỗi. Chỉ có Thiên Chúa mới thấu hiểu mọi nỗi khổ đau phiền lụy của kiếp người, chỉ có tình yêu mới làm cho con người được sống và sống dồi dào sung mãn.
Không có tình thương nào cao quý hơn tình thương của người đã hy sinh mạng sống vì người mình yêu, một tình yêu được ký kết bằng máu và mạng sống. Lời khẳng định ấy mở ra cho loài người tia hy vọng sau những tháng ngày đi hoang. Tình yêu có một mãnh lực kỳ diệu không chịu khuất phục trướcmột thế lực nào. Biết bao lần loài người đã phản bội, lãng quên lời giao ước để rồi chuốc lấy những đổ vỡ và đắng cay, chuốc lấy những ly tan và chết chóc. Tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa đã xóa nhòa tất cả, cho chúng ta tận hưởng hạnh phúc đích thực.
Nơi Chúa Giêsu, hạnh phúc vượt lên các giá trị trần gian, vượt qua những bãi bờ thác ghềnh danh vọng và quyền lực. Hạnh phúc đó được ấp ủ và dưỡng nuôi trong hạnh phúc lớn lao của người Thiên Chúa Cha – Đấng giàu lòng thương xót. Hạnh phúc ấy được kết tinh trong Người Con duy nhất, trở thành hy tế sống động dâng lên Thiên Chúa Cha.
Với con mắt đức tin, chúng ta biết rằng Thiên Chúa hằng tuôn đổ ân phúc của Người ngay cả lúc chúng ta gặp đau khổ thất bại và mang đầy những lầm lỗi. Vì thế hạnh phúc chính là nhận ra những giới hạn của thân phận con người trước tình thương vô biên của Thiên Chúa. Như bản tình ca được kết dệt bởi những nốt trầm bổng, hạnh phúc không chỉ là lúc chúng ta nhận được nhiều điều may lành nhưng cũng là lúc chúng ta dám cho đi, dám trao tặng, dám hao mòn vì tình yêu; không chỉ là lúc chúng ta sum họp mà cả những lúc chia xa đổ vỡ. Tất cả là hồng ân, không có gì của con người nằm ngoài bàn tay yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Bao lâu sống xa Thiên Chúa là chúng ta phải gánh chịu nỗi bất hạnh. Chỉ phút giây nào chúng ta còn sống trong ân sủng của Thiên Chúa đó là chúng ta đang có hạnh phúc đích thực. Nói như thánh Augustinô “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên trái tim con cho Chúa, linh hồn con còn mãi khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa”.
Ngày hôm nay, để nuôi sống nhân loại, Chúa Giêsu đã lấy chính Thịt Máu Ngài làm lương thực. Với lương thực này, Ngài tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát triển đến mức tối đa. Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Chúa Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo Hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Ðám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát hiện nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
Nếu không có tấm lòng yêu thương, thì chẳng những chúng ta không thể có sáng kiến trong việc cứu giúp người khác, mà còn biện hộ cho khả năng giới hạn của mình và đình hoãn việc trợ giúp. Những lúc ấy, Bí tích Thánh Thể chúng ta đón nhận mỗi ngày trở thành vô hiệu: thay vì là nguồn lương thực không bao giờ cạn thúc đẩy chúng ta quảng đại hiến tặng người khác, nó trở thành gia sản độc quyền và cằn cỗi của riêng chúng ta
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương đám đông dân chúng, dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta cũng được mời gọi “cảm thương” trước nhu cầu của tha nhân. Xung quanh chúng ta còn biết bao người đang chịu cảnh thiếu thốn về của ăn vật chất, thiếu công bằng bác ái. Ước gì chúng ta biết trao cho nhau một cử chỉ yêu thương, một ánh mắt thân thiện, một câu nói cảm thông thể hiện tinh thần Phúc Âm, cho tình thương Chúa thẫm đẫm mọi sinh hoạt của đời sống chúng ta.